• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thời không thể quên
  3. Trang 26

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 25
  • 26
  • 27
  • More pages
  • 42
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 25
  • 26
  • 27
  • More pages
  • 42
  • Sau

Ánh mắt hơn nghìn viên đạn

Hơn 40 mươi năm qua đi rồi nhưng mỗi khi tháng 7 đến, từ trong ký ức tôi hình ảnh của Lân lại hiện ra. Đầu năm 1974 ấy chúng tôi gặp và biết nhau ngày cùng về Trường hạ sĩ quan Trung đoàn Phú Xuân (Thừa Thiên - Huế). Trường đóng quân trong một khu rừng già cạnh Khe Rùa nên cánh lính chúng tôi thường gọi vui là “Trường hạ sĩ quan Khe Rùa!”. Tôi và Lân cùng một tiểu đội, hai đứa lại nằm cạnh giường nhau nên mỗi buổi tối trước khi đi ngủ thường tâm sự với nhau đủ thứ chuyện. Ở chiến trường những đêm như thế chuyện gì rồi cuối cùng cũng quay về những ký ức tuổi thơ với quê hương, những kỷ niệm mơ hồ với những người bạn gái tuổi học trò. Tôi vẫn nhớ Lân rất yêu văn học, đặc biệt là yêu thơ. Ngày ấy ở chiến trường thỉnh thoảng chúng tôi mới có được một quyển Tạp chí Văn nghệ quân đội chuyền tay nhau đọc không còn một chữ. Tôi lại thích làm thơ và được giao phụ trách tờ báo tường của lớp. Những bài thơ tôi làm bao giờ cũng đọc cho Lân nghe, trước khi chép dán lên báo tường. Thơ tôi làm đề tài chủ yếu về quê hương, về chuyện chiến trường, người lính… Hàng tuần vào tối thứ sáu sinh hoạt văn hóa, văn nghệ Lân thường chọn bài thơ của tôi đọc, ngâm trước khi anh Bình lên điểm báo và bình thơ trên báo tường. Tôi nhớ như in có một lần ngâm bài thơ “Bãi tập chiều nay” của tôi, đến khổ thơ: “Bãi tập chiều nay ngả nắng vàng/Mấy con bướm trắng lượn đồi hoang/Ai khéo tay xe từng sợi nắng/Thương tà áo trắng vắng đò ngang…” anh đã bật khóc. Quê hương Lân ở Quảng Ninh, anh thú thật lúc ngâm đến khổ thơ ấy tự nhiên trong anh trào lên một nỗi nhớ tuổi thơ trên những đồi sim tím ngắt về chiều, nhớ biển hoàng hôn vàng rực, nhớ những chuyến phà Bãi Cháy đìu hiu…

Khóa học của chúng tôi kết thúc sau tám tháng, mỗi người trở về đơn vị chiến đấu của mình. Lân về Đại đội 2 làm tiểu đội trưởng, còn tôi vẫn trở lại công việc của một chiến sĩ liên lạc tiểu đoàn, có khi cả tháng không gặp nhau được một lần. Tôi chỉ biết tin Lân qua những cán bộ đại đội lên tiểu đoàn họp, giao ban… Mà trong chiến đấu rất ít khi hội họp. Thường thì chỉ huy qua vô tuyến, hữu tuyến hoặc cán bộ cấp trên xuống trận địa, xuống điểm chốt trực tiếp chỉ huy chiến đấu.

Một lần tôi chuyển điện khẩn lên cao điểm Chúc Mao (một trận địa phòng ngự quan trọng trong cụm tuyến phòng ngự Sơn Na, Hòn Vượn, Động Tranh hướng Tây Thừa Thiên - Huế) cho Đại đội 2 vừa lên thay quân thì gặp Lân. Hai đứa lâu ngày gặp nên kéo nhau vào hầm trú ẩn ngồi hỏi đủ thứ chuyện. Đúng lúc đấy thì máy bay địch ập đến giội bom xuống trận địa. Lân nói với tôi địch chuẩn bị tiến công lên cao điểm và đẩy tôi vào một căn hầm chữ A kiên cố hơn. Lân còn dặn tôi không được ra khỏi hầm ngay khi bom ngớt, vì sau bom là pháo. Bao giờ cũng vậy, đó như là một quy luật của địch trước khi đẩy lính bộ binh tiến công chiếm cao điểm. Pháo địch ngừng bắn, tôi xách khẩu súng AK báng gấp của mình lao ra, Lân lại đẩy tôi vào. Tôi nói như quát: “Cậu quên mất tớ cũng là lính chiến đấu à?”. Lân ôm súng quay về vị trí chỉ huy tiểu đội, anh như con sóc lặn ngụp trong khói pháo và bụi cát đến từng vị trí chiến đấu để chỉ huy. Có những lúc pháo địch bắn dồn dập xuống tôi đã tưởng Lân bị vùi dưới đất nhưng chỉ ít giây sau anh đã đội đất đứng lên, lại lao đi, lại xả súng xuống sườn đồi đẩy lùi những tên địch lì lợm bước qua xác đồng đội của chúng.

