Một ngày tháng 10, nhân kỷ niệm ngày thành lập Trung đoàn, chúng tôi họp mặt tại Bảo tàng Chiến thắng B-52 Hà Nội. Những người lính lâu ngày gặp lại chuyện cũ, chuyện mới cứ bíu ríu nhau không dứt. Bỗng một cái vỗ vai làm tôi giật bắn và quay lại. Một người trạc tuổi tôi mập mạp và đen trũi cứ nhìn chằm chặp vào mặt tôi. Trong lúc tôi chưa định hình thì anh ta đã dồn dập hỏi: “Nhớ lại đi… mấy chục năm rồi mới gặp… cậu quên tớ rồi hả…?”. Tôi đang lục lại trong trí nhớ thì phát hiện ra trên trán người đang đứng trước mặt mình một vết sẹo mờ. Tôi thốt lên: “Hùng lì 2 oát… phải không?”. Sau hơn 40 năm chúng tôi lại ôm chặt nhau như ngày chia tay trên sân ga Huế năm 1975.
… Mùa mưa năm 1973 ấy, tiểu đoàn bộ chúng tôi trú quân dưới thung lũng Đồi cây cọ bên cạnh sông Tà Vệ. Thường đến mùa mưa việc vận chuyển, tiếp tế lương thực, thực phẩm khó khăn hơn mùa khô nhiều. Nhưng năm ấy không hiểu sao đói đến thế. Nhiều lần chúng tôi vượt mưa lũ lên trung đoàn bộ nhận lương thực, thực phẩm phải trở về tay trắng. Có những bữa gạo chỉ đủ nấu cháo với thịt hộp cho thương bệnh binh tại tiểu đoàn. Một hôm chúng tôi lên trung đoàn nhận gạo thì được phát toàn đậu xanh. Đồng chí trưởng ban hậu cần trung đoàn nói phải ăn đậu xanh thay thế chờ gạo chuyển vào. Lúc đầu chúng tôi ai cũng mừng rỡ, không có gạo mà được ăn đậu xanh thì ngon gì bằng, còn ngon hơn cả gạo. Thế nhưng chỉ ăn được vài bữa ai cũng ngán đến thấu cổ. Cứ nhìn nồi cơm đậu xanh mở ra ai cũng ngoảnh mặt không muốn nuốt. Chỉ có nồi măng là hết sạch. Đúng là của rừng cho, rừng nuôi bộ đội. Mà cũng lạ thật măng củ nấu với thịt hộp, nấu với cá khô ăn mãi vẫn không chán. Thiếu gạo thì ăn măng trừ bữa, mỗi lần bê bát măng rừng lên ăn tôi lại nhớ thời tuổi thơ quê tôi mùa đói kém nhiều nhà ăn củ chuối trừ bữa. Ở Trường Sơn mùa mưa có hai thứ thừa là nước và măng rừng. Măng tre, măng giang, măng nứa, măng vầu… vào rừng bạt ngàn măng đào không xuể. Măng vầu ở Trường Sơn loại mới nhú mầm lên mặt đất đào xuống có những củ măng to như chiếc mũ cối, nấu, xào với thịt hộp, với cá khô ăn vừa giòn, vừa ngọt như xu hào, như củ đậu…
Vì thế dù trời mưa tầm tã suốt ngày đêm, sông Tà Vệ nước chảy xiết nhưng chúng tôi vẫn thay nhau mang gùi, xẻng chui vào rừng đào măng. Có một chuyện mà đến bây giờ tôi và Hùng gặp nhau vẫn nhớ như vừa xảy ra ngày hôm qua. Hôm ấy hai đứa chúng tôi tranh thủ từ sáng sớm lúc mưa ngớt, nước sông Tà Vệ chưa lên cao chúng tôi vượt sang bờ bên kia để đào măng. Phải nói là chúng tôi cũng quá liều lĩnh vì bên kia sông Tà Vệ là điểm chốt tiền tiêu của tuyến phòng ngự địch, nhưng chủ quan vì nghĩ rằng quân địch không ra khỏi trận địa. Mặc dù mùa mưa nhưng họ không thiếu lương thực vì việc tiếp tế của họ cho các đơn vị trên tuyến đầu đối mặt với ta chủ yếu bằng máy bay trực thăng. Vì vậy họ cũng không phải đào măng rừng ăn thay cơm như bộ đội ta.
