-Chủ tướng! Mau rời khỏi thủ phủ theo đường cửa hậu!
- Tướng công. Không thể chần chừ hơn được nữa. Phải bảo toàn. Hãy rời khỏi thành!
Những lời khẩn khoản đầy trách nhiệm của đám tướng sĩ làm cho Tuần phủ đang như pho tượng bỗng trở mình quay lại.
- Vâng. Thưa Chủ tướng. Xin ngài ra lệnh mở đường cảm tử. - Chánh đề đốc Đề Kiều chắp hai tay sốt sắng thưa.
Quan Tuần phủ khẽ lắc đầu, hai hàng nước mắt ứa tràn gò má gầy hom của vị Thủ lĩnh già. Năm, bảy tướng sĩ và hộ vệ bản phủ cúi đầu chờ một lệnh quyết tử từ Chủ tướng.
Tuần phủ tra thanh gươm có đốc kiếm đầu rồng vào vỏ bao, rồi nhẹ nhàng tháo đai da bên mình. Hai mắt ngài như có lửa cháy. Thủ lĩnh bước đến trước mặt Đề Kiều, hai tay lặng lẽ nâng thanh kiếm đặt vào lòng vị tướng trung thành.
- Tướng quân trao kiếm sao?
- Tướng quân hạ vũ khí ra thành sao?
- Chủ tướng...
Đề Kiều thấy run trong người. “Mệnh lệnh của Thủ lĩnh? Mà ta là ai? Rồi sẽ là ai trước Thủ lĩnh, trước vận mệnh Cần Vương?”. Thoáng nghĩ, nhưng rồi Đề Kiều vẫn đưa hai bàn tay đón nhận hộp kiếm báu, vừa như sục sôi, vừa như vô cảm.
Bỗng chốc Tuần phủ quay người bước nhanh theo bậc thang rồi chạy lên sân thượng tòa thành. Trước Đài kính thiên, lá cờ Vương triều đang ngạo nghễ bay trước mặt sân thượng Tòa cung Hưng Hóa. Quân sĩ hộ vệ hiểu ngay Tuần phủ đang sắp làm gì. Thành Hà Nội từng thất thủ, Tổng đốc Đại thần Hoàng Diệu tuẫn tiết. Danh nho trung quân, ái quốc...
- Tuần phủ! Không được thế. Không được! - Đề Kiều kêu to.
- Chủ tướng. Chủ tướng!
- Chủ tướng ơi!
Đám hộ vệ kêu la kéo vị Thủ lĩnh khỏi mép sân thượng. Đề Kiều ôm chầm lấy Thủ lĩnh nói trong nước mắt:
- Chủ tướng, ngài hãy vì vận mệnh Cần Vương, hãy vì đất nước và vì quân sĩ chúng tôi. Chủ tướng ơi, ngài hãy cùng chúng tôi mở đường máu...
Tuần phủ Nguyễn Quang Bích như bừng tỉnh sau cơn mê hoảng, ngài cố mở đôi mắt như đang bị thôi miên nhìn rõ khuôn mặt Đề Kiều, cùng tả hữu, hộ vệ rồi lặng lẽ đứng dậy bước xuống bậc thềm. Ngoài kia, tiếng súng chát chúa, tiếng la hét rầm trời, lửa đã cháy lan cả vào cổng chính tòa thành. Đề Kiều ra lệnh hạ lá cờ, gấp nhỏ cho vào túi da. Con ngựa chiến màu tía của Thủ lĩnh được đưa tới. Trước chân cột cờ Đài kính thiên trơ trống, Đề Kiều cúi lạy tòa thành, cúi mình trước Tuần phủ rồi trao lại hộp vương kiếm cho vị Chủ tướng thành; tả, hữu, vực ngài lên ngựa. Quan tuần phủ hoàn tỉnh, ngài ngửa mặt lên trời, tuốt gươm vung lên, giọng Tướng quân âm vọng vào bốn mặt thành, đanh lại:
- Quyết tử với quân lang xa!
Tả hữu văn võ đồng thanh:
- Quyết tử! Quyết tử!
Đề Kiều hét lên:
- Nguyễn Quang Hoan, ngài hãy chỉ huy binh sĩ cảm tử cản đường giặc. Ta hộ giá Tướng công phá vây cấm thành.
Nguyễn Quang Hoan giơ gươm:
- Tướng quân Đề đốc. Võ Hoan tuân tử!
Phía ngoài cổng tòa thành Hưng Hóa, tướng Pháp Nê-gri-ê ra lệnh cho pháo hạm trên sông Thao nhằm vào trung tâm thành cung, bắn dữ dội.
- Mời Thủ lĩnh hạ ngựa dừng nghỉ - Đề Kiều khoát tay trước ngựa, hộ vệ bước lại đỡ vai vị tướng công.
- Đây là đâu? - Nguyễn Quang Bích chợt hỏi.
- Thưa. Đây là trấn Tứ Mỹ, phủ Lâm Thao. Chúng ta đã rời thành Hưng Hóa được hai trăm dặm - Đề Kiều thưa.
- Ý của Đề đốc thế nào?
Đề Kiều:
- Thưa Tuần phủ. Nơi đây an lành, xa đạo binh Pháp, ta hãy nghỉ lại đêm nay cho lại sức. Mai, bản vị Đề đốc xin tấu trình Thủ lĩnh đường trường. Xin ngài chấp thuận.