Từ ngày rời Trường hạ sĩ quan, hôm ấy là lần đầu tiên tôi được chiến đấu bên cạnh Lân. Và thú thật tôi không nhận ra một Lân trên trận địa chiến đấu và một Lân ở trường, những đêm bên tôi thao thức với những ký ức tuổi thơ, tuổi học trò. Nhiều tình huống trước sự tấn công ồ ạt của lính bộ binh địch lại được sự yểm trợ hỏa lực tối đa, tôi có cảm giác như tuyến phòng ngự phía trước của tiểu đội, trung đội Lân không gượng lại được. Vậy mà giữa hai làn pháo, giữa tích tắc chùn bước của lính bộ binh địch Lân lại đứng bật dậy tay bóp cò, tay giật ném lựu đạn, miệng ra lệnh chỉ huy không ngớt. Bản lĩnh ấy, dũng khí ấy có lẽ đã được tôi luyện qua nhiều trận chiến đấu và nó đã trở thành phẩm chất cần có khi anh là một người chỉ huy sau những ngày miệt mài luyện tập ở trường.

Đêm ấy tôi trở về tiểu đoàn bộ nhưng không kịp quay lại để chia tay Lân. Anh đang chỉ huy tiểu đội sửa sang lại công sự và khắc phục hậu quả sau một ngày chiến đấu ác liệt…

Bẵng đi một thời gian khá lâu tôi đi cùng cán bộ tiểu đoàn chuẩn bị địa hình cho trận đánh mới nên không gặp Lân. Một đơn vị khác đã chốt giữ cao điểm Chúc Mao thay thế cho đơn vị của Lân rút về củng cố lực lượng. Hôm trở về tiểu đoàn bộ tôi xuống vị trí trú quân Đại đội 2 thì gặp Lĩnh. Lĩnh vốn là lính trung đội trinh sát tiểu đoàn được điều về Đại đội 2 làm tiểu đội trưởng vào những ngày cuối cùng đại đội chốt giữ trên điểm cao Chúc Mao. Lĩnh là lính trinh sát, quê anh ở vùng biển Hậu Lộc, Thanh Hóa, tính hay nói và lại nói to nên có biệt danh là “Lĩnh toác”. Gặp tôi chưa kịp hỏi, “Lĩnh toác” đã liến thoắng: “Cậu Lân hy sinh rồi cậu ạ, nó chết mà như sống…”. Nghe vậy tôi sững người lại, không tin vào tai mình nữa. Dường như nhận ra điều gì đấy, giọng Lĩnh nhỏ lại và trầm buồn hơn, khác với giọng toang toác ban đầu.

Lĩnh kể lại rằng buổi sáng hôm ấy anh vừa được tiểu đoàn điều xuống làm tiểu đội trưởng cùng trung đội với Lân. Khoảng hơn 5 giờ chiều thì địch mở đợt tiến công thứ hai lên cao điểm. Suốt đợt tiến công thứ nhất vào lúc mờ sáng chúng bị ta đẩy lùi nhưng quân ta cũng thiệt hại nặng nề. Cả trung đội gom lại chỉ còn quân số hơn một tiểu đội. Cả đại đội phải dàn quân ra chốt giữ các vị trí trọng yếu. Quân chưa kịp bổ sung, người hy sinh vẫn chưa chuyển hết về phía sau. Dường như phán đoán được ý đồ tiếp theo của địch, Lân đã tập hợp số chiến sĩ còn lại động viên anh em quyết tâm giữ trận địa bằng mọi giá. Người còn ít nên tuyến phòng ngự phải rộng ra, mỗi người phải sử dụng nhiều loại vũ khí cùng một lúc để tập trung hỏa lực. Tại vị trí phòng ngự của Lân chất đầy vũ khí đã nạp đạn sẵn. Nhiều vũ khí của các chiến sĩ đã hy sinh dồn lại chia cho từng người…

Trận đánh cuối cùng trong ngày nên địch tập trung hỏa lực dồn dập như muốn băm nát cao điểm. Bộ binh địch xông lên ở hướng chủ yếu nhưng không thể nào ngóc lên được. Chúng thay đổi chiến thuật sử dụng lực lượng chuyển hướng tiến công sang trung đội của Lân. Các chiến sĩ của ta với hỏa lực tập trung trong tay hết súng này đến súng khác đã chặn đứng địch, kiên cường giữ chốt. Khi Lĩnh phát hiện ra bọn địch ra hiệu rút quân cũng là lúc vị trí chốt giữ của Lân không còn nghe tiếng súng nổ. Lĩnh chạy dọc theo chiến hào đến vị trí của Lân mới nhận ra Lân đã hy sinh. Lân hy sinh trong tư thế đang nhoài người lên bờ công sự mắt mở to nhìn thẳng về hướng địch. Anh ôm chặt khẩu trung liên RPK, ngón tay trỏ vẫn đặt trong cò súng…

Kể xong câu chuyện, Lĩnh thốt ra một câu: “Đến bây giờ mình vẫn không quên tư thế tiến công ấy, đôi mắt ấy. Lân hy sinh rồi mà ánh mắt vẫn như có nghìn viên đạn!”…

Hơn bốn mươi năm qua không biết bao nhiêu lần tôi đặt chân đến Quảng Ninh. Không biết bao nhiêu lần tôi đã kể câu chuyện về sự hy sinh ấy với đồng đội, bạn bè, cả với người mới quen biết. Mỗi lần giở quyển nhật ký chiến trường xưa tôi vẫn ngậm ngùi bắt gặp dòng chữ nắn nót Lân ghi cho tôi ngày còn ở “Trường hạ sĩ quan Khe Rùa”: “Nguyễn Hồng Lân, Mỏ than Cọc 6, Cẩm Phả, Quảng Ninh”.

Tôi vẫn còn mắc nợ với anh cái dòng địa chỉ hơn bốn mươi năm qua vẫn chưa phai mờ ấy!