Lá thư ấy là lá thư đầu tiên tôi viết vào một đêm, cũng là đêm đầu tiên dừng chân nghỉ trong rừng Trường Sơn. Tôi cũng không nhớ tên trạm, chỉ biết sau hai ngày nghỉ ở trạm giao liên Cự Nẫm (Quảng Bình), chúng tôi vượt Cổng Trời và bắt đầu bước chân hành quân đầu tiên đúng nghĩa vào đại ngàn Trường Sơn.
Leo lên đỉnh Cổng Trời chúng tôi ai cũng ngoái lại nhìn về phía đồng bằng, nhìn về Cự Nẫm. Đó là trạm giao liên cuối cùng người lính nào cũng phải đi qua trước khi đặt chân lên đường Trường Sơn. Đó cũng là trạm cuối cùng những người lính vào Nam ra trận được ở trong nhà dân, được người dân Quảng Bình cưu mang như cưu mang chính những đứa con trước khi vào tuyến lửa. Sau trạm giao liên Cự Nẫm là cuộc hành quân xuyên đèo, vượt núi, xuyên mưa lũ băng rừng…
*
Lại nhớ một chiều, buổi chiều đầu tháng 3 năm 1976 ấy, tôi bước chân xuống thị trấn Cầu Giát quê tôi. Trong gió hiu hiu chiều, tôi như thấy được những kỷ niệm nhọc nhằn của tuổi thơ ùa về sau những năm chinh chiến ở miền xa. Thị trấn xơ xác lặng yên vẫn nguyên những hàng cây bên đường oằn mình chống chọi với bom đạn, với mưa bão. Vẫn những mái ngói rêu phong đìu hiu quanh lối mòn thưa dấu chân người… Tôi cuốc bộ khoảng 7 kilômét từ thị trấn về nhà. Tôi trở về trên con đường vẫn như còn nguyên dấu chân xưa cũ ấy. Những ánh mắt của người cha, người mẹ trên đồng lúa, của em bé đang thả trâu trên cồn cỏ… nhìn tôi. Dường như trong ánh mắt người quê ngày ấy, tôi không phải là một chú bộ đội trở về từ chiến trường miền Nam. Ngày ấy hình ảnh chú bộ đội về làng sau chiến tranh là trên vai một chiếc khung xe đạp, trên ba lô một cô búp bê mắt xanh, tóc vàng. Còn tôi thì lững thững rảo bước đường làng toòng teng một chiếc ba lô lép kẹp. Tôi bước vào căn nhà của tôi, căn nhà nhỏ ven cánh đồng làng nhìn sang một xóm đạo. Không ai ở nhà, bố tôi đi sinh hoạt hội, mẹ tôi đang ở ngoài đồng, em tôi đang đi học. Tôi đứng giữa ngôi nhà nhỏ nhìn lên bàn thờ gia tiên. Nói là bàn thờ nhưng đó là cái rương gỗ đựng lúa, thời ấy quê tôi hầu như nhà nào cũng có. Trên rương gỗ là một bát hương và đơn sơ vài đồ thờ cúng chủ yếu là tự tạo. Tôi vẫn nhận ra hai ống hương được bố tôi cắt và gò từ hai chiếc vỏ đạn súng phòng không 37 ly. Điều không thể ngờ là trên bàn thờ còn nguyên mười lá thư trong số hàng chục lá thư tôi gửi về nhà trong những năm ở chiến trường. Trên mặt bàn thờ còn vương một lớp bụi bặm của mùa gặt, của rơm rạ hàng ngày nhưng những lá thư của tôi vẫn không vương bụi. Cầm những lá thư sờn dấu bàn tay nhưng nét chữ nắn nót, mực Cửu Long còn tươi rói thẳng tắp trên giấy kẻ học trò, tôi thầm đoán ngày nào bố mẹ tôi cũng lần đọc những trang thư ấy. Ở chiến trường viết thư cũng là một thú vui, mỗi chữ viết ra mang một tâm trạng buồn vui, thương nhớ. Rỗi thì viết thư, có những lá thư viết xong rồi hàng tháng sau vẫn không gửi đi được bởi không có ai ra Bắc…
*