Nguyễn Quang Bích sau giờ phút căng thẳng tột cùng ở nội thành Hưng Hóa, đã bình tâm. Ngồi bên vệ cỏ cùng Đề Kiều - một cận tướng trung thành mà ông từng hạ phong tước hiệu Đề đốc ngay sau ngày ông được triều đình sắc phong Tuần phủ Hưng Hóa. Nguyễn Quang Bích cảm thấy yên lòng. Ngài nhẹ nhàng ngả mình xuống bờ cỏ ven đê sông Thao. Những làn gió cuối xuân đầu hạ như đang lướt nhẹ trên mái tóc đốm bạc của vị Thủ lĩnh. Nắng chiều nhàn nhạt hắt xuống mặt sông đỏ rực.
Tiếng đội trưởng hộ vệ làm cắt ngang giây phút tư lự của vị tướng phủ:
- Thưa Thủ lĩnh, mời ngài cùng Đề đốc vào an nghỉ trong nhà dân, thân nhân của vệ binh viên thành nội.
- Vâng. Mời Thủ lĩnh! - Đề Kiều nhắc lại.
Hai vị bản lãnh, hạng sĩ phu, nhẹ nhàng đứng dậy theo chân đội trưởng hộ vệ vào làng.
Đêm đó Tuần phủ và Chánh Đề đốc được chủ nhà sắp xếp nghỉ tại gian buồng dành riêng cho người con gái cả sắp thành hôn, gia chủ cẩn thận sai con trai thứ cùng hộ vệ kê chõng tre ngoài đầu sân canh phòng kẻ lạ mặt. Phía ngọn tre bờ sông Hồng, trăng đầu tháng in một vành khuyết giữa nền trời trong veo.
Canh ba. Thấy quan Tuần phủ trở mình hai ba lần, Đề Kiều sốt ruột:
- Thưa Thủ lĩnh. Ngài lạ nhà, khó ngủ đấy ạ?
- Không đâu. Ngủ thì đã đủ, rất ngon giấc là khác!
- Vâng vâng. Xin Thủ lĩnh tái giấc, gà mới gáy canh hai, trăng chưa ngả bóng cau.
- Cảm ơn Đề đốc - Ngừng giây lát, Tuần phủ bất chợt hỏi - Còn bây giờ, theo ngài, ta nên đi hướng nào?
Đêm vẫn yên ắng, chỉ có tiếng dế kêu ngoài hiên, tiếng bờ tre ven sông vọng vào xào xạc, xào xạc. Tướng phủ không để tâm, chủ nhà cũng chẳng hay rõ, chỉ loáng thoáng đoán hai vị khách qua đường xin nghỉ lại là người có tuổi, ở hạng quan phủ hoặc nho sĩ, mà dành buồng con gái sắp hôn lễ để các ngài được một đêm yên tĩnh. Lại cho con trai cùng nhóm tháp tùng ngủ quanh nhà, dễ bề ứng đối khi bất trắc. Đề Kiều, húy danh là Hoàng Văn Thúy, chánh tổng kiêm thổ hào vùng sơn cước Cẩm Khê, dấn thân vào việc nghĩa Cần Vương, được Tuần phủ tin dùng, phải dốc lòng phụng sự nghĩa lớn theo đạo bề tôi. Chánh Đề đốc thoáng nghĩ, rồi trả lời câu hỏi của Thủ lĩnh:
- Thưa ngài, tôi hình dung đường trường của ta thế này…
Đề Kiều ngồi nhỏm dậy. Ánh trăng lọt qua các khe vách liếp làm sáng nhạt cả căn phòng.
Đề Kiều:
- Thưa ngài. Đây đã xa thành Hưng Hóa nhưng vẫn dọc lộ mòn ven sông. Người Pháp có thể đuổi tới. Tôi sẽ cho dân binh Cẩm Khê lập tuyến phòng thủ Tứ Mỹ, có động, ta dịch lên Ao Lộc. Ở đó có rừng núi nhưng hẹp đất, chỉ là trạm dừng chân. Theo lệnh ngài, tôi sẽ cho người lên gặp thổ hào Tiên Động, nếu hợp ý ngài thì ta sẽ lập bản doanh ở đó. Ngoài Tiên Động, còn có Sơn Tình, Ao Lộc, gò Mai, gò Hàm Rồng, làng Mỹ Lương… Những nơi này thổ dân đều sẵn lòng giúp vua cứu quốc. Xin hạn hai ngày, Đề Kiều tôi sẽ tấu trình ngài suy xét lựa chọn.
Nhác thấy vị Thủ lĩnh khẽ gật đầu có ý ngồi dậy, Đề Kiều vội đưa hai bàn tay:
- Thủ lĩnh. Ngài cứ bình tâm hồi sức, đường trường lo việc lớn.
Nguyễn Quang Bích vắt cánh tay ngang trán. Trong đêm trăng, ông đang suy tư mưu bề việc đại sự. Hiểu thế, Đề Kiều vội đứng dậy bước ra hiên nhà, vùng quê quen thân từ thuở tiểu đồng.
Phía ngoài sân vườn vệ binh Vương Văn Doãn không ngủ. Đề Kiều bước lại:
- Này Doãn. Tối qua ta đã cho người làng đi tìm Đặng Huy Tá. Nếu Tá về, ta giao cho hai người khảo sát Tiên Động. Ta có ý thuyết phục Thủ lĩnh lập bản doanh ở Tiên Động, Doãn thấy sao?
- Tôi đồng ý với Đề đốc. Việc cần kíp, đừng để Tướng công sốt ruột. Hay là…
- Là sao? Nói đi!