Sang được bên kia sông thì trời mưa tầm tã, hai chúng tôi chọn một bụi tre vầu to và bới lớp lá phủ dày trên mặt đất hì hục đào. Trời càng mưa to đào càng dễ, càng sạch, không phải ôm củ măng xuống suối rửa. Đang đào thì cơn mưa tạnh đột ngột, bỗng chúng tôi nghe tiếng cuốc bập vào đất rất rõ. Lính chiến trường nghe tiếng cuốc là phát hiện ra tiếng cuốc của xẻng US (một loại quân dụng của Mỹ, có lưỡi xẻng và lưỡi cuốc khi dùng có thể gập vào mở ra từng lưỡi. Khác với cuốc chim của bộ đội ta). Tôi và Hùng nép vào bụi tre vầu quan sát và nhìn thấy cách chúng tôi vài chục mét có hai người cũng đang đào măng. Nhìn tấm dù khoác và ống quần rằn ri buộc túm trong đôi giày chúng tôi đoán là hai tên thám báo địch chứ không phải là lính bộ chốt trên trận địa. Tôi và Hùng nhìn nhau, nếu để lộ lúc này thật là nguy hiểm. Cả tôi và Hùng đều không mang vũ khí, và lúc này cũng không phải lúc đối đầu với nhau. Thế là hai đứa chúng tôi nép vào bụi tre vầu chờ cơn mưa ập đến và rút xuống bờ sông Tà Vệ. Chọn một đoạn sông rộng, nước không chảy xiết chúng tôi thả mình bơi chéo sang bờ bên kia. Bơi gần cập bờ thì một cành cây lao trong dòng nước lũ đục ngầu xé rách một mảnh trán của Hùng. Lên đến bờ thấy mặt Hùng đầy máu, tôi chỉ biết vắt khô chiếc áo lót lau cho Hùng và hai đứa dìu nhau về vị trí trú quân. Vết thương trên trán Hùng phải khâu ba mũi…
Mấy chục năm qua hôm nay gặp lại, Hùng mập lên nhiều nên vết sẹo có vẻ như mờ đi nhưng vẫn đủ để tôi nhận ra anh và nhớ lại một Hùng chiến sĩ thông tin 2 oát gầy đen có biệt danh “Hùng lì”. Lì bởi vì anh không bao giờ tỏ ra hốt hoảng hoặc sợ hãi trong bất cứ hoàn cảnh chiến đấu nào, cho dù có lúc pháo, bom địch bắn sau lưng, trước mặt, Hùng vẫn tỉnh bơ. Với giọng nói Hà Nội chuẩn, tay vẫn cầm tổ hợp đọc lệnh, truyền tin không sai một từ…
Thời gian qua đi lâu, trong muôn vàn bộn bề cuộc sống mưu sinh vậy mà hôm nay gặp lại Hùng vẫn nhớ như in, trí nhớ anh thật tuyệt vời. Sau lần “bị thương” ấy Hùng lại bị sốt rét nặng nên phải vào trạm xá. Tôi vào thăm Hùng đúng lúc anh đang sốt, cơn sốt rét run bần bật. Khi về tôi làm một bài thơ tặng anh trên báo tường của trung đội thông tin. Hôm nay gặp tôi kể chuyện đào măng, ăn măng trừ bữa bỗng anh lại thốt lên câu thơ tôi viết: “… Những năm tháng ở Trường Sơn/Cơn sốt run căn hầm lót lá/Những năm tháng đói quay, đói lả/Đào củ măng rừng thoi thóp suốt mùa mưa…”.
Như chợt bước ra từ chuyện cũ, tôi đột ngột hỏi Hùng: “Này, hôm ấy nếu hai tên thám báo địch mà nhận ra chúng ta trong tay không có vũ khí thì thế nào nhỉ?”. Vẫn vẻ mặt tỉnh bơ, Hùng bảo: “Thì chúng ta lại phải cầm xẻng VC chọi lại xẻng US chứ sao!”.