T
iền đấu với vàng bàn về sự thoái trào của đồng đô-la, hay nói rộng hơn là về nguy cơ sụp đổ của hệ thống tiền tệ quốc tế. Bởi vì, nếu mọi người mất niềm tin đối với đồng đô-la thì không một đồng tiền nào khác có khả năng thay thế nó làm đồng tiền dự trữ của thế giới. Đồng đô-la chính là hạt nhân. Nếu nó sụp đổ, toàn bộ hệ thống cũng sẽ sụp đổ theo. Mặc dù viễn cảnh sụp đổ kép này thật đáng sợ, nhưng nó hoàn toàn có thể xảy ra.
Trước hết, chúng ta sẽ ngược dòng thời gian quay lại quá khứ.
Một số người Mỹ cùng thời với chúng tôi nhớ lại, đồng đô-la đã gần như mất đi vị thế là đồng tiền dự trữ thế giới vào năm 1978. Đây là năm mà chỉ số sức mạnh của đồng đô-la của Cục Dự trữ Liên bang giảm không phanh, xuống đến mức đáng lo ngại. Bộ Ngân khố Hoa Kỳ buộc phải phát hành trái phiếu Chính phủ thanh toán bằng đồng franc của Thụy Sĩ. Các chủ nợ nước ngoài không còn tin dùng đồng đô-la Mỹ như một công cụ cất trữ giá trị nữa. Sức mua của đồng đô-la giảm dần, đến năm 1981 chỉ còn bằng một nửa so với năm 1977. Trong 5 năm này, tỉ lệ lạm phát của Mỹ tăng ở mức trên 50%. Bắt đầu từ năm 1979, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hầu như không còn lựa chọn nào khác ngoài việc huy động nguồn lực của mình để phát hành tiền tệ thế giới (quyền rút vốn đặc biệt SDR - special drawing rights), “nhấn chìm” thị trường bằng 12,1 tỉ SRD để tạo tính thanh khoản khi lòng tin của thế giới vào đồng đô-la giảm xuống đáy.
Chúng tôi vẫn nhớ rất rõ những ngày đen tối ấy. Trong giai đoạn 1977 đến 1980, giá vàng tăng 500%. Từ chỗ chỉ bị mất giá trong tầm kiểm soát vào năm 1971, khi Tổng thống Richard Nixon tuyên bố chấm dứt việc chuyển đổi đô-la Mỹ sang vàng, đến cuối thập kỷ, đồng đô-la đã thất bại trên mọi mặt trận.
Cuối những năm 1970, cuộc khủng hoảng đô-la lên tới đỉnh điểm. Tháng 8 năm 1971, mọi người bắt đầu mất niềm tin ngay sau khi Tổng thống Nixon đình chỉ khả năng quy đổi đô-la sang vàng. Tác giả Janet Tavakoli mô tả tình cảnh của một người Mỹ ở nước ngoài vào cái ngày mà cơn hấp hối của đồng đô-la trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết:
Bỗng nhiên, người Mỹ ở nước ngoài thấy các nhà hàng, khách sạn và quán xá không muốn rước lấy rủi ro lãi suất thả nổi từ những đồng đô-la mà họ đang có. Vào lễ Ferragosto (giữa tháng Tám), các ngân hàng ở Rome đóng cửa và người Mỹ nào thiếu tiền mặt thì đành bó tay chịu chết.
Người quản lý của khách sạn hỏi những vị khách đang rời đi: “Quý khách có vàng không? Xin hãy nhìn những gì Tổng thống Hoa Kỳ của các vị đã làm mà xem.” Ông ta hết sức nghiêm túc và sẵn sàng chấp nhận thanh toán bằng vàng.
Ngay lập tức, tôi yêu cầu trả trước tiền phòng bằng đồng lire. Người quản lý rất mừng rỡ. Ông ta và toàn bộ nhân viên đối xử với tôi như một bà hoàng. Tôi không giống đám người Mỹ với những đồng đô-la ngu ngốc của họ. Trong suốt thời gian tôi ở đây, không một lái buôn hay nhà hàng nào muốn tiếp đón tôi cho đến khi tôi giải thích rằng mình có thể thanh toán bằng đồng lire.
