Sau lần gặp lại dòng sông Thủy Tú tôi trở về quê, kể lại câu chuyện ấy với Phan Đình Khảm. Có lẽ Khảm cũng không thể hình dung được hơn hai mươi năm sau giữa ban ngày “gặp lại” dòng sông mà những đêm chiến tranh chúng tôi vẫn bơi dưới họng súng của địch để vào nhà dân nhận gạo. Chính tôi khi leo lên ngọn đồi cao nhất để cố nhận ra đâu là bến sông mà đêm đêm chúng tôi tập kết từ trên rừng xuống; đâu là bãi cát mà các mẹ, các chị thường chôn giấu những bao gạo cho chúng tôi mang lên rừng… Nghe tôi kể Khảm chỉ cười, anh không nói lại rằng anh còn nhớ hay anh đã quên. Một lúc sau anh mới buột ra một câu: “Không biết những người mẹ, người chị dành dụm những hạt gạo cho mình bây giờ còn không. Tôi, anh và những người được các mẹ nắm cho cơm nếp, thịt gà mang lên rừng những ngày đói cơ cực có ai còn nhớ?”…
Tôi và Khảm sinh ra cùng xóm, cùng làng và cùng nhập ngũ với nhau. Vậy mà sau chiến tranh mỗi đứa mỗi đường không mấy khi gặp nhau. Tôi làm nghề báo trong quân đội đi biền biệt khắp bốn phương trời thỉnh thoảng về quê thì Khảm cũng đi làm ăn lúc gần lúc xa. Cuộc sống bộn bề chuyện cơm áo, gặp nhau cũng chỉ hỏi thăm nhau dăm câu ba điều thấy nhau khỏe là vui. Làm nghề viết lách, đi nhiều tôi gặp bạn chiến đấu thường hay khơi lại chuyện cũ, chuyện chiến tranh nhưng ít khi gặp Khảm có thời gian để ôn lại. Phần thì công việc bận rộn, phần thì như anh nói nhắc lại cũng chẳng để làm gì khi cuộc sống thường nhật còn bao nhiêu lo toan chưa hết. Có lúc hỏi chuyện, Khảm không nói, tưởng là anh quên thật nhưng nghe cái cách anh trả lời thì tôi biết anh không quên, mà quên làm sao được những năm tháng ấy. Những năm tháng anh đã từng sống, chiến đấu và đổ máu trên chiến trường. Bởi vì cái cách anh tiếp chuyện với tôi dường như là anh chỉ gợi ra cho tôi nhớ lại chứ anh không muốn kể, kể ra cách nào thì câu chuyện những năm tháng sống chiến đấu với nhau nó cũng liên quan đến anh.
Ví như chuyện đêm chúng tôi vượt qua sông Thủy Tú để về đồng bằng lấy gạo chẳng hạn. Đoạn sông ấy giáp ranh giới Quảng Nam và Đà Nẵng nổi tiếng ác liệt. Phát hiện bộ đội ta đêm đêm vượt sông vào nhà dân nhận gạo, lương thực thực phẩm nên địch ráo riết tuần tra dọc bờ sông. Có dấu hiệu nghi ngờ là chúng xả súng, ném lựu đạn xuống sông, chặn những lối mòn vào làng, vào từng nhà dân mà chúng nghi ngờ. Vậy mà chúng tôi vẫn nhận được gạo, thực phẩm của dân, nhất là vào mùa mưa, việc tiếp tế từ miền Bắc vào gặp nhiều khó khăn. Hầu như những đêm vượt sông Thủy Tú đều có sự tham gia của Khảm. Có những đêm gần sáng mới lên đến hậu cứ, đặt gùi gạo xuống Khảm đã phân phát cho anh em những gói xôi thịt gà các mẹ gửi lên cho bộ đội ta ở trên rừng.
Khảm sinh ra trong một gia đình có hai anh trai là liệt sĩ hy sinh tại chiến trường miền Nam. Vì vậy khi ở cùng nhau có lúc tôi buột miệng hỏi tại sao anh không phải là diện nhập ngũ cùng đợt với tôi mà vẫn nhập ngũ. Khảm chỉ cười và nhìn tôi như muốn nói: “Điều ấy thì cậu tự trả lời được rồi!”.
