Những năm tháng còn làm phóng viên Phòng Quân sự, Báo Quân đội nhân dân, tôi thường đi theo các cuộc diễn tập tổng hợp của các đơn vị bộ đội chủ lực như Sư đoàn 312 (Quân đoàn 1); Sư đoàn 316 (Quân khu 2)… Nhiều cuộc diễn tập đúng vào lúc mưa bão. Thậm chí có cuộc diễn tập như ở Sư đoàn 316 thời tiết đang đẹp, thuận lợi cho triển khai quân thế mà gần sáng một cơn mưa lớn bỗng ập đến. Các chiến sĩ nuôi quân mới nhóm được bếp Hoàng Cầm thì mưa tràn xuống dồn cả nồi, xoong vào một hầm thùng đầy nước. Những lúc ấy tôi lại có dịp ngồi co ro trong hầm trú ẩn và kể lại với các chiến sĩ trẻ cảnh mưa ở Trường Sơn và kinh nghiệm làm bếp Hoàng Cầm để tránh mưa.
Những ai đã từng là lính Trường Sơn không thể quên được mùa mưa ở rừng Trường Sơn. Trường Sơn mùa mưa không mấy khi có nắng mặt trời, mưa rả rích, mưa bất chợt, không gian lúc nào cũng ẩm ướt nặng trĩu những bọng nước khổng lồ treo lơ lửng trên trời có thể vỡ òa xuống bất cứ lúc nào. Trong sinh hoạt, những người lính hầu như chỉ mặc chiếc áo quân phục buộc túm gấu và chiếc quần đùi. Không ai muốn mặc quần dài, trừ khi phải ngồi sinh hoạt. Ai cũng ngại phải giặt, vì giặt quần áo vào mùa mưa không thể nào khô được, phải hong trên khói bếp. Vì vậy quần áo bộ đội vào mùa mưa bộ nào cũng khét lẹt mùi khói. Chiếc mũ tai bèo thì hầu như lúc nào cũng ướt sũng nước.
Tháng 7 năm 1972 ấy, chúng tôi dừng chân ở một trạm nghỉ gần Binh trạm 42 A Lưới (Thừa Thiên - Huế). Sau cuộc thi có một không hai “Nấu cơm giữa trời đang mưa” tưởng rằng ít hôm sau thì chúng tôi được biên chế về đơn vị mới. Nhưng chúng tôi phải nằm lại trạm nghỉ hơn mười ngày. Giữa mùa mưa đường sạt lở, sông suối thác lũ cuồn cuộn nên cán bộ nhận quân không lên được trạm nghỉ. Trong lúc chờ đợi chúng tôi phải chia nhau làm những nhiệm vụ của trạm như đi gùi đạn; sắp xếp, chuyển đảo kho lương thực, thực phẩm; lên vùng tăng gia sản xuất của trạm trồng trọt, vệ sinh chuồng trại. Có hôm chúng tôi lên trại tăng gia của trạm buổi sáng thì buổi chiều về giữa đường phải quay lại ngủ tạm ở các nhà kho. Vì nước lũ đổ về không thể qua con suối cạn được. Con suối cạn ấy bình thường vào mùa khô nước chỉ róc rách len lỏi dưới những tảng đá đen trũi như con trâu, con lợn nhưng mùa mưa có lúc nó lại hung dữ như muốn tận diệt tất cả. Anh cán bộ trạm nghỉ dẫn chúng tôi lên khu tăng gia nói rằng cuối tháng trước một tiểu đội chiến sĩ mới từ Bắc vào cũng đi lên khu tăng gia về, trời đang nắng đẹp, sau những ngày mưa nước rút xuống có thể lội qua được. Vậy mà khi tiểu đội vừa ra giữa suối cạn thì bỗng một cơn lũ bất ngờ đổ về cuốn phăng cả tiểu đội đang nắm tay nhau dìu qua suối.