- Tôi sẽ cận vệ Chủ tướng. Còn Đề đốc là người được Chủ tướng tin tưởng tuyệt đối, lại có khả năng quyết đoán, ngài lên đó, ấn định dinh binh, trở về đích thân tấu quan Tuần phủ. Như thế chắc chắn hơn.
Trầm ngâm dưới ánh trăng suông, Đề Kiều khẽ lắc đầu:
- Ngẫm thế cũng phải, huynh phó thác, đệ xin tròn bổn phận trước huynh, tức là trước Tướng công. Hưng Hóa thất thủ vẫn đang day dứt Thủ lĩnh, huynh trợ lực bên ngài, sẽ thuận hơn.
Vương Văn Doãn nghe vậy, không nói thêm lời nào, gộp hai lòng bàn tay lại, khẽ cúi đầu:
- Đề đốc. Vương này xin hứa làm tròn trọng trách.
Không phải đợi đến trưa hay chiều. Trời sáng rõ, Đặng Huy Tá, Trịnh Bá Đanh, những dân binh Tam Nông, Cẩm Khê đã có mặt bên sân nhà hàng xóm. Cuộc hội ý chỉ mươi, mười lăm phút. Vương Văn Doãn, Đặng Huy Tá, Trịnh Bá Đanh nắm chặt bàn tay vạm vỡ của Đề Kiều - vị chánh tổng kiêm thổ hào nổi tiếng Cẩm Khê. Ba người đàn ông trong bộ quần áo của kẻ làm ruộng, rời sân vườn, lên thẳng vùng núi Tiên Động.
Đề Kiều đi dạo quanh vườn cây gia chủ. Cuối xuân, chồi non của những cây bưởi, cây cam đã vươn hai ba lá. Lác đác, những chùm hoa đầu vụ cũng xòe cánh, lộ ra những núm nhụy vàng chanh thơm phức. Đề Kiều nhẹ nhàng ngắt một nụ bưởi đặt vào lòng bàn tay. Cảm xúc của người làm vườn, của một chủ đất lại trỗi dậy trong ông. “Chỉ ước gì đất nước quê hương thanh bình, Đề Kiều này sẽ biến đồng đất ven sông thành cánh đồng lúa, sẽ biến các triền đồi Cẩm Khê thành rừng cây, thành rừng quả. Rồi sẽ buôn bán, sẽ đi xa trao đổi hàng hóa… Thổ hào thì phải làm được việc ấy chứ! Đề Kiều chợt mỉm cười dạo bước.
- Đề đốc. Thủ lĩnh cho gọi ngài - Hộ vệ Đinh Gia Quốc khẽ nói.
Đề Kiều rời vườn bưởi bước nhanh vào sân đã thấy Tuần phủ ngồi bên chủ nhà, đang trò chuyện? Ngài chăm chú và vui vẻ! Đề Kiều không muốn phá vỡ cảnh tượng thân thiện ấm cúng, không muốn phá vỡ câu chuyện riêng giữa Thủ lĩnh với người dân. Nhưng thế chẳng đã, Đề đốc chậm chậm bước tới đầu sân. Thủ lĩnh không mặc áo the thụng mà chỉ choàng ngoài bộ tứ thân.
- Lại đây, lại đây ngài Trợ giá!
- Vâng! Vâng! - Đề Kiều đáp nhưng vẫn cố ý dùng dắng.
Những khi vui trong lòng, có Đề Kiều bên cạnh Nguyễn Quang Bích thường gọi Đề Kiều là Trợ giá - một chức chỉ là trên lời nói. Đề Kiều cố cắt nghĩa: Thủ lĩnh nhận chỉ sắc vua ban Tuần phủ Sơn Tây, rồi Tuần phủ Hưng Hóa. Thế có nghĩa đã là quan hệ Hoàng tộc, người của Hoàng tộc. Ngài chọn mình làm giúp việc, lại đích thân đề nghị nhà vua phong chức hiệu Chánh Đề đốc Hưng Hóa, luôn tháp tùng ngài, gắn sinh mệnh ta với ngài, thế chẳng là Trợ giá sao?
- Trợ giá. Ngài lại đây. Cẩm Khê nhiều điều đáng nói lắm.
Cử chỉ lời nói thân mật, Đề Kiều bước tới ngồi bên Thủ lĩnh và gia chủ. Bỗng chốc Thủ lĩnh làm cái việc giới thiệu chủ khách thân mật.
- Trợ giá biết chưa, chủ nhà ta ngủ đây là Nguyễn Văn Lò. Được biết Tứ Mỹ có đình làng, Trợ giá xem xét ta có thể rời lên trú tại đó một thời gian, nhờ vả “ngài” Lò trông nom trong ngoài. Như thế xem có được không?
Nhìn dáng hình to cao vạm vỡ của Đề Kiều, Nguyễn Văn Lò nắm hai tay vị khách lòng dạ e ngại:
- Vâng, vâng. Quan Phủ hỏi chuyện, tôi mạo muội tâu. Xin hai vị “đại” quan xá tội cho lão nông này.
- Không không! - Đề Kiều khoát tay cười cười. Anh em Cẩm Khê cả mà. Quan Phủ đã gợi, ta sẽ cùng ngài bàn sao cho kỹ lưỡng. Giờ thì ngài hãy sung vào Đội Hộ vệ sơn phòng của ta. Được chứ?
Nguyễn Văn Lò vội đứng dậy chắp hai tay trước ngực khẽ cúi mình:
- Ôi vâng ạ! Được hầu hạ hai quan, con xin hết lòng hết sức đền đáp.