Những nỗ lực sau đó của Chủ tịch Hội đồng Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ – Paul Volcker và Tổng thống mới đắc cử – Ronald Reagan đã cứu đồng đô-la thoát chết. Volcker tăng lãi suất lên 19% trong năm 1981 để giảm lạm phát và đưa đồng đô-la trở thành lựa chọn hấp dẫn với giới tư bản nước ngoài. Bắt đầu từ năm 1981, Reagan cắt giảm các loại thuế và thủ tục hành chính. Những động thái này đã giúp khôi phục niềm tin của các doanh nghiệp và làm cho Hợp chúng quốc Hoa Kỳ trở thành một thỏi nam châm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Đến tháng 3 năm 1985, chỉ số sức mạnh của đồng đô-la đã tăng 50% so với mức thấp nhất vào tháng 10 năm 1978, đồng thời giá vàng giảm 60% so với mức đỉnh điểm vào năm 1980. Tỉ lệ lạm phát của Mỹ giảm từ 13,5% trong năm 1980 xuống còn 1,9% trong năm 1986. Đến giữa thập niên 1980, cơn khủng hoảng đã được dập tắt và triều đại của Hoàng đế Đô- la bắt đầu. Sau năm 1978, đồng đô-la tuy không bị “phế truất” khỏi vị trí là đồng tiền dự trữ của thế giới nhưng cũng từng có thời kỳ bên bờ vực thẳm.
Giờ thì chúng ta sẽ trở về với tương lai.
Nhìn vào nền kinh tế thế giới hiện nay, người ta đang thấy những triệu chứng tương tự như thời kì trước cơn hấp hối của đồng đô-la năm 1978. Tháng 7 năm 2011, chỉ số sức mạnh của đồng đô-la do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ công bố đã giảm xuống mức thấp nhất lịch sử, ở mức trên 4% so với mức khủng hoảng hồi tháng 10 năm 1978. Tháng 8 năm 2009, IMF một lần nữa phải ứng cứu bằng cách phát hành một đợt SDR mới, tương đương với 310 tỉ đô-la, khiến số lượng SDR đang lưu thông trên thị trường tăng thêm 850%. Đầu tháng 9, giá vàng đạt kỷ lục mới: gần 1.900 đô-la/ounce, cao hơn 200% so với giá trung bình năm 2006, ngay trước khi cuộc suy thoái mới bắt đầu. Công chúng trong thế kỷ XXI được thưởng thức phiên bản mới của Rollover, một bộ phim truyền hình về sự sụp đổ của nền tài chính có tên là Too Big To Fail.
Tình hình năm 1978 và những sự kiện gần đây có nhiều điểm tương đồng kỳ lạ, nhưng không hoàn toàn giống nhau. Có một yếu tố hủy diệt thế giới trước kia mà chúng ta dễ dàng nhìn thấy còn bây giờ thì không. Nó giống một con chó không sủa: lạm phát. Nhưng chúng ta không nghe thấy con chó sủa không có nghĩa là nó không nguy hiểm. Những chỉ số thường được dùng để đo lường tỉ lệ lạm phát của đồng đô-la Mỹ như chỉ số giá tiêu dùng hầu như không suy chuyển kể từ năm 2008 đến nay. Thậm chí trong một vài tháng nhất định, nền kinh tế Hoa Kỳ còn chứng kiến sự giảm phát nhẹ. Lạm phát đã xảy ra ở Trung Quốc, nơi Chính phủ định giá lại đồng nhân dân tệ để giảm sức hấp dẫn của nó và ở Brazil, nơi tình trạng giá cả leo thang trong những dịch vụ cơ bản như xe buýt đã châm ngòi cho nhiều cuộc bạo động. Lạm phát giá thực phẩm cũng là một yếu tố góp phần gây ra các cuộc biểu tình trong giai đoạn đầu của làn sóng “Mùa xuân Ả Rập”. Thế nhưng, nước Mỹ vẫn kiểm soát tốt đồng tiền của mình.
Quan sát kỹ hơn, chúng ta sẽ thấy một nền tiểu thủ công nghiệp đang sử dụng những phương pháp luận từ thời trước 1999, những giỏ hàng hóa, dịch vụ thay thế khác thể hiện tốt hơn về tình hình lạm phát mà người Mỹ đang thực sự phải đối mặt, để tính toán các chỉ số giá của Mỹ. Chúng đưa ra nhiều dấu hiệu cảnh báo, vì các phương pháp xác định lạm phát khác cho thấy tỉ lệ lạm phát hàng năm của Mỹ là trên 9% thay vì 2% như trong tài liệu mà Chính phủ công bố. Bất cứ ai đi mua sữa, bánh mì hay xăng dầu chắc chắn sẽ đồng ý với con số cao hơn. Mặc dù có thể những số liệu thống kê ảm đạm này rất thuyết phục nhưng chúng lại hầu như không ảnh hưởng gì đến các thị trường tiền tệ quốc tế hay chính sách của Cục Dự trữ Liên bang. Để hiểu rõ những mối đe dọa đối với đồng đô-la cũng như phản ứng khả dĩ trong các quyết sách của FED, chúng ta cần phải xem xét đồng đô-la trên quan điểm của FED. Từ góc nhìn này, lạm phát không phải là mối đe dọa. Ngược lại, đối với họ, tỉ lệ lạm phát cao hơn vừa là lời giải cho cuộc khủng hoảng nợ, vừa là một mục tiêu chính sách.