Tôi là người hay quan tâm đến cái bếp Hoàng Cầm, nhất là kỹ thuật đào bếp. Những ngày tôi còn làm giáo viên Trường Sĩ quan Lục quân 1, làm đạo diễn các cuộc diễn tập chiến thuật của các khóa học, tôi cũng thường xem học viên thao tác đào bếp Hoàng Cầm. Những lúc ấy tôi thường nhớ lại hơn mười ngày dừng chân ở trạm nghỉ gần Binh trạm 42 A Lưới, đại đội tôi có bốn cái bếp Hoàng Cầm nấu ăn cho bốn trung đội. Có lẽ do chưa có kinh nghiệm hoặc do chủ quan ở tạm nên bốn cái bếp ấy đào không đúng kỹ thuật. Sau mấy ngày nuôi quân nấu tạm, một đêm mưa lớn hơn thường ngày, sáng hôm sau cả bốn cái bếp bị nước mưa xóa sổ, đất đồi lấp kín.
Cái bếp Hoàng Cầm giữa mùa mưa Trường Sơn không chỉ là bếp để nuôi quân nấu ăn cho bộ đội. Chức năng cái bếp là rất đa dụng và thậm chí phải đỏ lửa cả ngày. Trên bếp là một giàn sấy củi, không có cái giàn này thì không bao giờ có củi khô đun. Treo trên dây ngang, dây dọc là hàng chục bộ quần áo, mũ, giày hết lớp này chồng lên lớp khác sấy cả đêm, cả ngày. Ngoài ra trên giàn bếp còn là nơi sấy gạo, sấy thực phẩm của anh em nuôi quân… Vì vậy ở các vị trí đóng quân, ở hậu cứ có thể ví nơi không gian bếp Hoàng Cầm là “không gian văn hóa” của lính. Vào mùa mưa người lính đi đâu về cũng phải vào nhà bếp. Ở đó chuyện vui, chuyện buồn, chuyện chiến đấu hôm nay ai còn, ai mất, chuyện người yêu, chuyện quê hương, làng xóm ở hậu phương… dan díu vào nhau không dứt!
Từ ký ức mùa mưa Trường Sơn những năm chiến tranh, mỗi lần đi theo các cuộc diễn tập của bộ đội tôi thường nói với họ kinh nghiệm khi làm cái bếp Hoàng Cầm phải chú ý những gì. Nhất là ống dẫn khói. Nếu ống dẫn khói không đúng kỹ thuật thì không tản được khói, ngược lại khi gặp mưa nó còn là ống dẫn nước, dẫn bùn xuống bếp… Kỹ thuật chắn nước, chắn bùn đất như thế nào để khi gặp mưa lớn, khu vực bếp Hoàng Cầm là bất khả xâm phạm đối với nước và bùn đất người lính phải thực hành thành thạo.
Chuyện là thế nhưng mưa Trường Sơn không chỉ gây khó, gây khổ và nguy hiểm đối với người lính, ngược lại mưa Trường Sơn đem lại cho người lính sự “giàu có” vật chất bổ sung cho nguồn lương thực, thực phẩm sinh hoạt, dự trữ chiến đấu. Mùa mưa là mùa măng, chúng tôi vào rừng đào về cả núi măng. Ăn măng tươi không hết thì muối để dành. Mùa mưa là mùa rau rừng, trên rừng thì có rau môn thục, rau lang rừng; dưới suối thì có rau dớn, ngọn hoa rong suối… Thú vị nhất là sau mưa đến ngày hửng nắng chúng tôi đi dọc suối hái rau dớn. Những ngọn rau dớn mập như ngón tay cái, cao hơn hai gang tay non mơn mởn. Ngọn rau dớn sau mưa hái về xào thịt hộp ăn đến no không chán. Mùa mưa Trường Sơn là mùa dưỡng quân, mùa chuẩn bị cơ sở vật chất cho những chiến dịch lớn mùa khô. Sống giữa mùa mưa Trường Sơn, người lính trở nên thi vị hơn, là khoảng thời gian bình yên để họ ôm ấp và nuôi dưỡng nhiều ước vọng về tương lai khi chiến tranh không còn.
Hàng chục năm qua đi rồi mà mỗi khi nhớ đến mưa Trường Sơn thỉnh thoảng tôi vẫn ngân nga câu thơ: “Mưa cũng như em lúc hờn, lúc dỗi/Áo chưa khô mưa đã ướt rồi”. Đó là hai câu thơ kết trong bài thơ “Mưa Trường Sơn” viết trên đường hành quân của anh Dương Danh Quý, sinh viên năm thứ tư khoa Văn Đại học Sư phạm Vinh. Người bạn cùng quê, cùng nhập ngũ, cùng chiến đấu với tôi những năm tháng ở chiến trường Thừa Thiên - Huế.