Ngày ấy làng tôi là một trong những địa phương có phong trào thanh niên tình nguyện nhập ngũ, có không ít thanh niên đã viết đơn tình nguyện bằng máu. Có lẽ thế nên dù gia đình có hai liệt sĩ nhưng địa phương cũng không thể không cho Khảm xung phong ra chiến trường. Cái “máu” phải ra chiến trường như thể để trả thù cho hai anh trai liệt sĩ như đã nuôi ý chí trong Khảm từ lâu. Tôi nhớ Khảm là một cây văn nghệ, đặc biệt là anh có chất giọng ngâm thơ và ngâm những bài thơ có giai điệu hành khúc. Khi tôi huấn luyện chiến sĩ mới vừa hết tháng thứ nhất thì có một đội văn nghệ xung kích của Đoàn văn công Quân khu 4 về đại đội biểu diễn và tìm kiếm tuyển mộ hạt nhân văn nghệ mới. Hôm ấy Khảm đã lên sân khấu tại hội trường đại đội ngâm bài thơ “Đường hành quân” của nhà thơ Lưu Trùng Dương. Khảm bước lên sân khấu với vẻ rất bình tĩnh và tự tin. Khi anh vừa cất giọng: “Vượt núi băng sông/Chân tôi bước giữa hương đồng cỏ nội/Vòng lá ngụy trang đã bao lần thay lá mới…” thì cả hội trường vỗ tay như pháo. Mấy anh chị trong đội văn nghệ xung kích cứ gật đầu lia lịa. Chính lúc đó tôi đã nghĩ có khi Khảm lọt vào mắt xanh của các anh chị văn nghệ xung kích rồi. Chắc chắn anh không cùng chúng tôi hành quân ra mặt trận nữa rồi. Nhưng cũng may họ cũng không “chấm” ai. Trên đường hành quân vào Nam có lúc tôi lôi chuyện ấy ra đùa, Khảm lại cười…
Phan Đình Khảm và những trận chiến đấu gan lì, dũng cảm quên cả thân mình cả tiểu đoàn tôi ai cũng biết. Nhưng sau mỗi trận chiến đấu đơn vị xét khen thưởng thì không bao giờ anh nhận. Có thành tích thì anh “sang tên” cho người khác. Đơn vị bảo anh viết báo cáo thành tích anh cũng chỉ cười và lảng đi. Tôi và Khảm ở cùng nhau một tiểu đoàn nhưng lại không trực tiếp cầm súng chiến đấu với nhau. Những trận chiến đấu, những chiến công mà Khảm và đơn vị lập thành tích, tôi chỉ nghe kể lại, hoặc nghe báo cáo về sở chỉ huy tiểu đoàn.
Nhưng có một trận đánh mang dấu ấn tiểu đội trưởng Phan Đình Khảm thì tôi nhớ. Đó là trận đánh của Đại đội 1, Tiểu đoàn 1 tiến công cao điểm 450. Cao điểm 450 là một cao điểm quan trọng có giá trị quân sự. Chiếm được cao điểm 450 là khống chế toàn bộ con đường vận tải bộ từ miền Tây Thừa Thiên - Huế xuống vùng giáp ranh và ngược lại từ đồng bằng lên vùng giải phóng. Con đường bộ đó lại chạy dọc dòng sông Tà Vệ nên vừa kết hợp vận tải bộ và vận tải đường sông rất thuận lợi. Vì thế giữa ta và địch giành giật nhau để làm chủ cao điểm này. Có thời điểm hai bên cứ giành giật nhau làm chủ từng ngày một.