Chính sách ưu tiên lạm phát (pro-inflation) này là cánh cổng dẫn đến thảm họa, ngay cả khi các nhà phân tích của FED cũng phải vò đầu bứt tai trước “sự vắng mặt” quá rõ ràng của lạm phát trong đợt in tiền lớn chưa từng có của Cục Dự trữ Liên bang và các ngân hàng trung ương khác. Nhiều người thắc mắc tại sao FED có thể tăng lượng cung tiền tệ cơ sở lên 400% kể từ năm 2008 đến nay mà không hề để xảy ra tình trạng lạm phát. Nhưng chúng ta có hai cách giải thích hết sức thuyết phục – và chúng dự báo tiềm năng sụp đổ.
(i) Thứ nhất, nền kinh tế Mỹ đang bị tổn hại về mặt cấu trúc, bởi vậy, những đồng tiền dễ kiếm không thể đem lại lợi ích tối ưu.
(ii) Thứ hai, lạm phát đang diễn ra.
Cả hai cách giải thích này đều đúng – quả thực, nền kinh tế Mỹ đang tan rã và lạm phát đang tăng lên.
Tiền đấu với vàng sẽ xem xét hai sự kiện trên theo một cách đặc biệt. Các chương trong cuốn sách này sẽ nghiên cứu thận trọng những công cụ kinh tế tiêu chuẩn như các mô hình cân bằng, những phép đo giá trị rủi ro (value-at- risk) và các hệ số tương quan giả định. Bạn sẽ thấy rằng những mô hình cân bằng tổng quát đang được sử dụng rộng rãi trở nên vô nghĩa trong tình trạng cân bằng hỗn loạn hoặc cân bằng kép. Nền kinh tế thế giới chưa đạt đến sự “bình thường mới”. Thay vào đó, nó chỉ đang trong hành trình từ cũ đến mới mà không hề có la bàn hay bản đồ định hướng. Giờ đây, sự hỗn loạn mới chính là bình thường.
Mối nguy hiểm đến từ cả bên trong lẫn bên ngoài. Chúng ta đang tin tưởng một cách sai lầm rằng các ngân hàng trung ương sẽ cứu vãn tình thế. Sự thật là, họ đang phá hoại thị trường của chúng ta. Những mô hình giá trị rủi ro mà Phố Wall và các nhà điều hành sử dụng để đo lường hậu quả của chứng khoán phái sinh thật nực cười. Chúng bao che cho việc lạm dụng phương thức đòn bẩy – tình trạng được lấp liếm một cách không biết ngại ngùng thành những khoản trợ cấp kỳ quặc vốn đang đẩy xã hội của chúng ta lệch khỏi trạng thái cân bằng. Khi các chi phí ẩn “hiện hình” và người nộp thuế một lần nữa loay hoay với đống hóa đơn thì các chủ ngân hàng sẽ thảnh thơi giấu mình trong biệt thự và du thuyền sang trọng của họ. Những gã khổng lồ của nền tài chính sẽ giải thích với đám phóng viên nhẹ dạ cả tin và các chính trị gia đã được đút lót rằng lần sụp đổ mới này là điều mà họ không lường trước được.
Trong khi người Mỹ từ chối việc đối mặt với những sự thật về nợ nần và thâm hụt ngân sách thì rất nhiều quốc gia khác trên toàn cầu đang hàng ngày gia tăng sức ép lên đồng đô-la. Chúng ta nghĩ rằng bản vị vàng đã lùi vào lịch sử, nhưng ngày nay, vàng đang dần chiếm ưu thế trên khắp thế giới và điều này có thể báo hiệu một sự quay trở lại với chế độ bản vị vàng. Chúng ta đang đánh giá quá thấp về những mối nguy hiểm từ một cuộc tấn công tài chính trên quy mô siêu lớn và những rủi ro của một cuộc chiến tranh tài chính mang tầm quốc tế.
Phân tích hồi quy và các vấn đề tương quan, những công cụ ưa thích của các nhà phân tích định lượng tài chính và các nhà kinh tế học, hoàn toàn không hiệu quả trong việc đối phó với rủi ro phía trước. Những phép phân tích này giả định rằng tương lai giống với quá khứ ở một chừng mực nào đó. Lịch sử là một thầy giáo tuyệt vời, nhưng những giả thiết của các chuyên gia phân tích định lượng tài chính lại ẩn chứa những sai lầm chết người.
