Nguyễn Văn Giáp cùng Vương Văn Doãn đi rà soát lại tất cả các công trình, các địa điểm trọng yếu nhất trước khi đón Thủ lĩnh về Tiên Động.
- Theo ý ngài, nếu quân Pháp đánh đến đây ta sẽ cố thủ thế nào để phản công lại chúng?
- Thưa Bố chánh. Tôi và Trịnh Bá Đanh đồ rằng, ta không thể chịu chết đứng như Hưng Hóa. Ngoài việc lập đồn nhỏ ở Ao Lộc để chặn đường bộ thì cần tránh xa tầm đạn pháo trên sông Thao.
- Hay lắm. Ta thất thủ Hưng Hóa cũng là bởi thủy quân Pháp. Nay lui sâu vào rừng đồi, lại lập đồn chặn quân thủy bộ và quân tiến theo đường bộ thì cớ sao không giữ lại được thủ phủ?
Vương Văn Doãn thấy Bố chánh dừng chân ở đỉnh đồi, ngắm nhìn bốn phía rồi lấy trong túi vải ra mảnh giấy mà ngài tự hình dung vẽ lại địa hình bố phòng Tiên Động. Vương Văn Doãn chăm chú nhìn theo đường di chuyển của ngón tay Bố chánh.
- Ba mỏm đồi này - Bố chánh nói - Tướng công an tọa ở đồi giữa, ta đặt tên là gò Quan Đại, Chánh Đề đốc ở cùng Thủ lĩnh. Ta trấn mỏm gò Cửa Tiền, gọi là Cổng Đồn. Còn ngài cùng Nguyễn Quang Hoan án ngữ Hố Gia, xem Hố Gia là cửa hậu, nếu buộc phải lui binh thì đưa Chủ tướng theo đường rừng này sang Yên Lập.
Vương Văn Doãn gật đầu hiểu ý Nguyễn Văn Giáp, liền nói:
- Khi mấy chúng tôi đi khảo sát về, trình Thủ lĩnh việc bố phòng, Tướng công nhắc. Cần lập các đồn binh bao quanh, trại gần, trại xa như kiểu bàn tay chụp xuống, vừa là để bảo vệ căn cứ, vừa để dân làng Tiên Lương yên tâm mà theo cờ tụ nghĩa.
Phó tướng ngẩng nhìn Phó đề đốc hành dinh:
- Chúng ta đã làm đúng ý chỉ, hẳn Tướng công sẽ hài lòng.
- Hai vị nghĩa sĩ có công khai sơn phá thạch căn cứ Cần Vương Tiên Động, xuống đồi rẽ sang chân núi Lưỡi Hái. Bốn phía, quân binh đang gấp rút lo việc xây dựng doanh trại.
Giờ thì Nguyễn Văn Giáp, Vương Văn Doãn, Nguyễn Quang Hoan, Nguyễn Hội đang cùng với Chánh đề đốc Đề Kiều ngồi quây bên Tướng công trong căn nhà gỗ lợp lá trên đồi Quan Đại, tên gò đồi do chính Phó đề đốc hành dinh Vương Văn Doãn đề xuất được Phó tướng Nguyễn Văn Giáp chấp thuận. Khoan thai trong bộ triều phục đại quan, Nguyễn Quang Bích ra hiệu ngồi.
- Nghe nói, đất này hợp mệnh ta, phong thủy đắc lộc. Thiên thời, địa lợi, tất sẽ có nhân hòa. Thật ưng ý lắm.
Nguyễn Văn Giáp lựa lời thưa:
- Tướng công Thủ lĩnh. Ý lớn đã định, việc nhỏ đã làm. Xin Tướng công chỉ dụ cầu tài, tập hợp nghĩa sĩ, tụ họp quân binh, ổn định đồn trí, đặng luyện tập, sẵn sàng giao tranh với giặc Pháp.
Võ tướng Nguyễn Quang Hoan cũng khép hai bàn tay:
- Thủ lĩnh. Việc trước nhất được đặt ra bây giờ là lập các hạng đồn bao quanh Tiên Động trong đó cần bố phòng hỏa lực ở mặt cửa sông Thao, chống chọi chiến hạm Tây, và mặt Cửa Bộ phòng quân Pháp theo đường Ao Lộc.
Khê ông Nguyễn Hội lại nói:
- Việc binh đã rõ, nhưng việc dân cũng cần có chỉ giáo của Thủ lĩnh, hạ tướng đồ rằng, với dân chúng ba vùng, không ai hơn gắn bó hơn thổ hào Hoàng Văn Thúy, tấu Tướng công xem xét.
Thủ lĩnh Nguyễn Quang Bích ngồi lặng lẽ nghe, thỉnh thoảng đưa bàn tay xương xương vuốt nhẹ chòm râu ngả màu đen bạc. Ngài cảm thấy trào sôi trong lòng tình thương nước trung quân sau đại trận Hưng Hóa bất thành. Các tướng lĩnh binh quân phải tan tác sau mấy ngày tử thành, bây giờ đang ở đâu, liệu đã tìm được minh chủ, hay sẽ tìm lại ta? Nếu làm cho Tiên Động lan truyền thì tập hợp ba quân, tập hợp tướng sĩ nhanh hơn, nhưng lại dễ lộ bản doanh, người Pháp sẽ truy đuổi, trấn áp. Mà nếu cứ an cư lặng lẽ thì khác nào làm chuột chui hang chờ đến đêm đi kiếm ăn! Nguyễn Quang Bích chợt nhíu mày, các tiểu tướng đang chờ lời giải của Thủ lĩnh mình đây?
Thủ lĩnh ngẩng nhìn Đề Kiều rồi chợt hỏi:
- Chánh Đề đốc thấy thế nào?
Đề Kiều tự nghĩ các tướng nêu bản kiến đều đúng. Tiếng là chánh tổng liên vùng kiêm thổ hào Cẩm Khê, Đề Kiều nhận rõ trọng trách của Chánh Đề đốc trước Thủ lĩnh nên nắm chập hai bàn tay, đưa ngang ngực:
- Thưa Thủ lĩnh. Tiểu tướng nghĩ rằng các vị đây đều đã vì vận mệnh mà hiến kế, và kế nào cũng đầy đủ lý và tình. Riêng hạ tướng Đề Kiều xin có lời với Tướng công và các quân chư vị…
Năm, sáu đôi mắt hướng cả về Chánh Đề đốc. Chững chạc, tự tin, lại là người trọng thần phục, Đề Kiều nói tiếp:
- Tướng công, ngài phải là ngọn cờ Cần Vương trong lòng dân ba vùng, nghĩa sĩ tìm đến, quy phục. Bộ tướng tôi thủy chung với ngài. Khê ông vừa có lời trình Tướng công, nếu được ngài y thuận, tiểu tướng họ Hoàng này xin tự nhận làm cánh quân đầu binh xung tiên dưới quyền lệnh của Tướng công và Phó tướng quân.
Nói xong, Đề Kiều như thở phào. Tự nhận quân đầu binh xung tiên lần này khác với trận tử thành Hưng Hóa. Ba vùng Cẩm Khê chỉ trong lòng bàn tay, Tây Bắc mới là rộng lớn và gian khổ. Đề Kiều không ngẫu hứng dù rằng biết mình là kẻ sĩ giữa làng thổ hào. Ông quyết định một lần nữa dấn thân vào cuộc kháng chiến chống lại người Pháp theo mệnh quốc sấm Hịch Cần Vương của Minh vương Hàm Nghi.
Những lời gan ruột và thái độ vừa cứng rắn, vừa khiêm nhường của Đề Kiều làm Nguyễn Quang Bích cảm thấy yên lòng. Ngài đưa tay vuốt nhẹ chòm râu rồi nói:
- Các tướng đã theo ta mấy trận giữ thành, nay người Pháp đã chiếm cả Hà Nội lẫn Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa. Nhờ các minh tướng mà ta đã kịp nghĩ lại, không rẽ theo đường Tổng đốc, dẫn họa tan binh. Giờ đây tướng sĩ cùng ta khởi dựng Tiên Động, lại dự phòng Tây Bắc, há phải lòng trời sao. Ta nguyện trung tử với Hịch Cần Vương của nhà vua yêu nước Hàm Nghi và Đại thần phụ chính Tôn Thất Thuyết. Các tướng văn võ nghĩ sao?
- Y lệnh Minh quân Thủ lĩnh!
- Y lệnh Minh quân Thủ lĩnh!
Các tiểu tướng đồng thanh lên tiếng, hướng về phía Thủ lĩnh mà cúi đầu cảm tạ.
Thủ lĩnh đưa hai bàn tay lên cao, ra hiệu tạm lắng, ngài ngẩng nhìn khắp lượt rồi chậm rãi nói, giọng ngài rõ ràng và khỏe mạnh:
- Mưu phục quốc là ý trời phó thác. Minh vương, đại thần rời khỏi kinh thành, tự ôm lấy núi rừng Quảng Trị, lập cứ Sơn phòng trong Nam, ngoài Trung, rồi Bắc Kỳ, đâu đâu cũng lấy cờ Cần Vương mà phản đối triều đình bạc nhược. Ta sẽ cùng các tướng tụ hợp binh quân, hẹn ngày dựng cờ khởi sự ngay trên đất Tiên Động này. Các tướng có đồng lòng với ta?
Các tiểu tướng cúi đầu, đồng thanh:
- Y lệnh Minh quân Thủ lĩnh!
- Y lệnh Minh quân Thủ lĩnh!
Thủ lĩnh gật đầu rồi nghiêm giọng:
- Để giúp ta lo việc đại sự, ta ban lệnh: Sung Đề đốc Đề Kiều tức Hoàng Văn Thúy làm Phó tướng thứ hai, đặc trách chỉ huy Chiến khu Rừng Già và mặt trận Đà Giang. Sung Phó đề đốc Vương Văn Doãn làm Chánh Sơn phòng Tiên Động. Ta cho các tướng lui diện!
Chánh sơn phòng Tiên Động Vương Văn Doãn cùng Khê ông Nguyễn Hội lững thững đi bên mỏm đồi Cửa Tiền, vừa đi vừa ngắm nhìn phải, trái, trước, sau. Cả hai dừng lại.
Vương Văn Doãn:
- Ngài Khê ông. Tiểu nhân chưa hay được hỏi, tước của ngài là Tán tương, mà lại có tên Khê ông là cớ làm sao?
- Chánh Sơn phòng. Tôi thuộc dòng Nguyễn Khắc, tên Hội. Gọi tôi là Tán tương Nguyễn Hội, được Tướng công sung Quân vụ, nên hiển danh: Tán Tương Quân vụ Nguyễn Hội. Còn Khê ông là làng quê sinh hạ mà tôi nguyện thác sẽ hóa thân.
- Tiếng tăm ngài ba vùng đều hay, tướng binh còn phục tài ứng khẩu, tài văn luận, và cả tài đàm đạo của ngài nữa. Hẳn Tướng công xem ngài là vị quan ngự sử, vị quan ngữ văn số một bên mình. Chánh sơn phòng này xin thần phục ngài, thần phục ngài!
- Ngài Chánh Sơn phòng. Âu cũng là nhờ giời được theo hầu Tướng công. Tinh anh của ngài lan tỏa mà tôi nhiễm được cái tâm cái đức ở ngài, để bây giờ theo ngài Thủ lĩnh phụng mệnh Cần Vương phục quốc. Làm được việc nghĩa lớn ấy thì Tán tương này dù có ngã xuống cũng hả dạ.
Hai vị sĩ phu vào hạng đứng đầu bộ tướng, vừa thong dong vừa trò chuyện. Bất chợt Tán tương Nguyễn Hội dừng lại ngắm ngắm nhìn nhìn rồi chỉ xuống mô đất mặt tiền gò đồi:
- Chỗ đây. Ta dựng chân cờ Phục Quốc tụ nghĩa ở điểm đất này. Phong thủy, linh khí, gió khí, đều thuận.
Chánh Sơn phòng cúi nhìn, rồi ngẩng mặt. Bốn hướng núi chầu, tám phương gió thoảng. Một đàn chim trời từ đâu bay về chao qua chao lại rồi sà xuống đậu trên những cành cây tán rộng kêu ríu ran.
Chánh Sơn phòng Tiên Động gật gật đầu lấy làm hài lòng sai vệ binh đào đất xếp đá xây trụ. Chỉ một ngày, lá cờ có dòng chữ: “Phục Quốc Tụ Nghĩa” được kéo cao, bay phần phật bên cạnh hành dinh Quan Đại.
