Vào một ngày cuối năm 1974, tôi nhận nhiệm vụ xuống làm tiểu đội trưởng một tiểu đội của Đại đội 1, Tiểu đoàn 1. Đại đội 1 đang chốt giữ trên một quả đồi không tên nhưng lại có một vị trí rất quan trọng. Quả đồi không tên ấy, nhìn trên văn kiện “Quyết tâm chiến đấu” giống như một gạch nối liên hoàn giữa tuyến phòng ngự Hòn Vượn và Động Tranh. Vì vậy việc đưa quân chiếm giữ trận địa chốt của Đại đội 1 để chia cắt Hòn Vượn, Động Tranh từng bước tiêu hao lực lượng, đánh chiếm từng mục tiêu, phá vỡ thế trận phòng ngự của ta là ý đồ vừa chiến thuật, vừa chiến lược của địch.
Thời điểm tôi xuống Đại đội 1 làm tiểu đội trưởng bộ đội ta gọi trận địa chốt của đại đội là cái “lò nướng quân”. Hàng ngày pháo của địch bắn vào trận địa của đại đội như vãi đạn và không theo quy luật nào. Chúng thường xuyên tung thám báo, biệt kích lùng sục xung quanh trận địa và không ít lần đụng độ nảy lửa với bộ đội ta đi tuần tra, luân chuyển quân, tiếp tế vũ khí đạn dược… Bộ đội ta không chỉ bị thương, hy sinh trên trận địa mà hy sinh ngay cả lúc làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu.
Thấy tôi có vẻ hơi bất ngờ trước quyết định điều động của tiểu đoàn, anh Tăng Văn Phả - Tiểu đoàn phó nói: “Hiện nay Đại đội 1 hy sinh nhiều quá, cán bộ thiếu, chiến sĩ thì mới bổ sung còn ú a ú ớ lắm. Chú mày xuống làm tiểu đội trưởng một thời gian cho rắn nó có đầu! Sau chiến dịch này thì phải trở lại tiểu đoàn làm việc khác”. Tôi định hỏi thêm thì anh Phả đã quay ra, miệng anh lẩm bẩm: “Không biết nó còn trở lại được nữa không, nó mà chết đi thì…”.
Tôi xuống tới hậu cứ Đại đội 1 thì trời đã nhá nhem tối. Căn hầm tôi ngồi có khoảng mươi chiến sĩ mới được điều về, có chiến sĩ thì được điều về từ các đơn vị phục vụ của tiểu đoàn, có chiến sĩ là tân binh. Mỗi chiến sĩ một đơn vị được góp lại chưa quen biết nhau nên họ chỉ ngồi yên. Và dường như sự ác liệt của những trận chiến đấu đầy hy sinh mất mát của đại đội đã ám ảnh trên gương mặt của họ khiến cho bầu không khí của buổi chiều ở hậu cứ càng trở nên nặng nề hơn. Bên cạnh tôi có hai chiến sĩ cũ của đại đội mới xuất viện về nói với tôi rằng mấy ngày nay trên chốt khốc liệt quá, có những ngày đại đội hy sinh gần một nửa, nhiều cán bộ vừa lên thay sau một trận chiến đấu đã hy sinh. Tôi đang ngồi nói chuyện với hai chiến sĩ cũ thì một chiến sĩ liên lạc của đại đội từ trên điểm chốt về báo cáo. Người chiến sĩ liên lạc nhìn một lượt không thấy ai có vẻ là chỉ huy anh ta buông một câu: “Hầm thông tin ở đâu?”. Anh hỏi nhưng không cần ai trả lời, anh chui ra khỏi hầm đi về phía hầm thông tin hữu tuyến. Thấy vậy tôi đi theo anh và nói: “Mình mới được bổ sung về làm tiểu đội trưởng ở đại đội, tình hình có gì cậu cứ nói để mình báo cáo”. Nghe vậy người chiến sĩ liên lạc quay lại hỏi tôi: “Ông làm tiểu đội trưởng tiểu đội nào? Trung đội nào?...”. Lúc đấy tôi mới ngẩn người ra không biết trả lời người chiến sĩ liên lạc như thế nào. Hỏi thế thôi nhưng anh ta không chờ tôi trả lời. “Đại đội trưởng hy sinh, đại đội phó vừa lên cũng hy sinh, hai trung đội trưởng, trung đội phó cũng vừa hy sinh, đại đội còn lại khoảng 20 người như rắn không đầu…” - anh ta nói. Nghe thế, mặc dù chưa nhận được lệnh của trên tôi vẫn quay lại hầm chờ nắm lại quân số hiện có và trực tiếp dẫn quân lên điểm chốt.