Sai lầm thứ nhất là khi nhìn về quá khứ, tầm nhìn không đủ xa. Hầu hết dữ liệu liên quan đến Phố Wall đều chỉ bao quát 10, 20 hoặc 30 năm về trước. Những nhà phân tích cẩn thận, thấu đáo hơn sẽ sử dụng hàng loạt dữ liệu thu thập được trong 100 năm và tìm kiếm phương pháp thay thế phù hợp cho công cụ đo lường nào không tồn tại trong quá khứ. Tuy nhiên, hai sự sụp đổ của hai nền văn minh lớn nhất trong lịch sử là Thời đại Đồ đồng và Đế chế La Mã diễn ra cách nhau 1.600 năm, và Đế chế La Mã lại cách thời đại của chúng ta 1.600 năm. Nói như vậy không phải để ám chỉ việc nền văn minh của chúng ta lại sắp sụp đổ một lần nữa. Chúng tôi đơn thuần chỉ muốn đưa ra tầm nhìn cực kỳ hạn chế mà phần lớn các phép phân tích hồi quy đang áp dụng.
Sai lầm thứ hai liên quan đến thực tế là các chuyên gia phân tích định lượng tài chính không hiểu rõ các mô hình động lực học đo lường quy mô (scaling dynamics) vốn đang gạt bỏ một số công cụ đo lường rủi ro ra khỏi lịch sử. Vì rủi ro tiềm năng là hàm số mũ của quy mô hệ thống, và vì quy mô của các hệ thống tài chính được đo lường bởi chứng khoán phái sinh không tồn tại, nên rủi ro cũng không tồn tại.
Mặc dù từ “sụp đổ” áp dụng cho đồng đô-la nghe có vẻ hơi giống trong sách Khải huyền (cuốn sách cuối cùng của Tân Ước), nhưng nó mang một ý nghĩa hết sức thực tế. Sụp đổ đơn giản là việc người dân và các ngân hàng mất niềm tin vào sức mua tương lai của đồng đô-la. Kết quả là những ai có đô-la sẽ “tránh xa” nó bằng cách chi tiêu nhanh hơn hoặc mua sắm tài sản hữu hình. Sự thay đổi nhanh chóng trong hành vi này khiến lãi suất cao hơn, lạm phát nghiêm trọng hơn và quá trình tích lũy tư bản tan rã. Kết quả cuối cùng có thể là tình trạng giảm phát (tương tự những năm 1930) hoặc lạm phát (tương tự những năm 1970), hoặc cả hai.
Sự sụp đổ đang diễn ra của đồng đô-la cũng như của hệ thống tiền tệ quốc tế là điều hoàn toàn có thể thấy trước. Đây không phải một kết luận mang tính khiêu khích. Hệ thống tiền tệ quốc tế đã sụp đổ ba lần trong một thế kỷ qua, vào các năm 1914, 1939 và 1971. Mỗi lần như vậy kéo theo cả một thời kỳ hỗn loạn.
Lần sụp đổ năm 1914 là hệ quả của Chiến tranh Thế giới thứ I, theo sau đó là những giai đoạn lạm phát phi mã và suy thoái luân phiên từ 1919 đến 1922 trước khi ổn định trở lại vào giữa thập niên 1920. Tuy nhiên, đi kèm với đó là một chế độ bản vị vàng nhiều sai sót – nhân tố đưa thế giới đến lần sụp đổ mới trong thập niên 1930.
Chiến tranh Thế giới lần II là nguyên nhân gây ra cuộc sụp đổ 1939 và lại ổn định một lần nữa nhờ hệ thống Bretton Woods được thiết lập năm 1944.
Lần sụp đổ năm 1971 xảy ra do lệnh cấm chuyển đổi đô- la thành vàng của Nixon, mặc dù quyết định này đã được xem xét trong nhiều năm trước đó. Tiếp nối sự kiện này lại là một giai đoạn hỗn loạn khác, gần như đẩy đồng đô-la đến bờ vực sụp đổ vào năm 1978.
Lần sụp đổ sắp tới, cũng giống những lần trước, có thể liên quan tới chiến tranh, vàng hoặc tình trạng hỗn loạn, hoặc cả ba. Cuốn sách này chỉ đề cập đến những mối đe dọa gần nhất đối với đồng đô-la – những sự kiện nhiều khả năng sẽ xảy ra trong một vài năm tới, đó là: chiến tranh tài chính, giảm phát, lạm phát phi mã và sự sụp đổ của thị trường. Chỉ những quốc gia và cá nhân nào chuẩn bị sẵn sàng ngay hôm nay thì mới sống sót được qua cơn cuồng phong đang ập đến.