Nhìn lá cờ tụ nghĩa ngạo nghễ giữa mỏm đồi cao rộng. Bố chánh Nguyễn Văn Giáp nghĩ ngay đến việc sẽ có kẻ dò xét nơi căn cứ nghĩa quân rồi thông ngôn cho quân Pháp, hoặc quân do thám Pháp ở Hưng Hóa đang truy tìm hướng đi của Thủ lĩnh và quân binh, nên cho gọi ngay Nguyễn Quang Hoan đến gặp.
- Võ tướng! Ngài sẽ là tổng chỉ huy mặt trận Cửa Tiền. Nơi ấy thường xuyên đối mặt với các tướng Pháp cả trên cửa sông Thao và cửa đường bộ. Ngài sẵn sàng nhận việc khó ấy chứ?
Nguyễn Quang Hoan từng là thủ khoa võ triều Nguyễn, từ ngày về Hưng Hóa được Tuần phủ gọi thân mật là Võ tướng. Mọi nhiệm vụ nặng nề giao cho Hoan, Thủ lĩnh cảm thấy yên tâm. Cuộc tử thủ Hưng Hóa không thành, nếu không có Đề Kiều và Quang Hoan thì Tuần phủ cũng đã theo các Tổng đốc Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu. Với tư cách là Phó tướng thứ nhất, Nguyễn Văn Giáp đề xuất việc cử Nguyễn Quang Hoan làm tổng chỉ huy Mặt trận số 1. Thủ lĩnh gật đầu ngay và còn bút phê vào tờ trình: “Võ Hoan Cửa Tiền”.
- Nơi xung yếu này nên lập đồn theo thế cài răng lược - Nguyễn Quang Hoan vừa nói vừa đưa hai bàn tay xòe rộng rồi luồn vào nhau.
- Ngài lý giải rõ hơn đi? - Phó tướng Nguyễn Văn Giáp yêu cầu.
- Thế này… Thưa Phó tướng…
Hai vị tướng quân ngồi bệt xuống vồng cỏ, Nguyễn Quang Hoan cầm hòn đá vôi vẽ vẽ trên phiến đá bằng phẳng. Những vạch kẻ ngang dọc, đan chéo, dấu cộng, dấu trừ. Lại có cả hình nón, hình cánh cung, rồi mũi tên chạy thẳng, chạy cong, mũi tên gẫy gập… Mặt phiến đá nham nhở trông như trận đồ bát quái.
Bố chánh tủm tỉm cười:
- Thủ khoa võ có khác. Nhưng đây mới là trên sa bàn, còn ngoài sa trận, ngài có dám cam kết trước Thủ lĩnh?
Võ tướng Nguyễn Quang Hoan hào hứng:
- Dám chứ. Với điều kiện là Phó tướng cho tôi quyền tổ chức đao binh quân mặt trận, và cho tôi dùng sơn pháo thần công.
- Sơn pháo thần công thành Hưng Hóa đã lọt vào tay quân Pháp cả rồi, khó khăn cho ta.
Nguyễn Quang Hoan trầm ngâm:
- Biết là khó, nhưng Tây có pháo hạm đặt trên sông Thao, mà ta có sơn pháo đặt trên đồi cao, tất chúng phải bỏ cuộc.
Phó tướng Nguyễn Văn Giáp:
- Ý võ tướng thật hay, tôi sẽ cùng ngài lo liệu.
Nắng chiều ngả chéo bóng cây, hai nghĩa binh, hai tướng lĩnh đích thân thị sát mặt trận Cửa Tiền trở về bản doanh. Mấy ai hiểu tâm trạng của Bố chánh và Võ tướng trong lúc này: Cửa Tiền, sự mất còn của Đại bản doanh Tiên Động.
Đề Kiều ngồi trầm ngâm dưới bóng cây lim cổ thụ. Ngày còn là Chánh tổng, Thổ hào Hoàng Văn Thúy có ý định mở thêm mấy quả gò phía tây để trồng lim, tạo nên một rừng lim để lại cho con cháu đời sau. Đem ý tưởng đó thổ lộ với bố vợ là Hà Công Cấn người làng Ao Lộc, ngỡ ông phản đối, nhưng không, nhạc phụ Công Cấn khích lệ:
- Con mở rộng gò lim thành rừng lim là phải lắm. Người xưa xem lim như cây thần, rừng nhiều cây, tất có thần rừng, mà thần rừng thì tĩnh tâm cứu độ chúng sinh, che chở cho muôn vật, che chở cho ta. Con rể mở rộng gò lim thành rừng, là phải lắm!
Lời nhạc phụ vốn lão nông chi điền, chứ đâu phải nho túc mà sâu sắc, thúc giục lòng người đến thế.
Thế rồi năm Đinh Sửu 1877, Nhị giáp Tiến sĩ Nguyễn Quang Bích được triều đình bổ làm Chánh sứ Sơn phòng kiêm Tuần phủ Hưng Hóa. Ngài cho người tìm đến Hoàng Văn Thúy, vời về thành. Trước đức độ, và tài thu phục của vị Tuần phủ, Chánh tổng thổ hào Cẩm Khê quyết định về Sơn phòng làm phò tá Tuần phủ. Thế là ý định mở rộng rừng lim đang dở dang phải tạm ngừng. Thật trớ trêu, nơi rừng già có những cây lim trăm tuổi đang được mở mang lại trở thành chiến khu, Đề Kiều cựu Chánh tổng Cẩm Khê được chính Thủ lĩnh phong chức Phó tướng thứ hai, đặc trách chỉ huy Chiến khu Rừng Già, còn gọi là mặt trận Cửa Hậu.
Ngồi bên Đề Kiều, chỉ huy mặt trận Cửa Hậu lúc này là Bố chánh Nguyễn Văn Giáp và Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn.
- Đề đốc đặt tên “Chiến khu Rừng Già”, nghĩa là sao? - Bố Chánh hỏi.
- À, đơn giản thôi ngài Bố chánh. Vì tôi muốn gửi gắm tất cả tinh thần, của cải, suy nghĩ và hành động của tôi trước vận mệnh quốc tộc, và trước vùng đất sinh thành!
- Sâu sắc, sâu sắc! - Bố chánh bật nói, chìa hai tay nắm chặt tay Đề Kiều.
Chánh Sơn phòng Tiên Động xen ngang:
- Đề đốc tôi gắn bó với Rừng Già như xương thịt, như cơm ăn nước uống ngày ngày. Đề đốc phó tướng với chiến khu, khác gì sư tử xám làm chúa sơn lâm. May thay, căn cứ kháng chiến có Đề đốc.
Bố chánh vui hẳn lên:
- Hay, hay lắm! Chúa sơn lâm Rừng Già!
Chợt Đề Kiều ngửa hai bàn tay chặn ngang ngực:
- Không, không. Thưa hai vị. Căn cứ Tiên Động mới là chiến khu, “chúa sơn lâm” ngài đang mưu lược cứu nguy quốc nhục đấy, hạ tướng ta chỉ là hạng hùm cọp giữ rừng.
Cả Bố chánh lẫn Chánh Sơn phòng dập tay đen đét. Bố chánh:
- Chí lý, chí lý. Nếu có rượu đây, tôi sẽ chúc ngài Chánh Đề đốc.
Đề Kiều cả cười, ngài sợ rằng cuộc vui kéo dài làm mất thì giờ quý báu, nên chủ động:
- Bây giờ xin hai vị tra xét mưu kế bày binh mặt trận cửa hậu mà tôi đã chuẩn bị.
Nói đoạn Đề đốc chỉ huy trưởng trải ra thềm đất một tấm vải xám rộng tới cả mét, rồi bẻ cành găng, những lá găng bằng ngón tay cái, xanh thẫm, được bày ra từng chiếc, Đề đốc nhặt từng lá, sắp đặt, xê dịch, rồi lại sắp đặt. Chỉ một loáng trên nền tấm vải đã tạo nên một hình thù không trật tự. Đề Kiều chỉ vào bản “sơ đồ” rồi nói:
- Lá găng to này là vị trí chỉ huy chung. Lá găng nhỏ này là các đồn hiểm yếu. Còn lá găng gập kia là đồn giả, ổ súng giả, ta sẽ hút quân Pháp vào mục tiêu giả ấy mà thừa cơ đánh úp chúng.
Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn nhìn rõ trận địa giao chiến, nhưng vẫn không nhận ra đường lui, liền hỏi:
- Ngài Đề đốc. Từ hành dinh Thủ lĩnh ở gò Quan Đại vượt đầm lầy đến cửa đèo Yên Lập là đoạn đường xa, phải leo núi Lưỡi Hái và vực đá trơn. Nếu quân Pháp đánh ập bốn mặt cùng một lúc, ta đưa Chủ tướng đi thế nào?
Đề Kiều:
- Tôi đã nghĩ đến bài học thành Hưng Hóa. Nếu Thủ lĩnh đòi phải lập phương án “cửa hậu” thì Yên Lập là con đường duy nhất. Mặt trận Cửa Tiền và các đồn tiền cửa hậu sẽ kìm chân giặc để Thủ lĩnh cùng bộ tướng thừa cơ rút lui an toàn.
Bố chánh Nguyễn Văn Giáp ngắt cành găng thành những mẩu nhỏ, đặt thành dãy nối tiếp trên mặt tấm vải:
- Ngài Đề đốc. Không cần chờ ý chỉ của Thủ lĩnh, mà trước hết là tôi và các ngài phải đặt ra, phải lo liệu.
Ngẩng nhìn hai lãnh tướng chiến trận, Bố chánh chỉ tay vào những mẩu cành găng nối nhau, nói một cách rắn chắc:
- Nếu buộc phải lui binh, rời khỏi căn cứ Tiên Động, thì đường đi của Tướng công và đại quân sẽ là đây: Hố Gia, đèo Lưỡi Hái, Yên Lập, lên rừng núi Tây Bắc.
Không ai bảo ai, trong đầu ba vị tả tướng đều thoáng hình dung một núi rừng miền Tây bao la, nơi ấy có thể sẽ là chiến khu khởi nghĩa bền vững.
Với sự chủ trì của Bố chánh Nguyễn Văn Giáp và Phó tướng thứ hai Đề Kiều, cuộc tụ họp quan trọng tổ chức tại Gò Lim khu Rừng Già, cách gò Quan Đại mấy trăm mét. Bố chánh thay lời Thủ lĩnh đọc “Lời triệu” chiêu binh mộ sĩ do văn quan Nguyễn Hội soạn:
“Bàn dân Cẩm Khê, Tam Nông, Hạ Hòa, Yên Lập. Người Pháp xâm lăng đã chiếm thành Hưng Hóa. Tuần phủ và binh tướng đã rút về Tiên Động lập chiến khu Rừng Già. Ta mời gọi các chư vị chí sĩ nghĩa sĩ, nghĩa binh và bàn dân khắp miền cùng về Rừng Già hợp sức với ta đánh lại người Pháp, phục quốc rửa nhục quốc sử. Văn võ bên ta là những tướng tài như Bố chánh Nguyễn Văn Giáp, Phó tướng Đề Kiều, Võ quan Nguyễn Quang Hoan, Văn quan Khê ông Nguyễn Hội và nhiều tả hữu tài giỏi đức độ khác nữa. Nay ta thành tâm triệu mời!”.
Các tướng sĩ Rừng Già cùng hô vang:
- Về với Tướng công đánh Pháp!
Lời triệu vang thật nhanh. Dân làng các xã ba vùng bàn tán, hỏi nhau thực hư ra sao? Có đúng ngài Tuần phủ kêu gọi từ Tiên Động không? Trai tráng hay bàn dân, nghĩa sĩ, nghĩa binh, lại cả chí sĩ nữa, ngài sẽ thu nạp thế nào! Ông già bà cả, nam thanh, nữ thanh đi làm, đi chợ, xôn xao cả một vùng.
Việc thu nhận quan sĩ và quân binh, và sắp xếp về các đồn do đích thân Phó tướng Đề Kiều phụ trách. Nghe tên tuổi Đề Kiều, đúng là Chánh tổng thổ hào Hoàng Văn Thúy năm năm về trước, dân làng ba huyện ào ào cho con cháu loại trai tráng tìm đến Rừng Già ra mắt và xin được nhập “Đạo quân Tuần phủ”. Đề đốc loan truyền: “Ai ai gia nhập Đạo quân Tuần phủ, cũng đều là bởi nghĩa lớn, đều là bởi việc nước, nặng lòng Vương triều, không mảy may nghĩ lợi riêng mình, Tướng công Thủ lĩnh sẽ biết tới!”.