Nguyễn Quang Bích cười lớn:
- Ta cũng hầu cận Triều đình Hàm Nghi chống lại người Pháp xâm lăng. Cốt là thủy chung, sẵn tử vì đạo. - Thủ lĩnh tỏ rõ sự vui lòng.
Cẩm là cô con gái của Nguyễn Văn Lò bê ra một rá chuối chín vàng thơm thơm.
- Con xin mời các quan, con xin mời bố! - Nói rồi cúi mình
- Này con… - Đề Kiều chợt hỏi - Con là…
Nguyễn Văn Lò đỡ lời:
- Đây là Nguyễn Mỹ Cẩm gái lớn của chúng con, cháu sắp vào ngày hôn lễ.
Đề Kiều lẩm nhẩm:
- Mỹ Cẩm. Tứ Mỹ, Cẩm Khê. Trời định rồi. Sau ngày xe duyên, ngài Lò cho con gái Mỹ Cẩm tham gia sơn phòng cùng cha, được chứ?
Nguyễn Văn Lò lúng túng nhưng vẫn tỏ ra thông suốt:
- Dạ vâng, vâng ạ. Cha con chúng con xin được một lòng hầu hạ quan Phủ.
Đề Kiều cười lớn, nhìn hai cha con, rồi nhìn Thủ lĩnh:
- Này này, nhớ lời dạy của “Đại quan” đây. Tất thảy chúng ta, mỗi người mỗi việc cùng nhau phụng sự Cần Vương, phụng nghiệp cứu quốc.
Nàng Mỹ Cẩm cúi hai cúi, nhỏ nhẹ buột lời “vâng ạ” rồi lui dần ra ngoài.
Ngay chiều tối hôm đó, với sự sắp xếp của Đề đốc và dân binh Nguyễn Văn Lò, quan Tuần phủ rời ngôi nhà bình dân ven sông, chuyển đến đình Tứ Mỹ trong sự đón tiếp rất lặng lẽ của thủ nhang nhà đình. Cha con Nguyễn Văn Lò, Nguyễn Mỹ Cẩm là người được giao chuyên lo việc cơm nước, nghỉ ngơi cho quan Tuần phủ.
Nhắc lại ở thành Hưng Hóa: Hai mũi tiến công của quân Pháp cùng một lúc công kích bằng đại bác vào thủ phủ nơi đóng Đại bản doanh của Tuần phủ Nguyễn Quang Bích. Cùng lúc đó thành Sơn Tây, thành Bắc Ninh thất thủ, Hưng Hóa là cửa ngõ lối vào tây bắc Bắc Kỳ, thay lệnh Hoàng đế Hàm Nghi, Đại thần Tôn Thất Thuyết khẩn cấp mật thư đến Nguyễn Quang Bích, Tuần phủ Hưng Hóa phải giữ thành bằng mọi giá, tạo hậu phương Bắc Kỳ cho đạo binh tử chiến của triều đình. Tướng Nê-gri-ê tiến đánh từ phía Sơn Tây, còn tướng Bri-ê-len chỉ huy cánh quân từ Bắc Ninh tiến về. Trong khi đó đạo binh trợ viện của nhà Thanh lại rút lên Tuyên Quang, quân Hoàng Kế Viêm rút vào Thanh Sơn. Nguyễn Quang Bích không nắm được nguyên do phân tán lực lượng viện trợ nên ra sức chống chọi. Tướng quân ra lệnh đánh chặn ở Hạ Bì, ở La Thượng, làm quân Pháp phải tạm thời thoái lui. Nhưng rồi chỉ có Tướng công, trợ thủ Đề Kiều, cùng vài trăm binh lính canh giữ bốn mặt thành chống trả không xuể. Quân Pháp dùng súng phun lửa và đạn xăng bắn tới tấp, khiến tường thành bốc cháy ngùn ngụt. Quân Pháp lại dùng đại bác bắn bầm dập làm các cửa thành tan hoang, đám binh lính Tây ào ào xông lên thành. Khi hai tướng Nê-gri-ê và Bri-ê-len hợp binh dưới chân cột cờ thì chỉ còn thấy thành Hưng Hóa tan hoang, quân Nam Việt nằm nghiêng ngả, Bộ tướng Hưng Hóa đã đi thoát từ lúc nào.
Nê-gri-ê quát tháo:
- Con cọp rừng Hưng Hóa đã chạy trốn. Mau đuổi bắt.
Bri-ê-len cũng không kém:
- Điệu tù trưởng ra đây tra xem bọn giặc cỏ thoát hướng nào!
Một người cao gầy, trạc trung niên từ trong đám binh lính người Việt bị bắt giữ bước ra:
- Các ngài quan Tây. Chúng tôi chỉ là kẻ làm tôi tớ cho phủ thành, không bén mảng việc binh đao, bày đặt nước bước cho ai. Từ mấy ngày đây, cổng thành này đóng chặt, bộ chủ đi đâu hết cả, bọn tôi tớ trông nom nhà cửa gà lợn nào biết gì!
Viên thông ngôn như giảng giải thêm điều gì, tướng Tây có râu quai nón, mắt xanh, mũi lõ, làu bàu:
- Thật là lũ ăn bám. Đưa chúng nó về trại lao binh.
Cai Đen từ sau lưng Bri-ê-len đi lại, hắn gí mũi súng ngắn vào cằm người cao gầy:
- Chưa xong đâu. Nếu chỉ cho quan Tây biết đường chạy trốn của bọn thủ phủ, sẽ được thưởng to đấy. Thôi, về trại mà bàn tính với nhau rồi khai báo.
Những tù nhân thành yên lặng, sắp một hàng dọc, đi bộ về khu lao binh.