Tiền đấu với vàng không sử dụng những phương pháp đầy tính “mị dân” – mặc cho chúng rất phổ biến, mà dựa vào lý thuyết về độ phức hợp (complexity theory) và coi đây là thấu kính tốt nhất để xem xét những rủi ro hiện tại cũng như hệ quả có thể xảy ra trong tương lai. Thị trường vốn là hệ thống phức tạp hơn bất cứ hệ thống nào khác. Lý thuyết về độ phức hợp tương đối mới mẻ trong lịch sử khoa học, nhưng trong 60 năm tồn tại, nó đã được ứng dụng rộng rãi để nghiên cứu thời tiết, động đất, các mạng lưới xã hội và những hệ thống kết nối chằng chịt khác. Lý thuyết này chỉ mới được áp dụng cho thị trường vốn trong thời gian gần đây, nhưng nó đã đem lại nhiều hiểu biết sâu sắc về các phép đo độ rủi ro và sự biến động của giá cả – những nhân tố có khả năng dự báo chính xác hơn so với các phương pháp truyền thống.
Như các bạn sẽ thấy, lần sụp đổ tài chính tiếp theo sẽ là vô tiền khoáng hậu. Nhưng một tầm nhìn sáng suốt hơn về những biến cố đang diễn ra trên thị trường tài chính thế giới có thể giúp các nhà đầu tư suy nghĩ thấu đáo về những chiến lược tối ưu. Trong phần kết luận của cuốn sách, các bạn sẽ tìm thấy một số khuyến nghị, nhưng khi đứng giữa ngã ba đường và đối mặt với cái chết của đồng đô-la thì để quyết định được lời khuyên nào đúng đắn nhất, bạn phải hiểu biết tường tận về hàng ngàn rủi ro mình có thể gặp phải.
Hãy nghĩ đến một cuộc chiến tranh tài chính, chứ không chỉ là những hệ quả mà thị trường phải gánh chịu.
CHIẾN TRANH TÀI CHÍNH
Chúng ta có được chuẩn bị để đối phó với một cuộc chiến tranh tài chính không? Sự điều khiển chiến tranh tài chính khác với sự cạnh tranh thông thường về kinh tế giữa các quốc gia, vì nó liên quan đến những hành động hiểm ác một cách có chủ ý, thay vì những hành động cạnh tranh đơn thuần. Các bên tham gia cuộc chiến sẽ sử dụng chứng khoán phái sinh và xâm nhập vào các sàn giao dịch để gây tổn thất, kích động khiến mọi người hoang mang và cuối cùng là làm tê liệt nền kinh tế của đối thủ. Chiến tranh tài chính vượt xa hành động gián điệp công nghiệp vốn xuất hiện từ đầu những năm 1800, khi một người Mỹ là Francis Cabot Lowell ghi nhớ bản thiết kế máy dệt của người Anh rồi về nước vẽ lại.
Vũ khí trong cuộc chiến tài chính hiện đại bao gồm các quỹ đầu cơ (1) trá hình và các cuộc tấn công mạng có khả năng gây tổn hại hệ thống nhập lệnh để giả mạo một đợt bán tháo cổ phiếu Apple, Google hay IBM. Những người ủng hộ lý thuyết thị trường hiệu quả nghi ngờ những chiến thuật tinh vi như vậy sẽ nhanh chóng thất bại trong việc nhìn ra điểm yếu này của thị trường. Mục tiêu của chiến tranh tài chính không phải là tối đa hóa sự giàu có, mà là chiến thắng.
1 Nguyên văn là Hedge fund. Trong cuốn sách này, chúng tôi tạm dịch là “quỹ đầu cơ” (Từ đây mọi chú thích đều do dịch giả tổng hợp).