Đêm xuống, những đêm chiến tranh không yên tĩnh. Pháo sáng địch vẫn treo dưới vệt khói trắng dài ngoằn ngoèo lơ lửng trên bầu trời. Những loạt súng AK của bộ đội ta và AR15 của địch khi xa khi gần đan nhau trong rừng rậm xung quanh những trận địa chốt. Lực lượng vận tải của ta đang chuyển thương binh, liệt sĩ về hậu cứ. Sau một ngày chiến đấu nhiều chiến sĩ như rã rời chân tay tựa lưng vào vách chiến hào ngáp dài ngáp ngắn… Nói là đại đội phòng ngự nhưng thực chất chỉ có hai trung đội vẻn vẹn còn lại vài chục người. Tôi chia đôi số hơn mười chiến sĩ vừa lên về hai trung đội. Cũng chưa kịp biết tên tuổi quê quán ở đâu nên tôi cứ đếm người mà giao lại. Một nửa đi theo tôi về Trung đội 2, một nửa theo chiến sĩ cũ của đại đội vừa ra viện về Trung đội 1.
Đêm ấy rồi cũng qua đi, tôi thức trắng, anh em có người ngủ như chết. Mờ sáng hôm sau tiểu đoàn lại điều động một trung đội trưởng của Đại đội 2 về làm đại đội phó phụ trách đại đội trưởng. Tôi báo cáo lại với đại đội phó tình hình một đêm qua kể từ khi tôi có mặt. Quân số đại đội lúc đó có hơn 30 người, chia làm hai trung đội phòng ngự hai hướng chủ yếu.
Mờ sáng hôm sau địch lại mở đợt tiến công lên trận địa. Lực lượng tiến công và hỏa lực đi cùng có vẻ yếu ớt và chúng cũng không trút pháo xuống trận địa trước lúc xua quân lên như quy luật thường ngày. Có vẻ như chúng đánh giá lực lượng của ta còn lại quá mỏng, không đủ sức chống cự. Nhưng ngược lại, cả hai hướng phòng ngự của ta bộ đội nổ súng chống trả quyết liệt. Chính tôi cũng không ngờ bản lĩnh chiến đấu của các chiến sĩ đã trải qua nhiều ngày, nhiều trận chiến đấu giữ chốt. Trong đêm họ đã chủ động chuẩn bị hỏa khí, hỏa lực sẵn sàng ở các vị trí phòng ngự trọng yếu. Vì vậy chỉ cần phát hiện địch nhô lên là họ siết cò. Dường như bọn địch đã bị bất ngờ, chúng hò hét nhau tiến công để uy hiếp quân ta nhưng thực chất chúng đã ra hiệu lui quân.
Khoảnh khắc yên lặng sau đợt tiến công mờ sáng, tôi chạy đến vị trí chỉ huy thấy đại đội phó bị thương rất nặng. Tôi bảo đồng chí liên lạc bế đại đội phó vào hầm băng bó sơ bộ lại và gọi thông tin hữu tuyến về sở chỉ huy tiền phương của tiểu đoàn báo cáo. Nghe tôi báo cáo tình hình dường như anh Phả thoáng chút bối rối. Mới mờ sáng đội quân mỏng dính trên điểm chốt tiền tiêu đã như rắn mất đầu. Giọng anh qua tổ hợp rắn đanh nghe như quát: “Cậu cứ xem mặt mà chỉ định người chỉ huy tạm thời, ai muốn nhận chức nào thì nhận, miễn là giữ được trận địa đến khi bổ sung quân mới!”.
Tôi đặt tổ hợp xuống chui ra khỏi hầm nhìn xuống sườn đồi còn khét đặc mùi thuốc súng và lẩm bẩm với chiến sĩ liên lạc: “Có lẽ gần trưa chúng sẽ lại tiến công lên điểm chốt lần nữa”.