Lời triệu của Thủ lĩnh ban ra chưa đầy nửa tháng trời, trai tráng khắp nơi đã kéo đến xin đầu quân. Việc trai tráng đầu quân Đề đốc phó tướng giao cho Đốc binh Nguyễn Đình Ngữ sắp xếp bổ về các đồn, chỉ huy đồn cho luyện tập rồi phiên các đội thiện chiến tùy theo vùng sông nước, đồng lầy, rừng rậm, dốc đá hay len vào làng quê xóm chợ mà đánh. Còn các nghĩa sĩ, vệ binh, dân binh, từng giao chiến trận Hưng Hóa thất lạc nay tìm về với Chủ tướng, Đề đốc cho mời đến tư phòng Vương Văn Doãn để được ghi nhận công tích và lấy lại lòng thành, rồi mới bổ về giữ trọng trách tại các đồn trọng yếu.
Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn đang lúi húi ghi chép, soạn thảo nội dung một lễ trọng theo yêu cầu của Thủ lĩnh thì một bàn tay to bè, đặt lên vai.Vương Văn Doãn quay lại:
- Ôi, ngài Tán Thuật!
Tán tương Nguyễn Thiện Thuật, Chánh sứ Sơn phòng Hưng Hóa, ôm chầm lấy Chánh Sơn phòng.
- Tán tương Chánh sứ ở đâu đến?
- Chuyện dài. Thôi! Thành Hưng Hóa không còn, nhắc đến Chánh sứ Sơn phòng làm gì?
Nguyễn Thiện Thuật ngồi bệt xuống hiên nhà, ngài nhẹ kéo gấu áo Triều phục, thủng thẳng:
- Đi đến chân núi Tiên Sơn mới đưa nó ra mặc, cũng là nợ nước trung quân mà nguyện tìm về với Chủ tướng, tìm về đồng cam cùng bộ tướng.
Vương Văn Doãn khoát tay trước ngực:
- Cảm tạ tướng quân. Doãn này xin được làm hầu đệ của Thủ lĩnh.
- Không chỉ có tôi đâu, Thuật này nghe nói Tiến sĩ Vũ Hữu Lợi ở Nam Định, Tiến sĩ Tống Duy Tân ở Nghệ Tĩnh, cử nhân Đinh Công Tráng ở Thanh Hóa cũng đang trên đường tụ nghĩa Tiên Động, trình diện Đình nguyên Hoàng Giáp Tướng công Nguyễn Quang Bích.
Vương Văn Doãn nghe Tán Thuật đưa tin, mừng lắm, liền mời ngài vào nhà an tọa thư giãn sức lực. Rồi sang dinh lán Thủ lĩnh thưa chuyện. Nghe xong, Nguyễn Quang Bích nhắc, hậu đãi Tán Thuật, và cứ để ngài bình tâm an tĩnh vài ba ngày. Đoạn lại truyền cho cảnh binh hành dinh đi các ngả đường Tiên Động chờ đợi, nếu gặp được các văn thân nghĩa sĩ thì đưa đường, rước phục về tư lán hành dinh của Chánh Sơn phòng. Vương Văn Doãn chắp nắm tay nhận lệnh rồi lui ra.
Tán tương Quân vụ Nguyễn Thiện Thuật tìm đến yết diện Nguyễn Quang Bích tại Chiến khu Rừng Già làm dậy lòng tướng sĩ. Tán Thuật là người Hưng Yên, đỗ cử nhân, được bổ làm Chánh sứ Sơn phòng phò tá Tuần phủ ở Hưng Hóa. Lại được Tuần phủ giao cho việc trợ giúp Hoàng Kế Viêm. Khi Viêm bỏ về Huế, Tuần phủ mất chỗ dựa, Hưng Hóa thất thủ Tán Thuật đang trên đường ra Bắc, được tin khóc lóc thảm thiết, nhịn ăn ba ngày rồi về quê an vị. Nhưng nghĩ thương Hoàng Giáp Tuần phủ, lo cho vận mệnh đất nước mà ăn không ngon, ngủ không yên lòng, Nguyễn Thiện Thuật chắp tay vái mẹ già, rồi đeo túi Triều phục cùng một hộ vệ ra khỏi nhà trong đêm mưa rét tháng hai.
“Tuần phủ ơi, ngài đang ở Tiên Động là chỗ nào? Trời phật phù hộ cho ta tìm được ngài càng sớm càng tốt!”.
Vừa đi, vừa nghĩ, có lúc bật lời tâm giao ra khỏi miệng.
Hai thầy trò vị tiểu tướng thành Hưng Hóa mặc áo nâu sồng lẫn vào dòng người, kẻ buôn thúng bán mẹt, kẻ hội hè, chùa chiền. Có đêm vào nhà dân xin ngủ nhờ, xin cơm chay, có đêm ghé tạm lán trại trẻ chăn trâu, rồi tìm gặp người già ngoài ruộng, hỏi đường về Cẩm Khê.
Vùng đất Cẩm Khê đây rồi. Ngày ở thành, Nguyễn Thiện Thuật đã từng cùng Đề đốc Đề Kiều đi kinh lý nơi đây, khi đó tiếng tăm Chánh tổng thổ hào Hoàng Văn Thúy nổi cả ba vùng, dân làng Tam Nông, Yên Lập, Cẩm Khê ai cũng trọng vọng ngài, nhờ những chuyến đi cùng Đề đốc mà Nguyễn Thiện Thuật học được cách gần dân, gắn kết với họ, mưu việc cho mình. Nhớ lại những ngày sôi động mà thân tình bên Chủ tướng, Nguyễn Thiện Thuật thấy tự tin. Hai thầy trò thay bộ nâu sồng nhà chùa, hiển hiện hai cha con lang y nhà nông, lên rừng Tiên Động tìm cây thuốc nam.
Theo lời đề Chánh sơn phòng, ý Minh chủ chưa giao việc cho một tướng tài cao đức trọng như Tán Thuật là có ý gì? Đến cả phó Bố chánh cũng chưa tự lý giải được huống gì bộ tướng? Đề đốc phó tướng, Khê ông văn vận, Nguyễn Quang Hoan ngồi chụm đầu sắp xếp trọng trách tướng lĩnh và nghĩa sĩ để trình Thủ lĩnh.
Bố chánh đi đi lại lại, chợt dừng bước:
- Ngài Đề đốc mặt trận cửa hậu, và ngài võ tướng lãnh binh chỉ huy mặt trận hậu Cửa Tiền, hãy xướng danh đồn trưởng các đồn?
Nguyễn Quang Hoan nhanh nhảu:
- Thưa ngài Bố chánh. Cửa Tiền xung yếu bởi pháo hạm sông Thao, mà Tán Thuật lại giỏi sông nước, xin ngài cho Thuật đặc trách đồn sông Thao nhằm chặn quân sài lang ngay từ thủy pháo hạm.
Bố chánh gật gật tỏ ý tán thành. Nhưng lại hỏi:
- Nếu Thủ lĩnh không phê thì ngài tính sao? Lại còn cửa đường bộ nữa!
Nguyễn Quang Hoan giật mình: “Ờ nhỉ. Chủ tướng chưa giao việc, chắc là ngài đã có ý!”. Nhưng rồi không ngần ngừ, lên tiếng:
- Cửa Sông là Dật, Tán tương Lê Đình Dật. Còn Cửa Rừng là Hoàng Đình Cương, Lãnh binh Cương. Tạm thời hai người đồn trưởng ấy đã, các phó đồn, tôi tính sau.
Bố chánh, Đề Kiều đều gật đầu:
- Được!
- Được đấy, ngài Võ Hoan! - Đề Kiều tán thành, rồi ngài tiếp luôn:
- Ở Rừng Già, tôi đề xuất: Đề Kiều tôi sẽ kiêm nhiệm cửa Cẩm Khê, phó đồn có Tổng khảm Trịnh Bá Đanh và cụ Tán áo Hà Công Cấn trợ giúp. Còn cửa Khả Cửu, Thanh Sơn thì tốt nhất là Nguyễn Đình Ngữ. Tôi cũng nghĩ đến phần trung lưu sông Thao, nên lập một đồn, trấn cửa Hạ Hòa đề phòng thủy chiến Pháp ngược sông rồi đánh lật lại Tiên Động.
Bố chánh thấy Đề Kiều đề xuất thì vỗ đùi đen đét mà cười:
- Đề đốc, ngài đúng là một tướng quân, và là một chánh tổng. Ngài có con mắt của quân binh, lại có con mắt của một dân binh thổ hào! Nhưng theo Đề đốc, ngài giao việc này cho ai?
Đề Kiều ngẩng mặt quả quyết:
- Đốc Thục, người Đoan Hùng!
- Được, được! - Bố chánh gật gật đầu.
Nguyễn Văn Giáp đứng dậy bước vài bước trong khuôn sân lán trại rồi vỗ vỗ nhẹ vào vai Vương Văn Doãn, người vừa bước vào ghế.
- Một việc rất quan trọng nữa, là, cột cờ thì làm rồi, nhưng nội dung lá cờ tụ nghĩa, hình như Chủ tướng chưa hài lòng. Các ngài thấy sao?
Vương Văn Doãn:
- Vâng, thưa ngài Bố chánh. Tướng công có lần tâm sự với tiểu tướng là hai từ “tụ nghĩa” thì hay, nhưng không rõ mục đích, mục tiêu, chưa thể hiện ý chí của văn thân và nghĩa sĩ. Nhưng ngài chưa đề bút, mà cũng không đọc lời, nên tôi không tiện hỏi.
Bố chánh:
- Thôi được, việc cờ nghĩa là việc lớn, tôi và Chánh sơn phòng sẽ xin ý kiến Hoàng Giáp.
Ngừng giây lát. Nguyễn Văn Giáp đưa hai bàn tay nắm chặt giơ lên.
- Việc bổ tướng đồn, ta đã thống nhất. Các ngài sớm sắp đặt cho hoàn thiện và lo chuyện tập dượt, việc binh đao không đợi bút phê của Tướng công.
Đề Kiều, Nguyễn Quang Hoan, Vương Văn Doãn đều đứng cả dậy khẽ cúi chào, rồi bước ra khỏi dinh Bố chánh.
Nguyễn Quang Hoan cho người về làng Mè tìm Ma Văn Vân. Dạo ở Hưng Hóa, Vân là dân quê, nhân chuyến đi bè sông Thao, gặp Hoan, lúc bấy giờ Hoan chỉ là nghĩa binh, hai người hợp lòng hợp ý, Vân tôn Hoan là anh, anh em huynh đệ, Hoan - Vân trở nên thân thiết. Rồi Vân tự theo Hoan vào thành, lúc đầu là dân binh, được Nguyễn Quang Hoan bảo lãnh, Ma Văn Vân trở thành nghĩa binh, rồi là thủ binh cho Nguyễn Quang Hoan. Ma Văn Vân gan dạ, mưu mẹo và trung thực, nên được võ tướng tin dùng. Có lần Nguyễn Quang Hoan kể chuyện Vân dụ hai lính vệ binh người Việt cùng quê, làm trong hàng ngũ quân Pháp ở Sơn Tây, hai lính Việt họ Mè tìm cách làm cùng ca gác rồi ôm súng trốn về thành Hưng Hóa, tự thú tội và xin làm quân binh của Nguyễn Quang Hoan. Từ bấy Chủ tướng biết đến Ma Văn Vân và giao cho Vân chức Thị sát, phụ trách nhóm quân dò xét tình hình bên ngoài. Hưng Hóa thất thủ. Ma Văn Vân lánh về quê làng Mè.
Gặp được Thị sát Ma Văn Vân, Nguyễn Quang Hoan không ngần ngừ mà giao ngay phó đồn Cửa Bộ dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hoàng Đình Cương.
Võ tướng Nguyễn Quang Hoan lại cho người tìm đến Văn Lang, Hạ Hòa tìm Đào Văn Toát. Toát là người cao to, có sức khỏe, từng gia nhập quân triều đình sung hành thành Sơn Tây. Do có công, được Bố chánh Tuần phủ Sơn Tây Nguyễn Văn Giáp phong chức Đội vệ - đội trưởng Vệ binh. Thành Sơn Tây bị uy hiếp rồi thất thủ, Đào Văn Toát chạy về Hưng Hóa ra mắt Tuần phủ Nguyễn Quang Bích và được ngài phong Lãnh - Lãnh Toát, sung vào đội cảm tử của Nguyễn Quang Hoan. Thế giặc quá mạnh, Đề Kiều, Nguyễn Quang Hoan dìu Tuần phủ Thủ lĩnh Rừng Già. Đề Kiều đưa Thủ lĩnh rời thành, Nguyễn Quang Hoan và Đội vệ Đào Văn Toát cùng đội cảm tử, vẫn cản bước chân giặc cho đến lúc quân Pháp tràn vào thành, Hoan và Toát mỗi người cùng tốp binh quân, chạy thoát vào rừng.