Rủi ro xảy ra chiến tranh tài chính trong thời đại đồng đô-la đang thống trị nghe thật mới mẻ, vì Hợp chúng quốc Hoa Kỳ chưa bao giờ phải chung sống trong một thế giới nơi các nước khác không phụ thuộc vào Mỹ để đảm bảo an ninh quốc gia của mình. Ngay cả khi đồng đô-la suy yếu nhất vào năm 1978, Đức, Nhật và những nước xuất khẩu dầu mỏ khác vẫn phải tìm cách chống đỡ cho nó vì họ phụ thuộc rất nhiều vào sự bảo trợ của Mỹ trước mối đe dọa từ Xô-viết. Ngày nay, tình hình an ninh của các cường quốc như Nga, Trung Quốc và Iran không cần dựa vào Hoa Kỳ, thậm chí họ còn thấy lợi ích nào đó từ một nước Mỹ bị tổn thương về mặt kinh tế. Các thị trường vốn giờ đây đã trở thành vấn đề chiến lược, và cả giới chuyên gia phân tích ở Phố Wall lẫn các nhà hoạch định chính sách ở Washington đều hiểu một cách hết sức mập mờ về thế giới mới này, trong khi họ chính là những người cần nắm rõ nhất về tác động của sự biến chuyển nói trên.
LẠM PHÁT
Những lời chỉ trích của Richard Cantillon về V. I. Lenin đầu thế kỷ XVIII và của John Maynard Keynes trong thế kỷ XX giống nhau ở chỗ: cả hai đều cho rằng lạm phát là kẻ hủy diệt giấu mặt đối với tiền tiết kiệm, vốn và sự tăng trưởng kinh tế.
Lạm phát thường bắt đầu một cách rất tinh vi, và đến khi người ta nhận ra thì nó đã đi được những bước đáng kể rồi. Tình trạng chậm trễ trong việc nắm bắt sự hình thành và tiến triển của lạm phát, vốn hết sức quan trọng đối với các ngân hàng trung ương, được gọi là ảo giác tiền tệ (money illusion) – cụm từ dùng để chỉ một nhận thức rằng tài sản thực đang được tạo nên, từ đó “tinh thần động vật” mà Keynes đề xuất được đánh thức. Chỉ đến sau này, người ta mới vỡ lẽ ra rằng các ngân hàng và nhà đầu tư tinh ranh đã “ăn” trọn chỗ tài sản đó, còn người dân hằng ngày sẽ bị bỏ lại với chỗ tiền tiết kiệm, lương hưu và bảo hiểm nhân thọ bị mất giá.
Những năm 1960 và 1970 là một ví dụ tốt để minh họa cho khái niệm ảo giác tiền tệ. Từ 1961 đến 1965, tỉ lệ lạm phát bình quân hàng năm của Mỹ là 1,24%. Trong năm 1965, Tổng thống Lyndon Johnson áp dụng chính sách “súng và bơ” – “súng” tượng trưng cho cuộc chiến kéo dài ở Việt Nam, “bơ” tượng trưng cho chương trình phúc lợi Đại xã hội, khơi nguồn cho một đợt chi tiêu tốn kém khủng khiếp và đẩy ngân sách vào tình trạng thâm hụt. Cục Dự trữ Liên bang đổ tiền cho chính sách này cho đến tận khi Tổng thống Nixon tái đắc cử vào năm 1972. Ban đầu, lạm phát nhích từng chút một, tăng lên 2,9% vào năm 1966 và 3,1% vào năm 1967. Sau đó, nó diễn biến phức tạp ngoài tầm kiểm soát, đạt mức 5,7% vào năm 1970 và chạm đỉnh 13,5% vào năm 1980. Đến tận năm 1986, tỉ lệ lạm phát mới quay về mức 1,9% – mức trung bình của những năm đầu thập niên 1960.
Giai đoạn 1960 - 1970 để lại hai bài học có thể áp dụng hoàn hảo cho ngày nay.
Bài học thứ nhất: Trước khi người dân kịp nhận ra thì lạm phát có thể đã diễn biến hết sức nghiêm trọng. Phải đến tận năm 1974, 9 năm kể từ khi lạm phát bắt đầu, nó mới trở thành một vấn đề có sức nặng về mặt chính trị và là mối quan tâm hàng đầu của chính sách công. Sự chậm trễ trong hành động và nhận thức này chính là bản chất của ảo giác tiền tệ.
Bài học thứ hai: Một khi nhận thức về lạm phát thay đổi thì sẽ vô cùng khó thiết lập lại. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, phải mất 9 năm để người dân Mỹ bình thường tập trung vào lạm phát, thêm 11 năm nữa để định hình lại những kỳ vọng của họ. Lăn một tảng đá xuống chân đồi bao giờ cũng nhanh hơn nhiều so với khi đẩy nó lên đỉnh.
Gần đây hơn, kể từ năm 2008 đến nay, Cục Dự trữ Liên bang đã in hơn 3.000 tỉ tiền mới mà không làm lạm phát ở Mỹ tăng nhiều. Tuy nhiên, FED vẫn định ra mức tỉ lệ lạm phát tối thiểu là 2,5%, hoặc có thể cao hơn và họ sẽ không hạn chế in tiền cho đến khi đạt được mục tiêu đó. Đối với FED, lạm phát là một cách để làm giảm bớt giá trị thực của nợ công của Mỹ và tránh được bóng ma giảm phát.