Sở chỉ huy tiền phương của Tiểu đoàn 1 chuyển đến bí mật trú quân dưới chân điểm cao 450 từ khi bắt đầu chiến dịch mùa khô 1973. Từ đầu mùa khô chỉ trong vòng chưa đầy một tháng ta và địch đã đụng độ quyết liệt không biết bao nhiêu lần. Trận đánh ấy lực lượng Đại đội 1 chia làm hai mũi tiến công. Mũi chủ yếu đánh từ hướng đông, hướng vị trí trú quân của sở chỉ huy tiền phương tiểu đoàn, hướng thứ yếu từ hướng tây bắc mép sông Tà Vệ lên. Tôi trực liên lạc tại hầm tổng đài hữu tuyến nghe rõ mồn một tiếng súng AK của ta, tiếng thúc quân của chỉ huy địch… Cứ hỏa lực ta dừng thì pháo địch lại giội xuống, pháo địch dừng thì súng cối và 12,7 ly của ta lại đáp trả. Từ 5 giờ sáng hai bên giằng co nhau suốt gần một giờ đồng hồ. Bỗng nhiên hướng chủ yếu của ta im bặt nhưng tiếng súng AR15, tiếng lựu đạn của địch vẫn nổ chát chúa rát bỏng. Tôi vẫn nghe tiếng tên chỉ huy địch hò hét nhưng đường dây liên lạc hữu tuyến của ta bị đứt; liên lạc 2 oát vẫn gọi truyền lệnh chỉ huy của tiểu đoàn nhưng không có ai trả lời. Bất ngờ chúng tôi nghe tiếng xung phong rất rõ của ta và sau đó là súng AK xả hết loạt đạn này đến loạt đạn khác. Nhưng chỉ một lúc cả trận địa im bặt. Địch đã đẩy lùi được cả hai hướng tiến công của ta.
Trận đánh ấy Đại đội 1 bị thiệt hại nặng, riêng Khảm bị thương. Sau này khi nghe báo cáo rút kinh nghiệm trận đánh tôi mới được biết đêm hôm trước địch đã tăng quân và hỏa lực lên điểm cao 450 gấp nhiều lần số quân đang chốt giữ. Do đánh giá lực lượng địch không chính xác nên ta vấp phải sự chống cự và hỏa lực mạnh gấp bội. Số quân của ta thương vong nhiều. Khoảng giây phút im lặng giữa trận đánh Khảm nhận định bọn địch đang thay đổi chiến thuật. Thấy quân ta thương vong nhiều khó có thể tiếp tục tiến công Khảm lệnh cho bộ đội xung phong lên bất ngờ để áp đảo địch chớp thời cơ chiếm lại phần công sự tiền duyên trước khi chờ quân ta tiếp viện. Nhưng khi xung phong lên mép hào tiền duyên không ngờ địch đã nằm kín chiến hào lẫn cả những tên đã chết. Thấy quân ta chúng vùng dậy xả đạn như mưa đẩy lùi anh và đồng đội xuống sườn đồi.
Sau chiến dịch mùa khô trung đoàn rút quân về củng cố lực lượng ở A Vao, có những lúc gặp Khảm tôi vẫn nhắc lại trận chiến đấu bi tráng ấy. Khi cao hứng tôi còn dẫn lại lời kể của mấy chiến sĩ thông tin miêu tả hình ảnh Khảm ôm khẩu súng AK chạy trở lại đội hình của đại đội mặt đầy máu nhưng ấm ức vì trận đánh thất bại. Mỗi lần nhắc lại chuyện như thế chỉ thấy Khảm cười. Duy chỉ có một lần anh cự lại tôi: “Đánh nhau có thắng, có thua nhưng hôm ấy thì tớ thắng chứ có thua đâu!”.
*
Sau năm 1975, Khảm trở về quê một nắng hai sương với ruộng đồng nơi anh sinh ra và lớn lên. Thời gian qua đi, cuộc chiến đã lùi xa vào ký ức. Bây giờ mỗi khi gặp lại tôi thường kể chuyện bạn bè cũ những năm tháng tôi gặp lại trên đường công tác. Hỏi đến đâu Khảm nhớ đến đấy. Từng vùng đất, từng con người chúng tôi đã gặp đã qua những năm chiến tranh. Thậm chí có những tên đất, tên người tôi đã quên thì Khảm nhắc lại. Duy chỉ có điều những chiến công, những trận đánh của anh không phai mờ trong ký ức tôi thì anh vẫn lặng im mỗi khi nhắc lại.