Võ Hoan vời được Đào Văn Toát trở về Sơn phòng Tiên Động làm Phó đồn Cửa Sông dưới quyền Tán tương Lê Đình Dật.
Cái rét nàng Bân năm nay cũng chỉ thoáng qua, không kéo dài. Sau trận mưa rào tháng ba, dấu hiệu của đầu hè đến sớm. Bản doanh Thủ lĩnh như trầm lặng trong cánh rừng già đang vụ nảy lá non. Chim rừng từng đàn, ríu rít trên các cây cổ thụ Tiên Động. Dưới tán cây xanh mát có những khoảng trống to nhỏ để những tia nắng sau mưa tuy có nhợt nhạt nhưng cũng đủ rọi xuống làm thoáng đãng không gian Rừng Già.
Đồi “Quan đại thần” - quân binh thân mật gọi thế, một lúc có mấy tốp khách được vệ binh của Nguyễn Quang Hoan đưa đến tư dinh Quan Đại. Ai nấy tỏ vẻ tươi vui hào hứng chờ đợi phút giây mà họ đã phải mất bao ngày đêm mỏi mắt đợi chờ.
Gian nhà lán ba gian lợp lá cọ, phân liếp vách nứa nhưng rộng rãi. Cột gỗ không cưa xẻ mà một đầu hồi, cây cột cái lợi dụng luôn vào chãng hai gốc thành ngạnh già. Hôm chọn địa điểm dựng lán “chiêu hiền”, đích thân Tướng công cắm hướng và gợi ý Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn để nguyên cây xanh này. Thành ngạnh là loại cây cao, thẳng, cứng, vỏ bạc phếch, các mắt sần lúc nào cũng rỉ nhựa đỏ và dính. Thành ngạnh sống khỏe trong mọi thời tiết mưa, nắng, hạn, úng, gió giật. Khê ông Nguyễn Hội nhìn nhà lá chiêu binh hiền tài gật gù nói với Vương Văn Doãn:
- Tướng công có con mắt linh thần, lại có quả tim trung quân ái quốc, việc tất thành!
Vương Văn Doãn lấy làm thích thú giải đáp:
- Tướng công sâu sắc lắm, nhựa cây cũng như máu và nước mắt người ta vậy, “Bình Tây Báo Quốc” là ý chí của Thủ lĩnh!
Tán tương Quân vụ và Vương Văn Doãn rảo bước quanh nhà lá “Chiêu Hiền”.
- Thưa ngài!
Vương Văn Doãn quay lại. Một vệ binh đã đứng ngay sau lưng, hai nắm tay khép hờ:
- Thưa ngài Chánh sơn phòng, có một người tự xưng là Tướng quân Đinh Công Tráng, nghe giọng nói nặng nặng, hai ba kẻ theo hầu, đang dưới lưng đồi, đòi vào gặp Thủ lĩnh.
- Được! Mời lên gặp ta.
Nói rồi, Doãn bước nhanh về tư dinh. Vừa lúc Đinh Công Tráng bước tới.
Vương Văn Doãn chắp hai nắm tay ngang mặt:
- Chẳng hay, Tướng quân là ai, từ đâu về tụ nghĩa?
Đinh Công Tráng nhìn Vương Văn Doãn, thấy phong thái lịch thiệp nhưng thiếu dáng uy nghi, cho rằng đây chỉ là một hầu cận nên không trả lời mà chỉ bước qua bước lại.
Chánh sơn phòng thấy người được cho là “Tướng quân Đinh Công Tráng” tỏ vẻ xem thường chức sắc của bản doanh Tiên Động, lấy làm khó chịu. Nhưng vì trọng nghĩa chiêu hiền của Minh chủ nên kiềm chế, bước lên hai bước, một lần nữa chắp nắm tay, mỉm miệng, mà rằng:
- Quý tướng quân, muôn dặm đường xa về đây không ngoài mưu cầu phục quốc, là phải lòng phải dạ Thủ lĩnh Hoàng Giáp lắm. Xin mời ngài an tọa cho đỡ mệt mỏi, Tướng công tôi sẽ thân hạ tiếp người.
Đinh Công Tráng thấy người đứng trước mặt lễ nghĩa nói câu “Tướng công thân hạ” tiếp mình thì cảm thấy ái ngại, liền khoát khép hai cánh tay, lên tiếng:
- Thưa tráng sĩ, Đinh Công Tráng tôi từ xứ Thanh ra đây tìm Minh chủ, đúng là cũng chỉ vì mưu phục quốc. Nay được ngài thiện tình, thì mau mau cho tướng quân họ Đinh này vào ra mắt Tướng công.
Phó đề đốc vẫn từ tốn:
- Hạ tướng xin cảm tạ và mời tướng quân lên dinh Chiêu Hiền cho lại sức.
Đinh Công Tráng khoát vòng tay rồi bước theo Chánh sơn phòng.
Cùng chiều hôm đó Tiến sĩ Vũ Hữu Lợi ở Nam Định được mấy học trò dẫn đường, đã tìm đến Tiên Động mong ngày được gặp bạn cũ là Hoàng giáp, mà cùng bạn dấn thân vào cuộc chinh chiến mới vì nghiệp lớn.
Hoàng giáp Nguyễn Quang Bích thong thả rảo bước trên sân dinh Thủ lĩnh. Trời đang giữa thu, khô hanh pha lẫn sự mát mẻ của khí hậu rừng già. Thủ lĩnh bước đi, bộ Triều phục nhẹ nhàng lướt trên những đốm lá khô. Mũ vành đai, áo lụa xanh với những ô hình đa giác mềm mại, hàng khuy đồng gọn nhẹ mà khỏe khoắn. Ngài không đi giày Triều thần, mà thật lạ, ngài thưởng đôi guốc mộc, tay cầm cuốn sách, tay vuốt nhẹ chòm râu dài trước ngực. Ba, bốn hộ vệ đứng quanh tư dinh khẽ ghé tai nhau thầm thì mà không ai dám làm phiền Tướng công. Nhưng có điều chắc chắn, với ngài, hôm nay phải là một ngày quan trọng. Mấy hộ binh luận thế.
Cụ Hoàng vẫn bước nhẹ, lá khô xào xạc. Những tốp chim rừng đủ màu xanh đỏ chao đi chao lại rồi đậu xuống cành cây thành ngạnh đầu chái nhà, kêu rúc rích. Hoàng giáp đến bên phiến đá trắng khoan thai nâng vạt lụa Triều, từ từ ngồi xuống. Đôi con mắt vị Hoàng giáp nhìn xa xôi, vừa như mơ tưởng, vừa như đăm đắm...
Ngẫm lướt qua đường đời, lúc ngọt lành khi chua chát; lúc hào hứng bởi sự mãn nguyện, khi buồn rầu khi trời chẳng chiều lòng. Hai mươi tám tuổi, đậu tú tài; ba mươi mốt, đỗ cử nhân. Được vào thi Đình, đỗ Đình nguyên Nhị giáp, rồi Hoàng giáp, Tiến sĩ. Năm ấy Tự Đức Hoàng thượng trọng tài đức mà bổ làm Án sát Bình Định, rồi làm Tuần phủ phủ Hưng Hóa, phong Hiệp biện Đại học sĩ. Nếu không có biến cố Hà Nội thất thủ, Tổng đốc tuẫn tiết, dẫn tới thành Bắc Ninh, thành Hưng Hóa… Nghĩ đến đây Hoàng giáp thở dài, rồi tự vươn ngực hít thở như lấy lại sự tự tin giữa nơi không khí trong mát. Hoàng giáp cựu Tuần phủ cảm giác trong người nhẹ nhõm thanh tao, hiệu bút Ngư Phong mỗi khi được nhắc đến, hay đặt sau mỗi bài thơ do mình cảm tác, ngài tự thấy viên mãn, tự thấy sự mãn nguyện của một kẻ sĩ lòng thành. Bây giờ thì, chút lãng mạn nho gia đấy đã thay đổi. Trước mặt là vận nước, kẻ sĩ lãng tử như Ngư Phong Hoàng giáp đây sẽ phải đối diện, sẽ phải đối mặt. Triều thần là ta! Triều đình là ai? Thế sự đến bao giờ thì có thể đảo ngược? Hay mặc cho số phận, mặc cho trời, đất định đoạt? Không! Triều đình là ai? Triều thần là ta! Vận mệnh nước nhà phải do các sĩ phu, nhất định phải do các sĩ phu giành quyền giữ!
Hoàng giáp như chợt tỉnh, ngài mỉm cười gấp cuốn sách giấy bổi dày đặc chữ nho.
Vương Văn Doãn rụt rè:
- Thưa… thưa Thủ lĩnh…
Nguyễn Quang Bích khẽ ngẩng mặt quay lại.
- Thủ lĩnh. Tiến sĩ Vũ Hữu Lợi bạn hữu của ngài xin được tiếp kiến.
- Vũ Văn Lợi người Nam Định phải không? - Tướng công chợt hỏi.
- Vâng! Đúng. Đúng ạ!
- Ông nghè cũ. Mời bạn ta vào!
Nguyễn Quang Bích bước nhanh trên nền sân dinh, lá khô xào xạc. Ngài đang nóng lòng đón ông nghè làng Giao Cù Vũ Hữu Lợi bạn hữu thời cùng học thầy Doãn Khuê - Tiến sĩ trường Nam Định.
Hoàng giáp bước vào dinh phòng, không thấy ai, liền quay bước lại. Chánh sơn phòng lúng túng:
- Thưa Thủ lĩnh, chờ ngài an tọa…
- Ơ kìa, bạn ta, bỏ mọi lễ tục!
Nói rồi Nguyễn Quang Bích ra hiệu Vương Văn Doãn đưa xuống nhà ngay.
Tam giáp đồng Tiến sĩ Vũ Hữu Lợi nhác thấy bóng Triều phục, hiểu ngay Hoàng giáp Nguyễn Quang Bích thân chinh đến gặp mình nên vội cúi sụp xuống, hai tay chắp khép, chào nhỏ:
- Quan đại thần Hoàng giáp!
- Ấy ấy! Cụ Đốc học tam giáp tiến sĩ. Tôi mặc Triều phục là để luôn nhớ trọng trách trung thần chứ không phải để làm quan. Việc của anh em ta bây giờ là phục quốc bài Tây, Đốc học đồng tình chứ?
Hai vị tiến sĩ đồng trang lứa, cùng mưu chủ chiến, đồng nghĩa thân dân, nắm tay nhau bước vào nhà lán dành cho Thủ lĩnh.
Cũng ngày hôm ấy vào giờ Dậu, Thủ lĩnh cùng Vương Văn Doãn, thân chinh xuống nhà nghỉ trong khu dinh thự đại bản doanh, đón Tướng quân Đinh Công Tráng, Tán tương quân vụ Nguyễn Tử Ngôn, Cử nhân Trần Ngọc Dư. Ai nấy hoan hỉ, hào hứng và thân tình. Bản doanh khu Rừng Già đang ngày càng có thêm nhiều tướng lĩnh, nghĩa sĩ, thân hào các miền tìm đến.
Đã mấy lần Chánh Đề đốc theo ý của Bố chánh có lời với Thủ lĩnh, là tăng cường các tướng, các nghĩa sĩ về đội quân, để rồi lập ra bộ tướng Tiên Động như thời thành Hưng Hóa. Tướng công lắng nghe, không gạt đi, nhưng cũng chưa tỏ thái độ đồng lòng. Thấy sốt ruột, Bố chánh Nguyễn Văn Giáp đề thư ngỏ gửi lên Thủ lĩnh.
Một ngày, hai ngày. Đến chiều, Tướng công cho mời Bố chánh và Đề Kiều cùng ăn cơm. Lại cho mời Võ tướng Nguyễn Quang Hoan, Văn thân Nguyễn Hội và Vương Văn Doãn kế tiệc.
- Ta mời các tướng đến, nhấp chén rượu nhạt, và cùng ta định liệu việc thế sự.