Thế nhưng cách này tiềm ẩn một rủi ro lớn. Chúng ta có thể tìm thấy trong cả lịch sử lẫn tâm lý học hành vi những lý do để tin rằng khi đã đạt được mục tiêu lạm phát và thay đổi được kỳ vọng, một vòng hồi tiếp sẽ hình thành, trong đó, lạm phát cao hơn dẫn đến kỳ vọng về lạm phát cao hơn, dẫn đến lạm phát cao hơn nữa, cứ thế… FED sẽ không thể làm vòng hồi tiếp này ngừng lại, vì sự phát triển của nó không chỉ phụ thuộc vào chính sách tiền tệ mà cả bản chất con người.
Khi vòng hồi tiếp lạm phát đủ mạnh, lịch sử những năm cuối thập niên 1970 sẽ tái diễn. Tình trạng giá vàng tăng phi mã và đồng đô-la mất giá – hai mặt của một đồng xu, sẽ nhanh chóng xảy ra. Điểm khác biệt giữa viễn cảnh lạm phát tăng mạnh sắp tới và trường hợp trong quá khứ là Nga, Trung Quốc và IMF sẽ sẵn sàng cung cấp những tài sản dự trữ mới bằng vàng và SDR, chứ không phải đô-la. Khi đồng đô-la ngã ngựa vào lần tới, sẽ không có tấm đệm nào đỡ nó nữa.
GIẢM PHÁT
Từ sau giai đoạn 1927 - 1933, Hoa Kỳ không trải qua đợt giảm phát kéo dài nào nữa, vì thế người Mỹ hiện nay cũng không nhớ gì nhiều về nó. Đáng lẽ ra, nước Mỹ đã phải đối mặt với một đợt giảm phát nghiêm trọng từ 2009 đến 2013 nếu không có lượng tiền in khổng lồ của Cục Dự trữ Liên bang. Bóng ma giảm phát trôi dạt khắp nước Mỹ không hề biến mất. Nó chỉ được che giấu đi mà thôi.
Giảm phát là cơn ác mộng tồi tệ nhất đối với Cục Dự trữ Liên bang vì nhiều lý do. Thu nhập thực từ giảm phát rất khó đánh thuế. Nếu một cán bộ quản lý trường học kiếm được 100.000 đô-la mỗi năm, giá cả không đổi và được tăng lương 5%, thì mức sống thực trước thuế của cô ta sẽ tăng thêm 5.000 đô-la, nhưng Chính phủ chỉ đánh thuế đối với phần tăng thêm và để người quản lý được hưởng toàn bộ phần còn lại. Thế nhưng, nếu thu nhập của người quản lý không đổi và giá cả giảm 5% thì mức sống của cô ta vẫn tăng thêm 5.000 đô-la mỗi năm, nhưng Chính phủ không thể đánh thuế khoản tăng thêm này vì nó xuất hiện dưới hình thức giá cả thấp hơn chứ không phải tiền lương cao hơn.
Giảm phát làm tăng giá trị thực của nợ công, khiến việc trả nợ khó khăn hơn. Nếu giảm phát không đảo chiều thì Hoa Kỳ sẽ vỡ nợ ngay tức khắc, “đau đớn” hơn nhiều so với hệ quả vỡ nợ do lạm phát. Giảm phát cũng làm chậm mức tăng trưởng GDP danh nghĩa, trong khi nợ danh nghĩa lại tăng hàng năm do thâm hụt ngân sách. Điều này có xu hướng làm tăng tỉ lệ nợ/GDP, đẩy nước Mỹ vào vết xe đổ của Hy Lạp và gần hơn đến một cuộc khủng hoảng nợ quốc gia.
Cuối cùng, giảm phát tự nuôi sống chính nó và FED gần như không thể nào dự trữ được. Cục Dự trữ Liên bang vốn rất tự tin về khả năng kiểm soát lạm phát, mặc dù những bài học từ thập niên 1970 cho thấy họ cần có những thước đo thật nghiêm khắc. Tuy nhiên, họ hoàn toàn hiểu rõ khó khăn của việc chấm dứt giảm phát. Khi giá trị của tiền mặt tăng lên từng ngày – đặc điểm nhận diện của giảm phát, người dân và doanh nghiệp sẽ tích trữ tiền mặt chứ không chi tiêu hay đầu tư, khiến tổng cầu và GDP giảm mạnh. Đây chính là lý do tại sao từ 2008 đến nay, FED in thêm hơn 3.000 tỉ đô-la để chặn đứng giảm phát ngay từ trong trứng nước. Con đường khả dĩ nhất của Cục Dự trữ Liên bang trong những năm sắp tới là tiếp tục in thêm thật nhiều tiền để ngăn giảm phát xuất hiện. Giả định mà FED đang áp dụng là bất cứ hệ quả nào của lạm phát cũng có thể được giải quyết ổn thỏa trong một khoảng thời gian hợp lý.