Bri-ê-len:
- Cai Đen. Ngài là người bản địa, liệu có thể đoán thời gian bỏ thành và hướng đi của bọn chúng?
Cai Đen, trung úy mật thám:
- Tôi chưa thể chắc ngày giờ, nhưng dám chắc, là hướng tây.
Bri-ê-len là viên tướng đi lên từ com-măng-đô Âu châu, nên cái nghề mật thám của người Việt với ông ta chỉ là chuyện cưỡi ngựa xem hoa. Trung úy Đen thoáng nghĩ.
Nhưng không. Bri-ê-len gật gật:
- Tôi đồng ý với ngài Cai Đen. Kẻ đứng đầu thành Hưng Hóa, Tuần phủ Nguyễn Quang Bích ấy mới rời cổng hậu tòa thành hai ngày, mà đúng rồi, thưa ngài trung úy, họ đi về hướng tây tả ngạn sông Thao.
Trầm ngâm giây lát. Bri-ê-len cười ruồi:
- Tuần phủ Nguyễn Quang Bích là một con voi rừng đấy, thưa ngài trung úy mật thám.
Bri-ê-len gõ tẩu thuốc lá ngước mắt nhìn chằm chằm Nê-gri-ê:
- Ta cho truy nã luôn chứ ngài thiếu tướng? Đừng để cho “con voi” rừng hoàn hồn.
- Ngài Bri-ê-len. Tôi lại nghĩ khác - Nê-gri-ê nghiêng mặt cao đạo - Mục tiêu mà toàn quyền thừa lệnh Triều đình Huế đưa ra, ta đã đoạt ngoạn mục, tôi và ngài chỉ còn chờ chai sâm banh từ Hà Nội gửi đến, thế thì vội gì phải lao quân? - Nê-gri-ê búng ngón tay. - Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa thất thủ chỉ trong vài tuần, Tây Bắc lấy đâu ra tử thành nữa mà ngài phải lo xa? - Tướng Nê-gri-ê cười khẩy.
Bri-ê-len, Cai Đen đứng trơ. So với Nê-gri-ê, Bri-ê-len cũng lon thiếu tướng, nhưng là tướng điều tra xét hỏi, còn Nê-gri-ê là một sĩ quan chỉ huy quân sự chuyên nghiệp, chừng nào chưa thật rõ ràng về mục tiêu và điều kiện của đối phương thì ông ta chưa thể ra lệnh. Cai Đen nhún vai, hiểu điều đó.
Nhóm thám sát địa bàn lập bản doanh Vương Văn Doãn đã về đến đình Tứ Mỹ. Chánh Đề đốc vui mừng nắm tay từng người dẫn vào hậu sân đình làng. Chén trà Tam Nông do Mỹ Cẩm pha trông thật sóng và thơm. Mới chỉ có ba ngày vắng mặt mà sao Sơn phòng đã có thêm được nàng Mỹ Cẩm. Vương Văn Doãn, Đặng Huy Tá, Trịnh Bá Đanh lấy làm lạ. Nàng Mỹ Cẩm thì Đặng Huy Tá rõ lắm, vì Tá cùng Nguyễn Văn Lò làm thuê ở đồn điền thổ hào của Đề Kiều hai năm trước. Từ ngày thổ hào vắng đi đâu xa, con trai ông điều hành đồn điền, Tá và Lò đôi lúc đến thăm nhà nhau. Tá còn dắng vui với người bạn chi điền:
- Tam Nông, Cẩm Khê, giáp vách nhau thôi, nay mai cháu Mỹ Cẩm lớn lên, ông “để” nó cho con trai tôi nhá!
Lúc ấy Nguyễn Văn Lò chỉ cười cười vơ điếu thuốc lào. Giờ thì cô con gái Lò làm thuê lại ở đây? Vẫn nét mặt tươi hồng, nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, vẫn bộ áo nâu cúc bấm chỉ có thân hình đã đầy đặn hẳn lên. Thoáng nhận, thoáng nghĩ, nhưng trước mặt Đặng Huy Tá không dám dò hỏi.
- Nào, các nghĩa binh sơn cước nói đi. Phủ Sơn phòng và nơi tụ nghĩa của Thủ lĩnh sẽ đặt ở nơi đâu? - Chánh Đề đốc ngẩng nhìn Trịnh Bá Đanh, Đặng Huy Tá rồi dừng lại ở khuôn mặt Vương Văn Doãn.
- Thưa ngài Đề đốc. Ba chúng tôi đã xem xét bốn, năm địa điểm, nhưng rồi thống nhất với nhau chọn Tiên Động lập căn cứ, trình ngài xem xét trước khi tấu lên quan Tuần phủ - Vương Văn Doãn thưa báo.
- Tiên Động à! - Đề Kiều buột miệng - Nơi này thì tôi rõ, nó thuộc đất Tiên Lương xã, Cẩm Khê huyện.
- Vâng vâng! - Trịnh Bá Đanh nhanh nhảu.
Đặng Huy Tá gật gật rồi giải thích:
- Tiên Động rộng rãi, vừa bằng phẳng, vừa rừng rú. Mặt đông nối sông Thao bằng con ngòi Dành, mặt tây là đồi núi, mặt nam có đầm lầy. Còn bắc, có thể đi về miền Tây Bắc.
- Được!
Đề Kiều gật gù. Tiên Động, Tiên Lương, có thể giao thông giữa Cẩm Khê với Tam Nông, Yên Lập, Thanh Sơn. Hạ Hòa - Yên Lập - Thu Cúc hoặc Yên Lập - Thu Cúc - Nghĩa Lộ.