- Dạ. Có các tiểu tướng, thưa Thủ lĩnh! - Bố chánh Nguyễn Văn Giáp đáp nhẹ.
Thủ lĩnh:
- Từ ngày rời đình Tứ Mỹ lên đây, đã tròn sáu tháng, các tướng giúp ta nhiều điều, làm ta hài lòng. Căn cứ Tiên Động đã hình thành. Lập được các đội quân đồn. Nhiều tướng lĩnh, văn thân, nghĩa sĩ, nghĩa binh từ khắp miền tìm đến, gia nhập. Dân chúng ba miền Phú Thọ đều hướng về chiến khu Rừng Già mà góp gạo thịt, chăm sóc, bảo vệ làm ta cảm động…
Nguyễn Quang Bích ngừng lại. Các tướng khoanh tay trìu mến nhìn vị Thủ lĩnh. Đề Kiều nhận rõ khuôn mặt ngài đã thay đổi ít nhiều theo năm tháng, gầy hơn, râu tóc nhiều sợi bạc, thân hình không còn vượng sức như ngày đương kim Tuần phủ tọa lạc nội thành. Trước mặt các văn thân nghĩa sĩ đây, bây giờ chỉ là một Tuần phủ lưu vong không thể điều hành bộ máy hành chính đầy quyền lực. Mà triều đình dù chưa bãi chức, nhưng không điều hành, không liên lạc, không cung cấp, không ngăn chặn quân Pháp. Có nghĩa là không tất cả với Hưng Hóa… thì còn nghĩa lý gì? Ngài ngồi đây, một quan đại thần hàng phủ của triều đình ngồi đây giữa rừng Tiên Động, không mặc triều phục, chỉ bộ cánh nâu lụa như các cụ hào lý làng. Vậy mà thần thái ngài dường như vẫn tỏa sáng. Khuôn mặt đầy bản lĩnh, đôi mắt kiên nghị, giọng nói rắn rỏi thuyết phục…
Nguyễn Quang Bích trìu mến nhìn các tướng lĩnh hạng cận thần, nhẹ nhàng bộc bạch. Nhóm tướng bất ngờ cúi mình cảm tạ. Văn thân Khê ông Nguyễn Hội vội đứng lên:
- Thưa ngài Thủ lĩnh. Mỗi lời trên bút hiệu Ngư Phong được viết ra từ gan ruột. Chúng tôi coi đó là lòng dạ mình vậy.
Bố chánh Nguyễn Văn Giáp cũng đứng dậy:
- Thủ lĩnh. Chúng tôi nhất tâm tôn ngài làm Đại thần quân vụ Bắc Kỳ!
Nguyễn Quang Bích đưa hai bàn tay ra trước mặt:
- Giã ơn các ngài. Giã ơn! Ta muốn nói ra điều này. Tiên Động căn cứ đã là đây, nhưng lá cờ hợp nghĩa chưa làm ta ưng thuận. Các tướng cùng lo cho cái ngày tuyên bố hành động, để tiếng vang gần xa, ba miền biết tới, và để nghĩa sĩ, dân tình hòa lòng sau trước, báo quốc bình Tây, giữ bền tiên tổ!
Các tướng lại một lần nữa cúi mình vâng mệnh. Bữa cơm Thủ lĩnh mời chiều nay, chỉ có rau rừng chấm muối cỏ gianh, cũng chỉ có rượu lá cất từ lõi cây đao xanh, rót đầy bát mắt tre, mà ai nấy cảm thấy no say ấm áp.
Rời tư dinh Thủ lĩnh, Bố chánh và Đề đốc sóng đôi bước về phía quân trại.
- Tướng công tâm trạng và sâu sắc - Đề Kiều nói.
Bố chánh:
- Đúng là Tướng công tâm trạng, mà cũng đã đặt lòng tin ở tất cả chúng ta rồi. Theo ngài, phải làm gì bây giờ?
- Thủ lĩnh nói như vậy, nghĩa là cần chuẩn bị kỹ cho việc tổ chức dựng cờ tuyên bố khởi nghĩa.
- Đúng thế, việc đại sự này xin Đề đốc cùng hành dinh lo giúp cho. Phần mình, tôi sẽ lựa lời trình Thủ lĩnh chuyện sắp đặt bộ tướng trên bàn cờ Tiên Động.
- Ngài Bố chánh yên tâm. Tôi hiểu vùng đất, hiểu dân binh, ta sẽ làm vừa lòng Tướng công.
Hai vị phó soái cùng chắp ốp bàn tay chào nhau. Mỗi người một lối, về tư dinh Bản doanh Tiên Động.
Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn thật sự vui mừng khi vệ binh dẫn hai cha con “ông dân quê” lên tìm gặp. Mới thấy thoáng dáng hình Nguyễn Văn Lò, Vương Văn Doãn đã bổ xô đến ôm thật chặt.
- Đầu bếp, đầu bếp! Ông có khỏe không, xa nhau đến sáu, bảy tháng rồi còn gì?
Nguyễn Văn Lò nắm chặt hai vai bạn rồi quay sang cô gái - nàng Mỹ Cẩm.
- Chú, chú! - Mỹ Cẩm lúng túng!
- Thế nào, cưới chồng lâu chưa?
- Dạ, chưa đâu ạ!
- Sao thế anh Lò, tôi cứ ngỡ…
- Thế này chú Vương ạ…!
Thực lòng bố con Nguyễn Văn Lò đã sắp định việc ở lại Tiên Động cùng Thủ lĩnh sau hôm rời đình Tứ Mỹ. Nhưng rủi vì được hai ngày thì đầu bếp Nguyễn Văn Lò nhận tin bố vợ ốm nặng rồi qua đời. Cha con Lò phải về chịu tang, việc theo hầu Thủ lĩnh bỏ dở, cả chuyện tình duyên cận ngày ăn hỏi của nàng Mỹ Cẩm cũng đành gác lại. Những tưởng không thể về Tiên Động, nhưng rồi chính cha con Nguyễn Văn Lò cũng bị phụ thân là cụ lang y Nguyễn Văn Lường mắng mỏ về tội “bỏ dở việc nước”. Không đợi đến giỗ đầu bố vợ, đất đã xanh cỏ, hai cha con Lò trở lại Tiên Động.
Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn nghe xong lấy làm chia sẻ rồi cắt đặt Nguyễn Văn Lò nhập trại doanh Đề đốc ở khu Rừng Già, còn nàng Mỹ Cẩm được giao trọng việc tiếp tục cùng các lang y chăm sóc sức khỏe Thủ lĩnh và Bộ tướng như ngày ở đình Tứ Mỹ.
Đề Kiều và Vương Văn Doãn ngồi chụm đầu bàn việc may một lá cờ đại để kéo lên cột tre bương trên đồi Trọi.
- May cờ đại là việc hệ trọng, ngài cho tìm các nghệ nhân dệt vải, rồi chọn các gái trinh tiết thêu diềm - Đề đốc nói.
- Thế còn thêu chữ?
- Cũng vậy! Xin Tướng công Thủ lĩnh đề bút, rồi các gái trẻ gái khéo thêu thành chữ. Trước ngày kéo lên, ta mời ngài ra lễ tế hô thần nhập binh. Cờ là quốc hồn, vừa tụ nghĩa, vừa khởi nghĩa.
Đề Kiều nói làu làu như thể ông đã hiểu hết ý tưởng của vị Thủ lĩnh. Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn gật đầu lãnh nhiệm.
Mười ngày nay. Những tấm vải vuông lụa điều đồng màu ngũ sắc của các làng nghề dệt may nổi tiếng ở Tiên Động được đưa về bản doanh. Hai mươi cô gái xinh đẹp, khéo tay nhất cũng được chọn đến khâu tua khâu diềm. Giờ Mùi sáng hôm đó, nắng bừng Rừng Già không gian thật lãng mạn, Thủ lĩnh Ngư Phong Nguyễn Quang Bích được văn thân Khê ông và Vương Văn Doãn tháp tùng, đi xuống nhà ngang bản doanh, nơi các gái trẻ Tiên Động đang khẩn trương làm việc. Đứng ngắm lá đại kỳ dài hơn hai trượng, Thủ lĩnh nhìn Khê ông tỏ ra hài lòng. Chánh sơn phòng vội vàng lấy bút lông dâng lên tay Thủ lĩnh. Nguyễn Quang Bích bước tới mặt tiền đại kỳ, ngài nâng cây bút hoa đưa dần, đưa dần tới góc trái lá cờ mà nhẹ tay đề tựa “Bình Tây Báo Quốc”. Đoạn quay sang nàng Mỹ Cẩm và các gái trẻ mà rằng:
- Đời ta chưa trả xong, đời con, đời cháu nối tiếp.
Rồi ngài khoan thai trở lại tư dinh. Bốn chữ đề tựa nét chữ đậm trên góc ngọn cờ lụa được các nghệ nhân già trong làng, phóng đại đặt vào tâm cờ. Một tháng sau, bốn chữ “Bình Tây Báo Quốc”, được các cô gái hoa tay thêu căng nét giữa bản cờ lụa. Chánh sơn phòng ra lệnh gấp lại, cất kỹ, chờ ngày tế linh.
Sau thời gian để các văn thân võ tướng tĩnh dưỡng tại nhà dưỡng sức, tọa lạc ngay bên đầm nước làng Mỹ Lương. Đầm nước Mỹ Lương bao bọc quanh làng. Mùa mưa, làng nổi như một bán đảo. Ngay sau khi đặt chân lên đất Tiên Động, Thủ lĩnh đã cùng Đề Kiều và Nguyễn Quang Hoan đi thực địa, tại đây Tướng công gợi bảo Võ tướng lập một đồn thuộc mặt trận Cửa Tiền nhằm án ngữ đường thủy ngòi Dành, lại có thể yểm trợ cho các đồi Gò Dọc, đồi Cỏ Rác, những điểm sẽ lập đồn thuộc mặt trận. Tướng công lại gợi ý Đề Kiều, nên làm một dinh thự nơi lòng đảo này để tướng lĩnh, văn thân nghỉ ngơi thư giãn sau mỗi lần chiến trận thắng lợi.
Tám tháng trôi nhanh. Tướng công Thủ lĩnh và các hạ tướng, quân binh, đã làm cho Tiên Động khá yên tĩnh ngày nào, nay sôi động không khí sinh hoạt, lại sôi sục máu nóng quân binh. Tướng công tỏ ý hài lòng. Giờ thì ngài đang thanh tĩnh tại tư phòng chờ đón các văn - võ ba miền - một cuộc gặp Bình Tây Báo Quốc mà chính ngài, một quan Triều, đã bao ngày đêm chờ đợi.
Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn lần lượt mời các văn thân vào phòng: Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Công Tráng, Vũ Hữu Lợi, Nguyễn Đình Ngữ, Nguyễn Tử Ngân. Rồi các tướng đồn trưởng, đồn phó mặt trận Cửa Tiền, cửa hậu: Hoàng Đình Cương, Lê Đình Dật, Ma Văn Vân, Đào Văn Toát, Trịnh Bá Đanh, Hà Công Cấn…
Nguyễn Quang Bích trong Triều phục từ cửa dinh bước ra. Bên ngoài là Bố chánh Nguyễn Văn Giáp, Đề đốc Đề Kiều, Võ tướng Nguyễn Quang Hoan, Khê ông Nguyễn Hội. Đứng trước hàng cận tướng, Nguyễn Quang Bích đưa hai bàn tay lên cao, nắm chặt:
- Các tướng quân. Người Pháp cướp nước, triều đình lung lạc. Thế ta không giữ nổi Hà thành, Bắc thành, Hưng thành đã là tội lớn với tổ tiên. Nay ta từ chức Tuần phủ Hưng Hóa mà tự gánh lấy việc dấy binh ở Tiên Động, các tướng đã tự nguyện về đây cùng ta, xin ăn ở lòng thành, sống chết tôi trung, danh thơm muôn đời để lại cùng non nước. Nguyễn Quang Bích ta sẽ chọn ngày kéo cờ khởi sự “Bình Tây Báo Quốc”, các tướng nghĩ sao?
Cả loạt văn thân võ tướng khoanh tay đáp vang:
- Theo Tướng công, Bình Tây Báo Quốc! Theo Tướng công, Bình Tây Báo Quốc!
Thủ lĩnh một lần nữa đưa hai bàn tay lên cao, nắm chặt. Rồi ngài cùng Vương Văn Doãn lui vào phòng hậu cung. Bố chánh Nguyễn Văn Giáp bước lên. Nàng Mỹ Cẩm bưng tới một bình rượu nếp.