Trạm dừng chân đầu tiên ở Trường Sơn, khi đồng đội đã say giấc ngủ sau một ngày hành quân, tôi thả màn xuống võng, bật đèn pin viết thư về nhà. Đó cũng là lần đầu tiên trong đời tôi cầm bút viết thư. Tôi cũng không biết nên bắt đầu từ đâu, chữ nghĩa cũng đi đâu mất. Cây bút Trường Sơn bơm đầy mực Cửu Long cứ lăn trên ngón tay và lặng câm trên trang giấy. Chợt nhớ sáng nay khi tôi và Tùng chia tay gia đình trọ ở Cự Nẫm, bà mẹ chủ nhà cứ níu chặt hai tay tôi và Tùng mà dặn: “Các con vô trong nớ nhớ viết thư về cho bọ mạ. Kể thật nhiều chuyện; chuyện đánh nhau với thằng giặc, chuyện ăn ra răng, ở ra răng. Bữa trước có chú đi ra, vô thăm bọ mạ kể trong chiến trường các chú ăn trên cây, ngủ dưới nước, nằm trên suối…”. Nhớ lời dặn của bà mẹ chủ nhà ở Cự Nẫm tôi mừng như đã bắt được mạch chữ. Tôi viết: “…Thưa bố mẹ, sáng nay con đã đặt bàn chân lên đỉnh Cổng Trời, bước chân đầu tiên của con đã hòa vào những bước chân của đoàn quân trên đường mòn Trường Sơn như dòng thác lũ hướng vào miền Nam ruột thịt…”. Hàng chục lá thư tôi viết nhưng về tới tay bố mẹ chỉ được chừng ấy. Thế cũng quý lắm rồi. Ở chiến trường mỗi lá thư gửi đi số phận của nó gắn liền với số phận của người đưa thư. Trong chiến tranh mỗi chiến sĩ quân bưu, mỗi cô giao liên đều phải vượt hiểm nguy như người lính cầm súng chiến đấu trực tiếp ở mặt trận. Trong hàng chục lá thư tôi gửi đi có lá thư đã nằm lại trên đường với những chiến sĩ quân bưu, những cô giao liên binh trạm, có lá thư nào đã từng “hy sinh” hai, ba lần khi về tới tay bố mẹ tôi? Ngày trở về đọc những lá thư mình viết có lúc tôi tự hỏi tại sao ngày ấy kể chuyện chiến đấu gian khổ, hy sinh trên chiến trường, trong mưa bom bão đạn mà nhìn nét chữ không cảm được cái khổ, cái hy sinh. Thậm chí lại thấy vui, lại thấy tin vào tương lai, cho dù bản thân mình cũng không tưởng tượng được cái tương lai ấy màu gì! Có lần bố tôi hỏi: “Sao ở chiến trường mà thư con viết chữ đẹp, nắn nót, tươi tắn nhưng không vội vàng… mỗi lần bố mẹ nhìn nét chữ của con lại thấy vui hơn lo!”.
Sau này tôi biết thêm có một sự nhầm lẫn hy hữu. Bác đưa thư đã đưa nhầm giấy báo tử cho bố mẹ tôi. Đó là giấy báo tử của một người lính ở làng cùng họ, cùng tên, cùng năm nhập ngũ với tôi. Mẹ tôi đã ngất lên ngất xuống nhiều lần trong những ngày chờ địa phương làm lễ truy điệu. Cũng may bác đưa thư một lần sau đó lên bưu điện nhận thư đã phát hiện ra sự nhầm lẫn này. Sau sự nhầm lẫn hy hữu ấy, nỗi đau của mẹ tôi bớt dần nhưng đêm đêm mẹ cứ cầm thư của tôi trên tay nhìn lên bàn thờ mà cầu nguyện. Mẹ tôi bảo ngày tôi trở về rồi mà có đêm mẹ vẫn mơ thấy như tôi đang ở chiến trường…
*
Tôi như bước ra khỏi một giấc mơ khi mẹ ném chiếc nón ngoài sân ùa vào nhà ôm chặt lấy tôi. Mẹ nói người ta bảo tôi đã về nhưng mẹ chưa tin vào tai mình. Mẹ bỏ dở những nắm cỏ trên ruộng ù chạy một mạch về nhà. Tôi cứ đứng như vậy để mẹ ôm chặt, dường như mẹ sợ tôi biến mất. Còn tôi cả ngàn ngày ở chiến trường khét mùi bom đạn bây giờ chợt nhận ra mùi hăng hăng của bùn còn bám trên lưng áo, trên đôi tay của mẹ.
Tôi ôm chặt mẹ và nói: “Con về với mẹ thật rồi, chiến tranh hết rồi, hòa bình rồi, mẹ đừng khóc nữa…”. Mẹ ngước lên nhìn tôi, những nếp nhăn trên gương mặt mẹ như giãn ra, chỉ có đôi mắt rớm nước. Hình như mẹ đã khóc nhưng đôi mắt ấy từ lâu đã không còn nước mắt.