Đề Kiều nhấp chén nước chè rồi quả quyết:
- Quyết định chọn Tiên Động làm căn cứ kháng chiến sau thành Hưng Hóa. Không bàn nữa. Tôi sẽ tấu trình Chủ tướng và thưởng công các ngài.
Đề Kiều đứng dậy. Cả ba nghĩa binh cũng đứng lên, khoát tay vòng trước ngực:
- Cảm ơn Chánh Đề đốc!
Những bóng áo vải khuất vào lùm cây, khuất vào rặng nhãn đang mùa hoa.
Đêm trăng rằm, trời làng quê đẹp quá. Đề Kiều đi đi lại lại quanh cửa đình. Ngày rằm, khói hương phảng phất, thơm dịu. Thấy vị khách quý đi vòng quanh cửa sân, không ngắm trăng, không ngâm nga thơ phú, thủ nhang Nguyễn Lộ mạnh dạn lên tiếng:
- Thưa lãnh quân. Ngài có điều gì cần chính chủ?
Đề Kiều vốn đã quen biết Nguyễn Lộ, mấy ngày qua, nhờ có Lộ mà mọi việc lớn ở đình đều chu tất. Chánh Đề đốc quay lại:
- Trời quang, gió nhẹ, ta dạo trăng chơi đấy thôi. Nhang Lộ cứ tĩnh tâm đi.
- Dạ! - Nguyễn Lộ rẽ vào hiên đình.
Chọn ai làm Phó đề đốc phụ trách hành dinh? Vương Văn Doãn, Nguyễn Quang Hoan, hay ai nữa? Khi đã lập căn cứ kháng chiến, dù tạm thời, dã chiến hay thành bản doanh thì Phó đề đốc trực tiếp quản hành dinh là không thể chậm? Đề Kiều vẫn cứ đi đi lại lại, trong đầu căng thẳng, mà giờ tấu trình Thủ lĩnh vào sáng mai, lại không thể trì hoãn.
Trở vào giường. Đề Kiều phân cắt dứt mạch từng phần việc sẽ trình cấp thượng: Thứ nhất, cắt cử đội hành dinh về ngay Tiên Động xây dựng lán trại bản doanh, hạn trong ba ngày phải xong, đón Tuần phủ về an vị chỉ huy kháng chiến. Thứ hai, lập ra bộ quản sơn phòng, lo gấp việc xây dựng đại bản doanh sao cho thuận cả vài ba việc; hoạt động tại chỗ, củng cố và luyện tập, thu nhập quân binh và lương thảo, lại tính đến chuyện, nếu quân Pháp đánh mạnh thì có đường rút lui… Thứ nữa, cho quân binh tin cẩn về Bắc Ninh, về Sơn Tây, về Hưng Hóa, mời đón các sĩ phu, các yếu nhân tài giỏi: Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Thiện Thuật, Vũ Hữu Lợi, Nguyễn Đức Ngữ, đón cả trưởng nam Ngô Quang Đoan1 ở Thái Bình lên Cẩm Khê. Nếu Chủ tướng bằng lòng sẽ cử Vương Văn Doãn làm Phó đề đốc hành dinh, cử Thủ khoa Võ triều Nguyễn Quang Hoan làm Lãnh binh luyện quân kiêm tác chiến, lại cử Khê ông Nguyễn Hội đặc trách văn vận và đàm đạo…
Đêm se lạnh, trăng rằm soi sáng, Đề Kiều cả mệt ngủ thiếp cho đến lúc Mỹ Cẩm kéo tấm chăn chiên, nhè nhẹ phủ lên người, Chánh Sơn phòng mới chợt tỉnh, rồi lại gác tay lên trán, thiếp đi.
Tiếng chim ríu ran trên gò vải, lại rúc rích phía vườn bưởi, tiếng chim rừng lọt vào tai, Đề đốc bừng tỉnh. Bình minh đã xiên hiên đình, hầu bếp Nguyễn Văn Lò đã bưng âu cháo nóng đặt lên bàn ăn từ lúc nào. Đề Kiều mỉm cười như tự chê trách mình vụng về. “Ừ, thổ hào là lão nông, là đất cát vườn tược, đôi lúc thảnh thơi, có gì là quá lắm?”. Cười nhẹ, bỗng dưng Đề đốc lắc lắc đầu: “Không không, không! Ta đang là Chánh Đề đốc Sơn phòng chiến sự. Ta đang cùng Tuần phủ nếm mật nằm gai dặm trường kháng chiến đánh quân sài lang. Ta không còn là chánh tổng, thổ hào”. Đề Kiều nhíu đôi mày rậm, bứt chân khỏi phòng ngủ bước ra sân.
- Quan Chánh, con mời quan dùng bát cháo sáng ạ! - Nguyễn Văn Lò khép tay mời mọc.
- Tôi nhận, tôi nhận rồi, chú cứ lo việc đi.
Ăn xong, Chánh Đề đốc vươn mình một cách khoan khoái rồi khoác bộ đạo binh dã chiến sang nhà ngang đình làng. Thủ lĩnh đang đợi.
- Chánh Đề đốc dùng chén trà cho ấm bụng đã - Thủ lĩnh đưa tay mời.
- Cảm ơn Tuần phủ - Đề Kiều nâng chén đáp lễ.
- Nào, bây giờ Chánh Đề đốc bày giải ý ngài. Ta cùng bàn bạc.