Nguyễn Văn Giáp:
- Các tướng quân. Đây là rượu lộc Thủ lĩnh ban biếu để ghi nhận buổi gặp mặt hôm nay. Mời các ngài lần lượt thụ hưởng để giữ tròn danh dự.
Nói rồi, Bố chánh bật nút bình rượu, nàng Mỹ Cẩm tay nâng ly sành, tay rót nhẹ. Hương vị rượu nếp tháng mười tỏa thơm cả tòa hành dinh. Lần lượt, cứ thế, lần lượt…
Cuộc vui khởi động diễn ra nhanh gọn mà ai nấy đều cảm thấy hài lòng. Một cảm giác tràn ngập lòng các bá quan văn võ: Chén rượu nếp vừa cay vừa ngọt ấy, cũng là vị nóng của máu đào, vị mặn của mồ hôi mà tướng lĩnh đã đồng lòng đón nhận từ Thủ lĩnh, tự nguyện chinh chiến vì một mối thề báo quốc.
Giờ Mão đêm hôm đó, mồng chín tháng ba Ất Dậu, Thủ lĩnh lặng lẽ rời bản doanh, về đình làng Hội, đích thân làm lễ tế tổ Vua Hùng. Ngài chỉ đem theo Văn thân Nguyễn Hội, Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn, và nàng Mỹ Cẩm hầu lễ.
Đề đốc Đề Kiều không thể ngờ dân chi điền vùng Tiên Động, Hoàng Lương lại hướng về Chủ tướng đến thế. Làm chánh tổng bao nhiêu năm gắn bó với đất và người làng quê trung du mà chưa khi nào dân chúng lại sôi động, lại gần gũi và thân thiện như từ ngày Tướng công về đây công khai chiêu mộ. Nếu không có sự hiển linh của quý nhân, thì hẳn là, ở ngài phải có hút lực nào đấy! Lực hút vô hình kia ngoài cái tâm, cái chí, cái tài nữa, có thể còn có cái thiêng mà không mấy ai dám nói ra một cách rành mạch. Ngồi một mình với chén trà ướp nụ hoa nhài, Đề Kiều gật gù cắt nghĩa:
- Khê ông, Khê ông văn hầu! Mời ngài ghé lán dùng trà.
- A ha, Đề đốc - Văn thân Nguyễn Hội kêu lên.
- Mời ngài. Trà nhài ướp tươi uống nóng chỉ Phú Thọ tôi mới có.
- Vâng. Vâng! Xin ngài Đề đốc.
Nhấp chén sành trà miền quê trung du, Khê ông Nguyễn Hội thấy thân tình, ấm áp mặc cho ngày đông lạnh giá. Khê ông thảnh thơi tự bạch:
- Tướng công lạ lắm - Đặt tách trà xuống mặt bàn tre, Nguyễn Hội gật gật nhẹ.
- Văn hầu có ý nói đến sự tinh anh của Tướng công?
- Vâng, đúng, đúng thế. Đình Hội là nơi thờ Vua Hùng thứ 18, ngài biết rõ rồi! Thủ nhang mời. Hành lễ xong, Tướng công cúi lạy ba lạy, bát nhang tự bùng cháy một vầng sáng cầu vồng. Ấy là điều linh, tổ tiên chả những đã chấp nhận xá tội thành Hưng Hóa, mà còn giục ngài cầm gươm lên ngựa cứu nguy giang sơn.
Nguyễn Hội lại gật gù trầm ngâm. Đề Kiều đặt chén trà chắp hai bàn tay vào nhau:
- Tôi đây chưa bao giờ gặp điều này ở đình làng. Linh nghiệm, linh nghiệm!
- Chưa hết, chưa hết đâu ngài Đề đốc! Tôi dám chắc hồng phúc trời Nam sẽ xuất hiện nay mai mà Tiên Động đây chỉ là một trong bảy sắc cầu vồng! - Tán tương Khê ông hào hứng nói.
Đề Kiều reo to:
- Hay, hay! Thật là hay. Xin chúc phúc ngài Văn thân Nguyễn hầu.
- Cám ơn, cám ơn ngài Phó tướng Đề đốc.
Văn thân Nguyễn Hội chắp tay cáo lui thì cũng vừa lúc lãnh binh chỉ huy Cửa Tiền bước đến.
- Đề đốc phó tướng.
Đề Kiều cười cười:
- Thì cứ ngồi xuống đây làm chén trà quê đã chứ.
- Vâng vâng. Xin lộc Đề đốc! - Nguyễn Quang Hoan vui vẻ đáp, rồi nói - Sau ngày Tướng công làm lễ tế tổ, dân các làng hân hoan đến nhập quân. Các tướng thu nạp cả.
- Rồi sao nữa? - Đề Kiều nghiêm trang hỏi.
Nguyễn Quang Hoan:
- Đồn trưởng Cửa Bộ Hoàng Đình Cương, đồn Cửa Sông Lê Đình Dật, đồn canh phòng Hạ Hòa, rồi Tổng khảm, Tán áo chỉ huy cửa Cẩm Khê, đang lập các đội dân binh, hỗ trợ quân chính quy của Tướng công. Ai ai cũng tự nguyện, cũng hào hứng.
- Các tướng chỉ huy quân chính quy, sắp xếp ra sao ngài Nguyễn Quang Hoan?
- Tôi mới được rõ, ở xóm Chầm Vần có đội dân binh do Nguyễn Du Hè chỉ huy, xóm Đốc Đông có Nguyễn Văn Vượng, Mỹ Lương có Nguyễn Văn Ngọ, làng Hoàng Lương có Nguyễn Văn Bối...
- Chà chà! Dân binh Cẩm Khê ta, chỗ dựa vững chãi cho bản doanh Tướng công ở Tiên Động! - Đề Kiều buột miệng. Rồi ngài vỗ nhẹ vai Nguyễn Quang Hoan - Võ tướng, tôi sẽ cho lập các đội dân binh ở khắp vùng Chiến khu Rừng Già, nhiệm vụ của dân binh là tự giữ làng, bảo vệ khu cứ, đánh hỗ trợ chính quy khi cần thiết, và lo thực túc. Trước mắt tướng quân phụ trách mặt trận dân binh này. Ngài nghĩ sao?
- Thưa Đề đốc. Tôi sẵn sàng nhận lệnh của bản doanh.
- Hay lắm. Võ tướng cho rà soát và lập đội các làng ngay trong nửa tháng. Nửa tháng! Được chứ?
- Vâng. Thưa Đề đốc!
Nguyễn Quang Hoan đứng dậy, cúi nhẹ nhận nhiệm vụ rồi bước ra khỏi lán dinh Phó tướng Đề Kiều.
Trời đang là mùa xuân mà như ngày đông. Rừng đồi trung du Phú Thọ cây cối xanh đặc, sương mù lúc phủ xuống ướt đẫm cành lá nhưng mặt đất vẫn hanh khô, thỉnh thoảng cơn gió mùa lành lạnh thoáng qua vừa đủ cho người người đi lại, vừa đủ cho chim chóc ríu ran, thật là cảnh bình yên trong chiến tranh âm ỷ.
Ma Văn Vân và Đặng Huy Tá được Phó tướng Nguyễn Văn Giáp giao nhiệm vụ thám sát quân Pháp ở Hưng Hóa, sau ba ngày trở về bản doanh. Bố chánh cho mời Đề Kiều, Nguyễn Quang Hoan, Vương Văn Doãn đến cùng nghe tình hình.
Ma Văn Vân:
- Đêm, chúng tôi đã vào sát cửa thành, thấy người Pháp đưa sơn pháo ở đâu về đặt giữa sân, có đến bốn, năm khẩu. Chòi canh có hai lính soi đèn chiếu sáng từng đợt từng đợt.
Đặng Huy Tá:
- Hai chúng tôi đóng giả thường dân vào làng hỏi han, dân chúng nói, từ ngày ngài Tuần phủ rút lên miền ngược, người Tây mở rộng bến bãi ven sông, chiến thuyền đậu về đây nhiều lắm. Cờ ba vạch của Pháp cắm cao. Quân lính người Pháp canh gác, đi lại, lúc lúc lại bắn cầm canh.
- Thế có dấu hiệu gì là bọn chúng có thể động binh không? - Nguyễn Văn Giáp chợt hỏi.
Ma Văn Vân:
- Thưa ngài Bố chánh. Hai chúng tôi quả quyết, người Pháp chiếm thành Hưng Hóa, họ đang gấp rút củng cố, sớm muộn cũng sẽ ra tay.
- Dân ven thành nói sao nữa? - Đề Kiều hỏi.
- Thưa ngài. Họ bị bắt đi làm phu khuân vác hàng hóa ở bến cảng sông, ở bãi ô tô, rồi đi mở đường, chặt gỗ. Nhiều trai làng đã vào lính cho Pháp để có tiền có muối - Đặng Huy Tá nói.
Phó tướng Nguyễn Văn Giáp đứng dậy đi đi lại lại trên nền dinh Quan Đại.
- Nghe vậy, có thể khẳng định rằng người Pháp đang tập trung vũ khí, mở đường, tuyển lính người Việt, chuẩn bị đánh tập kích ta. Tôi giao cho ngài Ma Văn Vân việc tổ chức nhóm thám sát đặc biệt, vừa nắm tình hình quân Pháp, vừa lôi kéo quân binh người Việt. Nếu cần thiết thì tìm cách bắt cóc lính đồn để tra hỏi lấy tin tức.
Ma Văn Vân, Đặng Huy Tá lui khỏi lán dinh.
Từ nguồn tin có được, Bố chánh Nguyễn Văn Giáp và Đề đốc Đề Kiều lên tư dinh Thủ lĩnh trình kiến. Nguyễn Quang Bích đưa tay vuốt nhẹ chòm râu đen, bình thản:
- Ta đồng ý với đề xuất của hai tướng quân. Ngày giờ khởi sự được định trong tháng này năm Ất Dậu.
Hai tướng cúi mình nhận trọng việc rồi cáo lui.
Ngày hôm sau, Chánh sơn phòng trình lên Tướng công bản Lễ tiết tuyên ngôn khởi nghĩa do đích thân Bố chánh vạch thảo.
Đệ trình Tướng công bản lễ tiết, nhưng Bố chánh vẫn không khỏi băn khoăn. Nếu chỉ là một nghi lễ thì khó khăn gì, xa gần rồi cũng sẽ biết, tướng lĩnh, quân binh hả lòng, dân binh dân vệ ngóng đợi. Nhưng tiếng vang ấy cũng chỉ như nằm mơ mà thôi, nó thoáng qua nhanh chóng, nó rơi rụng dần ý chí quân tướng nhất là trong lúc khởi đầu này. Còn nếu như đánh một trận vào quân Pháp, thì đánh vào đâu, sự chuẩn bị chưa kịp sẽ dẫn đến thất bại. Mà nếu lui thời gian thì Tướng công đã chỉ lệnh trong năm Ất Dậu, với lại, nếu tin tức lộ ra ngoài, quân Pháp ở Hưng Hóa sẽ ra tay phá trước...
Bố chánh ngồi thu lu, hai chân vắt tréo nhau, hai tay ôm chặt đầu gối. Đang lúc đầu óc rối bời thì nàng Mỹ Cẩm bước vào.
- Con chào Tướng quân. Có bắp ngô non, thầy con bảo đưa lên mời Tướng quân.
Bố chánh:
- Thế à. Thầy con cho, ta nhận ngay đây!
Mỹ Cẩm đặt đĩa ngô luộc thơm phức, cúi mình xin lui.
- Này con. Ta muốn trò chuyện một chút, được chứ?
- Dạ. Thưa Tướng quân!
Mỹ Cẩm e dè bước đến gần ngồi xuống góc ghế. Từ ngày trở lại hành dinh, nàng được Sơn phòng giao việc hầu cận Tướng công, có lúc phụ hầu các phó tướng Bố chánh, Đề Kiều, nên quan hệ giữa nàng với các thủ lĩnh là quan hệ cận hầu, quan hệ cha con gần gũi trong khoảng cách.
- Con đã cập kê, vì việc nước mà giãn tình riêng, ta rất trọng. Nay Tướng công chuẩn bị cho đại sự, cần đến con; chỉ có con là cận hầu mới có thể đảm đương được việc.
- Dạ, thưa Tướng quân. Việc gì con cũng xin nhận ạ! - Mỹ Cẩm rắn rỏi đáp.