- Thưa Thủ lĩnh - Đề Kiều nghiêm lời mà thân mật - Việc chọn Tiên Động làm đại bản doanh như ý nhóm khảo cứu, Trợ tá là người bản địa, nhận thấy hoàn toàn đúng đắn. Chỉ xin ngài xem xét rộng hơn về đường tiến, thoái?
Thủ lĩnh khẽ gật đầu:
- Trợ tá nói phải. Trong giao chiến, tiến thoái là chuyện phải tính để bảo toàn binh lực. Tôi đồng ý với ngài việc chọn Tiên Động làm bản doanh, nhanh chóng loan ngôn tụ nghĩa Cần Vương, tìm kéo minh chủ, văn vận dân tình và nghĩa sĩ. Tôi cùng đồng ý bổ tước Phó đề đốc hành dinh cho Vương Văn Doãn. Tán tương quân vụ cho Khê ông Nguyễn Hội. Nguyễn Quang Hoan làm Lãnh binh luyện quân kiêm tác chiến. Riêng Đặng Huy Tá và Trịnh Bá Đanh là người Cẩm Khê hiểu rõ đồng đất phong chức cai, lo việc tuyển mộ ba vùng… - Ngừng giây lát, Nguyễn Quang Bích nói tiếp - Nếu trời cho ta được lập cứ phòng ở Tiên Động, thì ta sẽ ra sức hợp nhân mưu đề việc lớn.
Đề Kiều cảm thấy lòng nặng trĩu, thương cho Tuần phủ sức yếu đêm dài đau đáu lo việc nước theo lẽ đạo tôi trung.
- Thưa Chủ tướng, ngài cần bảo trọng, việc đại sự đã có trợ tá chúng tôi lo liệu, tấu trình tướng công khi vượt sức.
Nói rồi Chánh Đề đốc cho Mỹ Cẩm đi gọi bộ tiểu tướng vào ra mắt: Vương Văn Doãn, Nguyễn Hội, Nguyễn Quang Hoan, Đặng Huy Tá, Trịnh Bá Đanh lần lượt khoát tay trước Thủ lĩnh nhận lệnh và cúi đầu đáp tạ.
Nguyễn Quang Bích trở lại am phòng. Đề Kiều mời các tiểu tướng sang nhà bên phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng người, làm thông suốt ý đồ lớn của Thủ lĩnh trước vận nước nhà và nghĩa tôi trung Cần Vương.
- Nguyễn Quang Bích đã chính thức rời xa hành dinh thủ phủ dù vẫn là Tuần phủ Hưng Hóa. Thành Hưng Hóa rơi vào tay quân Pháp, ngài đã vắt mình lên ngựa chiến với tước hiệu Thủ lĩnh, thề quyết tử dưới cờ Cần Vương. Tất cả chúng ta nguyện là đệ tử của ngài.
Phó đề đốc Vương Văn Doãn đứng dậy:
- Thưa Chánh Đề đốc, chúng tôi tâm nguyện trung thành với Tướng công, hành động theo chỉ lệnh của Đề đốc.
Các tiểu tướng cúi đầu đồng thanh:
- Tâm nguyện, trung thành với Tướng công.
Nàng Mỹ Cẩm từ hiên nhà bước vào:
- Thưa Đề đốc. Có hai người từ xa đến xin được gặp ông ngay lúc này.
Đề Kiều ngoảnh nhìn Mỹ Cẩm rồi nói:
- Được. Con mời họ vào đây.
Mỹ Cẩm bước ra. Đề Kiều vừa đứng dậy bước theo sau, đã kịp thốt lên:
- Ôi. Nguyễn Văn Giáp! Tuần phủ Nguyễn Văn Giáp.
Hai người đàn ông chưa kịp hỏi han đã ôm chầm lấy nhau lắc lắc, nước mắt cứ tràn ra.
Vương Văn Doãn rót chén nước chè tươi, nói vui:
- Mời ngài! Chén trà này làm cho chúng ta đến được với nhau.
Đề Kiều cười cười đứng trước nhóm cận tướng, giảng giải:
- Phải nói là duyên ngộ. Ngài Nguyễn Văn Giáp, Bố chánh Tuần phủ Sơn Tây lưu lạc sau khi thất thủ, nay cùng vệ sĩ tìm đến yết kiến Thủ lĩnh. Đề Kiều này xin cảm tạ ngài!
Tiếng tăm Bố chánh Sơn Tây gan dạ đương đầu với quân Pháp thì ai cũng đã nghe thấy, nhưng giờ mới là lúc mục sở thị vị Tuần phủ trung thành với nghĩa lớn Cần Vương. Ai nấy hoan hỉ và kính phục.
Chỉ mươi phút sau đó, Bố chánh được Đề đốc đưa tới trình diện Thủ lĩnh. Hai vị Tuần phủ ôm chặt bờ vai không muốn rời nhau.
Cũng ngay hôm đó, Nguyễn Văn Giáp được Thủ lĩnh tạm chỉ làm Phó tướng công và giao trọng trách cùng với Đề Kiều tổ chức Tiên Động thành Đại bản doanh kháng chiến khu vực toàn Bắc Bộ, trực tiếp tổ chức và chỉ huy đạo binh giao chiến trên khu vực miền Tây.
Nguyễn Văn Giáp đứng dậy cúi đầu lạy tạ. Không còn là Tuần phủ, ngài trở về với tước hiệu Bố chánh - Phó tướng, tiếp tục song hành cùng Tuần phủ Hưng Hóa Nguyễn Quang Bích, dấn thân vào cuộc kháng chiến Cần Vương chống Pháp ngay sau ngày 12 tháng tư năm Giáp Thân (1884).
Đã một tuần lưu lại ở đình Tứ Mỹ, Nguyễn Quang Bích thấy bồn chồn. Một phần sốt ruột cần có một bản doanh để tập hợp thân sĩ cả nước, phần khác lo ngại thám sát Pháp ở Hưng Hóa theo đường đê sông Thao mà tìm đến. Ngài gặp Đề Kiều:
- Ta đã ấn định ngày về Tiên Động, Đề đốc lo sớm.
- Thưa Thủ lĩnh. Căn cứ Tiên Động do Phó đề đốc Vương Văn Doãn chỉ huy đang thừa hành khẩn trương, sớm được đón Thủ lĩnh nhập sơn thành.
- Ta muốn cử phó tướng lên đó trước, ông có đầu óc quân binh, nhận rõ thế đứng, thế tiến, thế lui, để rồi điều khiển nó.
- Vâng. Thủ lĩnh cho chỉ, tôi sẽ lo liệu việc này chu tất.
Hôm sau Phó tướng Nguyễn Văn Giáp được Lãnh binh Nguyễn Quang Hoan tháp tùng có mặt ở đầm trũng Tiên Động. Phó đề đốc đưa ngài đi ngang, đi dọc, đi ngược, đi xuôi. Trở về, Phó tướng vỗ vai Vương Văn Doãn:
- Ai tìm ra Tiên Động?
Phó đề đốc Vương Văn Doãn:
- Thưa ngài, Đề Kiều trước đây là thổ hào Hoàng Văn Thúy người Cẩm Khê, ngài am hiểu đường đất, lại có con mắt quân phòng, nên khi tấu trình Thủ lĩnh, ngài y duyệt ngay.
- Được, được lắm! Thủy sơn hòa nhập, trời mây hội tụ, khí chất yên tĩnh, thoáng đãng. Ta xem phong thủy, sẽ là nơi linh thiêng sông núi.
Nói rồi Bố chánh Nguyễn Văn Giáp tự tay cắm hướng bản doanh và ấn định nội phủ sơn thành, giao lại cho Phó đề đốc hành dinh Vương Văn Doãn gấp rút thực thi lệnh vụ.
Ngày mai sẽ rời đình Tứ Mỹ về Tiên Động, Chủ tướng cho làm bữa cơm “khách”. Đề Kiều băn khoăn e việc lo liệu không chu đáo nên mạo muội hỏi Thủ lĩnh:
- Thưa ngài, vị khách mà được ta mời chiều nay là…
Nguyễn Quang Bích cười, khẽ gật gật:
- Hà! Chánh Đề đốc mời cho ta, ông thủ nhang nhà đình, ông thủ bếp và con gái Mỹ Cẩm.
Đề đốc chợt nhận ra, lấy tay vo vo mái tóc đã ngả màu sương mà lắc đầu: “Trợ tá chậm hiểu, thưa Thủ lĩnh”.
Bữa cơm chiều đó có thịt gà rừng, có cá suối kho, có cả lạc rang, và cút rượu. Nguyễn Văn Lò và nàng Mỹ Cẩm cứ ngẩn người ngồi ngắm nhìn vị quan phủ hiền lành, đến mức ngài phải tự tay gắp thức ăn vào bát, mỉm cười và giục:
- Nào, ăn nhanh, để còn… kháng chiến.
Vẻ như ai cũng ái ngại. Đề Kiều phá tan sự yên ắng:
- Thưa Chủ tướng. “Nhà” Lò đây có nghề gia truyền thảo dược. Thân phụ Lò là Nguyễn Văn Chanh, là bạn đồng niên của tiểu quan, một lang y tiếng tăm ba châu…
- Thế à - Thủ lĩnh cười cười - Hẳn nào thủ bếp và con gái đều khéo tay, sức khỏe ta tốt lên trông thấy.
Đề Kiều hào hứng:
- Còn Nguyễn Lộ, gia tộc đã bốn đời giữ chân thổ đạo đình làng. Nhang Lộ cũng sẽ kế vị thân phụ tế linh thần hoàng.
- Việc thiện tự tâm tất bền vững, há gì hèn sang, to nhỏ, cốt trí lực đồng mưu, chung lưng phụ tử. - Nói rồi, bất chợt, Tướng công vịnh: “Đồng tâm sơn khả di/ Ninh viết lộ hành lao” (Đồng lòng rời được núi/ Sá gì đường gian lao).
Đề Kiều tỏ sự vui vẻ. Nguyễn Lộ, Nguyễn Văn Lò, cả Mỹ Cẩm vừa thấy kính trọng, vừa thấy thương cảm vị quan phủ già, dân dã.
Đêm đó, thổ nhang Nguyễn Lộ đặt lễ thắp hương bái thần thổ. Giờ hoàng đạo, Thủ lĩnh được Chánh Đề đốc và hộ vệ tháp tùng, lặng lẽ rời đình làng Tứ Mỹ, dọc theo đường mòn ven đê sông Thao, tắt ngang cánh đồng, vượt đồi Yên Ngựa, ngược theo khe ngòi Dành đi về làng Tiên Động, phủ Cẩm Khê, ấy là nơi khởi đặt bản doanh kháng Pháp của các nghĩa sĩ Cần Vương hậu Hưng Hóa.
1. Nguyễn Quang Bích, họ gốc là Ngô, hiệu là Ngư Phong, sinh năm 1832 quê ở làng Trình Phố, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định (nay là làng Trình Nhất, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình). Vì lý do gia đình, Ngô Quang Bích mang họ bên mẹ là “Nguyễn”.