- Thế thì tốt rồi. Cụ thể thế nào Ma Văn Vân sẽ gặp con.
- Thưa vâng!
Nàng Mỹ Cẩm đứng lên rời lán dinh, lòng lâng lâng. Cả bản doanh duy nhất, có Mỹ Cẩm là gái. Dù là chiến khu, là chuyện binh đao rừng rú chỉ phù hợp với nam giới, nhưng có những công việc, phần việc không thể thiếu bàn tay, tiếng nói nữ nhi. Có lẽ vì thế mà Bố chánh trực tiếp gặp, trực tiếp dò hỏi, hẳn ngài tin tưởng lắm. Mừng cho mình, mừng cho thân phụ đầu bếp Nguyễn Văn Lò được Tướng công luôn nghĩ đến. Nhớ ngày Thủ lĩnh về tạm trú ở Tứ Mỹ, được thân phụ giao việc chăm sóc sức khỏe cho ngài, rồi Tướng quân Đề Kiều gợi ý cả hai cha con theo người lên Sơn phòng, nghĩ đến đồng đất quê cha Tứ Mỹ và quê mẹ Cẩm Khê mình mới có cái tên đẹp “Mỹ Cẩm” nên nàng Mỹ Cẩm không do dự dù đang dở dang chuyện tình duyên. Giờ thì mẹ không còn, ông bà nội ngoại đã có chú dì cậu mợ trông nom, chồng chưa cưới không chịu nhập quân binh. Mỹ Cẩm thấy phải luôn ở bên cha Nguyễn Văn Lò để cùng phò trợ việc đại sự nơi bản doanh Sơn phòng.
Càng nghĩ nàng Mỹ Cẩm càng thấy lâng lâng, khấp khởi...
Hôm sau, rồi hôm sau nữa, Nguyễn Quang Hoan, Ma Văn Vân nắm chặt tay hai chú cháu Đặng Huy Tá, Nguyễn Mỹ Cẩm, chúc họ “lên đường” thật may mắn và hoàn thành công vụ trở về.
Bản doanh Sơn phòng hôm nay lại đón tiếp hai quân binh từ đất Thanh Hóa tìm đến. Cận vệ hỏi họ tên, quân binh chỉ trả lời “người xứ Thanh” về ra mắt Thủ lĩnh Tiên Động. Nghe nói người từ xứ Thanh, Phó tướng Nguyễn Văn Giáp cùng Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn thân chinh xuống nhà cận vệ gặp gỡ.
Một người to cao sức lực, tự xưng là Tống Duy Tân, Tiến sĩ Chánh sứ Sơn phòng Thanh Hóa, bất mãn vì triều đình ký hòa ước với Pháp mà từ về ẩn. Được tin Tuần phủ Nguyễn Quang Bích dựng cờ kháng Pháp ở Tiên Động mà lặn lội tìm đến.
Một người nhỏ nhắn nhưng khỏe mạnh, giọng nói đặc âm tiếng dân tộc, tự xưng là Hà Văn Mao, từng làm trợ tá cho Chánh Sơn phòng Tống Duy Tân, nay tự nguyện theo chân quan đốc học Tống Duy Tân, về với Tiên Động.
Mới nghe xưng danh và thái độ lời lẽ lịch thiệp của hai “quân binh” Bố chánh đã ôm chầm lấy Tống Duy Tân, rồi ôm lấy Hà Văn Mao mà lắc lắc. Vương Văn Doãn cũng khẽ cúi đầu cảm tạ rồi nắm chặt tay khách xa.
- Mời, mời hai quan Sơn phòng xứ Thanh vào dinh lán Tiên Động.
Nghe Vương Văn Doãn giới thiệu Bố chánh Nguyễn Văn Giáp, Phó tướng thứ nhất của cụ Hoàng giáp Tuần phủ, giờ đây là Thủ lĩnh Nguyễn Quang Bích. Tiến sĩ Tống Duy Tân cả mừng ôm lấy phó tướng Bố chánh mà nói:
- Thầy trò tôi gặp được đây rồi! Thầy trò tôi gặp may rồi, Tướng quân!
Quả thật Bố chánh chưa giáp mặt Tống Duy Tân. Ngày ở Hưng Hóa có nghe chuyện Chánh Sơn phòng Thanh Hóa phản đối hàng ước của triều đình mà khăng khăng từ bỏ quan trường thủ phủ vùng Thanh Nghệ, chỉ đem theo bao kiếm về quê. Chuyện ấy đến tai Tuần phủ Hưng Hóa, Hoàng giáp nói với Bố chánh:
- Một võ tướng lòng thành, khảng khái.
Ngày Tướng quân Đinh Công Tráng từ Thanh ra Bắc, tìm đến Thủ lĩnh xin yết kiến, ngài đã hỏi Tráng:
- Tướng quân có biết đến Tống Duy Tân không?
Tráng nói:
- Tiểu tướng có biết nhưng không phục!
- Vì sao?
Minh chủ cười, không dò thêm.
Phó tướng đứng dậy, đưa hai tay đỡ Tống Duy Tân:
- Thay lời Minh chủ, xin mời hai tướng quân về dinh Tụ Nghĩa an tọa chờ ngày yết kiến Thủ lĩnh.
Tiến sĩ họ Tống và quân binh họ Hà được Vương Văn Doãn đưa chân đến tận lán dinh.
Nắng ngả sang chiều.
Đề đốc Đề Kiều lật giở từng tờ giấy dó mềm mại, vàng thâm. Những dòng chữ mực tím hằn lên rõ nét. Tướng quân mỉm cười một mình:
- Các làng địa hào cũ, vẫn còn nghe ta!
Có tiếng bước chân. Đề Kiều ngước ra cửa.
- A, Nguyễn Quang Hoan. Vào đây vào đây!
Nguyễn Quang Hoan ngồi luôn xuống tấm chõng tre bên Đề đốc.
- Hay lắm, hay lắm. Như vậy là có đến bốn mươi làng của Cẩm Khê, Hạ Hòa, Tam Nông, Thanh Sơn lập được đội dân vệ - Đề Kiều nói.
- Vâng! Nhưng chưa được luyện tập gì, chưa được trang bị cả những hiểu biết lẫn khí giới - Nguyễn Quang Hoan tỏ ý băn khoăn.
- Đúng đúng. Phải đi từng bước một. Thế này nhé...
Đề Kiều đứng dậy, lấy hòn than củi viết nguệch ngoạc ra tấm ván giường ngủ.
Võ tướng Nguyễn Quang Hoan từng là thủ khoa võ triều Nguyễn nên hiểu ngay ý của Đề đốc:
- Trong các đội dân vệ làng, chọn một số người đủ điều kiện, lập ra đội dân binh liên làng. Dân binh làm nòng cốt cho các đội dân vệ. Bản doanh sẽ tập dượt cho dân binh, dân binh tập lại cho dân vệ. Bình Tây, phục quốc là mục đích cao cả nhất, danh dự nhất của mỗi người. Thế còn khí giới: cây, gậy, gươm, giáo có sẵn, đi đến súng kíp, súng săn, tên cung tên nỏ mà đánh quân giặc!
Nguyễn Quang Hoan vỗ nhẹ hai bàn tay. Đề Kiều cười tán thưởng.
- Còn việc này nữa - Đề Kiều bất ngờ nghiêm giọng.
- Vâng. Xin Phó tướng Đề đốc giao lệnh - Nguyễn Quang Hoan đứng nghiêm nghị.
Tướng quân Rừng Già đi đi lại lại, rồi lên tiếng:
- Ta giao cho Đốc Ngữ, Đồn trưởng cửa Khả Cửu Thanh Sơn làm tổng chỉ huy mặt trận dân binh và dân vệ, Nguyễn Đình Ngữ có tài vận động đồng bào dân tộc. Nguyễn Quang Hoan đặc trách cảnh vệ và mặt trận Cửa Tiền. Chiến khu Tiên Động đã rộng lớn mà đại bản thì phải tuyệt đối an toàn.
- Vâng, Thưa Phó tướng Đề đốc. Ý ngài như vậy thật phải lắm. Tôi sẽ hoàn thành trọng trách bộ tướng giao cho.
- Tốt lắm. Chúc Nguyễn Quang Hoan, mưu lược, đánh đâu thắng đấy.
Hai vị tướng quân nắm tay rời dinh Đề đốc.
Sau khi chiếm được thành Hưng Hóa. Tướng Bri-ê-len cho dựng ngay một đồn trại phía đầu nguồn sông Thao cách thủ phủ khoảng hai ba cây số, gọi là đồn Cửa Sông. Đồn chỉ khoảng một trung đội, hầu hết là dân bản xứ với những vũ khí thô sơ như hỏa mai, mút-cơ-tông, chia hai khu: chỉ huy, và doanh trại, nhà lá vách đất, xếp thành dãy trên diện tích mấy nghìn mét vuông. Mục đích của Bri-ê-len là đề phòng nếu có quân triều đình phản loạn ở phía mạn nguồn thì quân đồn sẽ là đám hứng đạn đầu tiên, cũng là để lính thủ phủ kịp đánh dẹp.
Gần trưa có hai bố con lão nông gánh thúng hàng quà đi rao, ghé vào cổng đồn trại. Trong thúng có đủ ngô luộc, khoai lang luộc, chuối vàng ươm, rồi đu đủ chín, cam quýt bưởi ngày xuân. Người cha gánh, người con vừa bán vừa rao. Hai cha con bán hàng rong đóng giả khéo đến nỗi có mấy bà dân Tứ Mỹ đi chợ về không một ai nhận ra nàng Mỹ Cẩm, và người cha gánh hàng là cai bộc Đặng Huy Tá.
Nghe giọng con gái vừa dịu vừa ngọt, đám lính thú chạy ùa ra khỏi cổng, kẻ hỏi giá, đứa tán tỉnh:
- Anh muốn mua quả “bưởi” kia - Một lính thú cợt nhả.
- Dạ đây ạ, quả này đẹp và ngon ạ - Mỹ Cẩm ôm quả bưởi vàng ươm vỏ xốp trên tay đưa cho tên lính. Anh ta dùng dắng:
- Không, bưởi kia cơ!
- Đâu, quả nào anh?
- Đây, đây này! - Tên lính chỉ trỏ không rõ hướng. Nàng Mỹ Cẩm hiểu ý nhưng cố giả bộ chẳng hay rõ.
- Quả này đẹp rồi, ngọt ngọt, thơm thơm mà anh.
- Không tròn bằng hai quả kia, hai quả kia kìa - Một lính thú với tay chạm vào ngực “con gái” bán hàng rong Mỹ Cẩm.
Cô gái khẽ lấy tay đẩy nhẹ bàn tay to bè. Đám lính cười hô hố.
Trong khi bọn lính túm đến gánh hàng, ông “bố” Đặng Huy Tá đã kéo một lính thú trông có vẻ mặt hiền lành ra phía ngoài.
- Chú hút với anh điếu thuốc lá cuốn vậy.
- Vâng, con xin!
- Quê chú ở đâu, đi lính thú lâu chưa?
- Con ở Tiền Hải, nhà nghèo lắm, đi lính lấy mấy đồng nuôi bố mẹ già.
- Thế à, chú cũng quê Thái Bình đây. Ta nhận nhau làm chú cháu nhé. Tên chú là Trần, con gái kia là Như. Bố con gánh rong kiếm đồng ra đồng vào nuôi nhau.
- Vâng. Vâng ạ! Còn tên cháu là Tiến. Em Như đến đây cứ hỏi tên cháu là lính cổng cho gặp thôi ạ.
- Như ơi, bán xong chưa, đi thôi con! - “Bố Trần” gọi to.
Đám lính mua thì ít mà tán thì nhiều. Nghe “bố” gọi, Mỹ Cẩm hiểu ý cười nói:
- Thôi, các anh chỉ đòi mua “bưởi”, em đi đây!
- Ấy ấy...
- Em đi đây! - Mỹ Cẩm nhấc gánh hàng bước lại chỗ “bố”.
Cai Bộc Đặng Huy Tá giao giá với Tiến:
- Em Như đây, sẽ thường đi lại với nhà đồn. Em cần gì ai giúp đỡ.
Nhìn Mỹ Cẩm, dáng hình khỏe mạnh, khuôn mặt tròn xinh, môi đỏ, má lúm, lúc nào cũng như cười cười, lính thú có tên là Tiến chỉ biết gật đầu:
- Vâng, vâng ạ!
Cai Bộc cầm một nải chuối đẹp đưa cho Tiến.
- Cái này, chú gửi biếu anh em gọi là tình cảm với nhà đồn.
Người lính đỡ nải chuối. Mỹ Cẩm thừa cơ:
- Ngày mai bố bận, chỉ có em qua đây, chúng mình nói chuyện riêng anh Tiến nhé?
- Thế thì vui lắm, anh sẽ mời vào nhà trại - Tiến liếc nhìn cô gái hàng rong, bắt gặp đuôi mắt, nửa như hoa cau, nửa như ánh lửa của nàng Mỹ Cẩm.
Thật ngẫu nhiên, chú cháu cai bộc Đặng Huy Tá làm quen được với Tiến, phó trưởng doanh trại đồn Cửa Sông.
Ngày hôm sau. Một mình Mỹ Cẩm gánh hàng đến cổng trại gặp Tiến và thống nhất được phương án.
Ngày hôm sau nữa, lại một mình nàng Mỹ Cẩm. Và lần này, phó trưởng trại Bùi Quang Tiến đưa cho Mỹ Cẩm một mảnh giấy nhỏ, lại dặn:
- Giờ khởi sự, anh sẽ bơi thuyền sang sông rồi tìm về Tiên Động.
Bố chánh Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Quang Hoan, và Đặng Huy Tá, chụm đầu bàn bạc về những đường vẽ, những ký hiệu trên mảnh giấy mà Mỹ Cẩm chuyển giao lại. Không còn ý nào trái ngược nữa, Phó tướng chính thức chuẩn chỉ phương án đánh đồn Cửa Sông và giao sự chỉ huy này cho Võ tướng Nguyễn Quang Hoan. Trong lúc khẩn trương chuẩn bị, cách ngày Như lại quảy hàng rong vào sân dãy nhà lá trại lính thú.
Truyền lệnh Thủ lĩnh! Phó tướng Nguyễn Văn Giáp dõng dạc lên tiếng:
- Lệnh truyền của Thủ lĩnh sắp đến giờ khởi sự! - Chánh Sơn phòng Tiên Động thừa lệnh nâng ống loa quay về bốn phía, nói lớn.
Lập tức cả chòm đồi Quan Đại gần như xao động. Cột cờ làm bằng cây tre bương cao chín mét, to và thẳng như thân cau, mấu mắt lờm xờm, cảm giác gai góc, rắn đanh. Các tướng lĩnh thân hào, hạng nghĩa binh bản sĩ, có cả đội trưởng dân binh, quân binh làng xã, theo lời hô của Chánh sơn phòng mà bước vào hàng lối, ngay ngắn, trang nghiêm.
Chín giờ. Phó đề đốc hành dinh, Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn thân chinh bước tới cửa dinh Bộ tướng đón Thủ lĩnh Nguyễn Quang Bích, đưa ngài đến bên cột cờ. Bước sau ngài là Phó tướng Bố chánh Nguyễn Văn Giáp, Phó tướng Đề đốc Đề Kiều, Khê ông Nguyễn Hội, các thân sĩ từ nơi xa tìm về Tiên Động: Tống Duy Tân, Đinh Công Tráng, Nguyễn Thiện Thuật, Vũ Hữu Lợi, Hà Văn Mao, Nguyễn Đình Ngữ, Nguyễn Tử Ngôn, Hoàng Đình Cương...
Nàng Mỹ Cẩm bước lại, cúi mình dâng lên Thủ lĩnh bao kiếm đầu rồng. Trong bộ Triều phục uy nghiêm, Tướng công nắm chặt đốc kiếm, dõng dạc tuyên ngôn: “Nay ta vâng mệnh Hùng Vương tiên tổ, dựng cờ khởi nghĩa, Bình Tây Báo Quốc; cầu gọi muôn dân đồng lòng đánh giặc...”.
Lời Tướng công sang sảng vang vọng rừng núi Tiên Động. Tấm đại kỳ dài hơn hai trượng, đỏ rực khuôn vuông giữa những dải ngũ sắc được Văn thân Nguyễn Hội cầm chín nén hương trầm nghi ngút khói đưa vòng đưa lại ba lượt. Đoạn, Võ tướng Nguyễn Quang Hoan từ từ kéo rút đại kỳ lên. Đại kỳ gặp gió Rừng Già bay phần phật. Nguyễn Hội lui lại hạ mình quỳ gối lạy ba lạy. Thủ lĩnh và các tướng quân cùng chắp tay cúi đầu vái vọng hồn quốc, linh thần. Trời đang sáng bỗng nhiên chuyển nhiệt, tối sầm. Một tiếng sét chói tai dội xuống đâu đấy sau làn chớp lòe. Thật lạ, cơn mưa lớn nghe rào rào phía bờ sông Thao mà không về đến khu hành dinh Tiên Động. Ngày hôm đó, đêm hôm đó của năm Ất Dậu. Chiến khu không ngủ.
Cuối xuân, tiết trời lúc se lạnh, khi có độ nóng, các cụ nói thời tiết chuyển mùa con người khó chịu. Đúng thật, Đặng Huy Tá như cố quên đi cái đau đầu sổ mũi mà làng quê vẫn gọi là cảm cúm để đưa nhóm quân binh của Nguyễn Quang Hoan tập kích đồn cửa sông Thao phía tây thành Hưng Hóa chỉ vài chục dặm.
Ngay sau ngày Thủ lĩnh tuyên bố khởi nghĩa, nàng Mỹ Cẩm được lệnh đến bán hàng rong tại trại lính Cửa Sông với một nhiệm vụ đầy căng thẳng, thách thức.
- Này em gái xinh đẹp, em vẫn chưa cho anh “bóc bưởi”, anh giận đấy.
Bọn lính thú đứa tán tỉnh, đứa vào hùa. Mỹ Cẩm thoáng nghĩ, rồi cởi hai cúc bấm áo ngực, lấy chiếc nón lá vừa quạt, vừa tươi cười:
- Em cho các anh, bưởi bóc trắng rồi đây này!
Đám lính xô nhau:
- Vào đi, vào đi!
- Mà khoan đã - Mỹ Cẩm nghiêm trang nói to. - Sắp đến ngày phủ Hưng Hóa thất thủ, em làm quà nhà đồn cả gánh hàng này đấy.
Phó trại Bùi Quang Tiến nói to:
- Cô nàng biếu, thì ta nhận anh em ơi.
Dứt lời, Tiến nhấc cả gánh hàng quà chuyển cho tên lính đứng bên. Cả đám vỗ tay rào rào chạy theo gánh rong vào sân trong. Vẫn là tên lính tán tỉnh lúc nãy nhanh tay ôm hai má Mỹ Cẩm hôn đánh chụt: “Các anh xin em gái xinh đẹp nhé!”, rồi chạy vụt đi. Mỹ Cẩm liếc anh ta, cười tình.
Chỉ còn lại Cẩm và Tiến.
- Đêm nay, khởi sự. Anh hẹn giờ nào?
- Giờ nào cũng được. Tốt nhất là nửa đêm. Khi phát hỏa, nhóm anh sẽ bơi thuyền sang sông, vừa để thoát, vừa đánh lạc hướng bọn lính.
- Liệu có an toàn cho anh không?
- Em đừng lo, bọn anh đã quen với sông nước rồi.
- Vâng. Em về đây. Em sẽ đón anh ở Tiên Động anh Tiến nhé.
Nàng Mỹ Cẩm đặt hai bàn tay con gái vào giữa lòng tay chai sạn của người lính thú.
- Anh mong khởi sự thành công. Thôi, em về đi.
Mỹ Cẩm: “Vâng”, rồi rời nhanh khỏi khu trại.
Theo kế hoạch, tốp binh sĩ nghĩa quân do Nguyễn Quang Hoan chỉ huy sẽ phải mật phục trên gò rừng lúc mặt trời lặn để có thể nhìn rõ lối vào. Phó tướng Nguyễn Văn Giáp chỉ cho đánh vào trại lính, nhằm gây tiếng vang, chưa đủ sức tập kích đồn Cửa Sông. Nguyễn Quang Hoan thấy có cơ hội nên chia làm hai nhóm, cai bộc đốt trại lính, Nguyễn Quang Hoan ném bùi nhùi lửa vào vọng gác cổng đồn chính, hoặc nhà cảng ven sông. Đặng Huy Tá can ngăn, Nguyễn Quang Hoan mới bỏ ý định gây náo loạn đồn Cửa Sông.
Bây giờ thì Nguyễn Quang Hoan, Đặng Huy Tá và Phạm Văn Luật đã nằm sát khu lán trại. Ba dãy nhà dài chủ yếu là tre gỗ, lợp cọ nằm nối nhau, xung quanh rào nứa xen. Gọi là cổng gác nhưng chỉ có hai tên lính ngồi co ro đánh bài, chiếc đèn bão to tướng treo ngoài vọng gác chỉ đủ hắt sáng lờ mờ xuống cổng trại.
Nửa đêm. Tĩnh mịch. Trăng cuối tuần nhàn nhạt. Cai bộc sốt sắng không rõ Bùi Quang Tiến đang ở đâu, ngoài anh ta còn có ai đào ngũ. Nếu khởi sự bằng cách đốt trại, liệu nhóm Tiến có xuống sông kịp không? Còn nếu nhóm Tiến đốt trại theo kế hoạch gây hỏa hoạn rồi la hét báo động thì anh ta an toàn hơn nhưng lại không phải do nghĩa binh tập kích, không gây được thanh thế.
Nguyễn Quang Hoan vỗ vai Đặng Huy Tá:
- Thế này, tôi và Luật sẽ khống chế hai lính gác, cướp súng, bắn thẳng nhà trại; còn Tá xông vào đốt trại, cướp súng bắn lại, rồi rút nhanh lên đồi Cây De, không để lính nhà đồn kịp báo động.
- Lính Tiến thì sao? - Đặng Huy Tá hỏi.
- Hiệu lệnh nổ ra, Tiến sẽ tự biết giải quyết tình huống theo cách của anh ta.
- Đồng ý! - Tá, Luật cùng lên tiếng.
- Bắt đầu!
Phạm Văn Luật mới hai mươi tuổi, to khỏe, trèo cây giỏi. Luật cầm con dao nhọn dài mấy gang tay leo thoăn thoắt lên chòi gác. Nguyễn Quang Hoan bám theo.
- Hai thằng mày, cúi mặt xuống, đưa tay ra sau lưng!
Phạm Văn Luật quát. Hai tên gác dựng súng đánh bài, giật nảy mình nằm vật xuống. Nguyễn Quang Hoan, Phạm Văn Luật thu hết súng đạn, bắt hai tên cởi hết quần áo quăng xuống đất. Nguyễn Quang Hoan dằn giọng:
- Chúng tao không phải là kẻ cướp ngày đâu, mà là nghĩa binh Tiên Động, Bình Tây Phục Quốc. Cho chúng mày về quê mà làm ăn, đừng bao giờ đi lính cho giặc Pháp nữa. Nhớ lấy!
Hai tên lính gác vâng dạ rối rít.
Dưới nhà trại, một đốm lửa xuất hiện. Rồi cả tảng lửa bùng lên mái nhà. Đám lính choàng tỉnh chạy túa ra sân. Một tiếng nổ vang ở dãy nhà cuối. Chắc không phải Đặng Huy Tá, có thể Tiến đã giật mìn. Nguyễn Quang Hoan thoáng nghĩ rồi ra lệnh rút lui, súng giặc đã nổ loạn xạ. Đạn bay chiu chíu, bông lửa đỏ lòe. Nhóm Nguyễn Quang Hoan đã gặp nhau ven đồi Cây De, thu được bốn khẩu hỏa mai, mút-cơ-tông, và mấy túi đạn. Nhà trại đồn Cửa Sông bốc cháy ngùn ngụt, chỉ huy ra lệnh hú còi phong tỏa.
Ngày hôm sau, Tướng Bríc-đờ-lin chỉ huy thủ phủ Hưng Hóa nhận được bản báo của viên trưởng đồn Cửa Sông: “Đêm qua, khoảng canh hai, mấy nghĩa binh triều đình ở Tiên Động đột kích đốt cháy cả dãy nhà trại, lấy đi bốn khẩu súng, dăm túi đạn. Hai lính thú gác chòi bị bắt trói, ba lính thú nhà trại đốt thuốc nổ làm sập mái kho lương khảo rồi bỏ trốn bằng thuyền theo đường sông Thao. An ninh Hưng Hóa đã bắt đầu tệ hại!”.