Trong quá trình không ngừng in tiền để ngăn chặn giảm phát, nhiều khả năng FED sẽ chạm tới những giới hạn về mặt chính trị đối với việc in tiền, có lẽ là khi bảng cân đối kế toán của nó vượt quá 5.000 tỉ đô-la, hoặc khi nó bị đánh giá là không có khả năng trả nợ trên cơ sở hạch toán theo giá thị trường. Đến lúc đó, các thống đốc của FED có thể chọn cách thử vận may với giảm phát. Trong kịch bản “khiêu vũ với quỷ Sa-tăng” này, FED sẽ dựa vào chính sách tài khóa để giữ cho tổng cầu ổn định. Hoặc giảm phát có thể vẫn sẽ xuất hiện bất chấp việc in tiền. Kịch bản này xảy ra khi FED đứng từ trên trực thăng vung vãi tiền xuống nhưng người dân không chút đoái hoài vì nhặt tiền lên đồng nghĩa với chấp nhận gánh thêm nợ. Trong cả hai kịch bản, nước Mỹ đều sẽ trở về năm 1930 và đối mặt với nạn giảm phát vượt tầm kiểm soát.
Trước tình hình đó, cách duy nhất để nước Mỹ chặn đứng giảm phát là ban bố sắc luật quy định giá vàng là (ví dụ) 7.000 đô-la/ounce, có thể cao hơn. Cục Dự trữ Liên bang có thể giữ vững mức giá này bằng cách sử dụng vàng ở Fort Knox để thay mặt Ngân khố chỉ đạo hoạt động của thị trường mở. FED có thể mua vàng với giá 6.900 đô-la/ ounce và bán ra với giá 7.100 đô-la/ounce để duy trì mức giá 7.000 đô-la/ounce. Mục đích ở đây không phải để làm giàu cho người sở hữu vàng, mà là để tái thiết lập mức giá chung.
Những bước đi như trên có thể không khả thi, nhưng chúng sẽ hiệu quả. Vì mọi thứ đều tác động qua lại lẫn nhau nên việc giá trị đồng đô-la quy đổi ra vàng bị giảm xuống sẽ nhanh chóng được phản ánh qua việc giá đô-la quy đổi ra tất cả những thứ khác tăng lên. Việc một ounce vàng giá 7.000 đô-la cũng đồng nghĩa với việc một thùng dầu giá 400 đô-la và một ounce bạc giá 100 đô-la. Sự quay lại của giảm phát có thể được chặn đứng nếu đồng đô-la bị giảm giá trị so với vàng, như trường hợp năm 1933 khi Mỹ quy định lại giá trị của vàng, từ 20,67 đô-la/ounce lên 35,00 đô-la/ounce, tức là giá trị đồng đô-la bị giảm 41%. Nếu Hoa Kỳ lại một lần nữa đối mặt với giảm phát nghiêm trọng thì giảm giá trị đồng đô-la là phương thuốc duy nhất, bởi ngoài nó ra, không còn giải pháp nào khác khi cách in tiền đã thất bại.
SỰ SỤP ĐỔ CỦA THỊ TRƯỜNG
Viễn cảnh thị trường sụp đổ phụ thuộc vào rủi ro hệ thống, không phụ thuộc vào chính sách kinh tế nền tảng. Rủi ro thị trường sụp đổ bị phóng đại bởi trình độ quản lý, điều hành kém cỏi và sự tham lam của các ngân hàng. Lý thuyết về độ phức tạp chính là công cụ thích hợp để phân tích rủi ro này.
Trong quá trình phân tích này, bước đầu tiên, chúng ta phải hiểu rằng các thị trường vốn bao gồm cả bốn đặc tính đặc trưng của những hệ thống phức tạp: (i) cơ quan đoàn thể đa dạng, (ii) không có tính kết nối, (iii) phụ thuộc lẫn nhau và (iv) hành vi có tính thích nghi. Việc kết luận rằng thị trường vốn là hệ thống phức tạp có rất nhiều ý nghĩa đối với công tác điều hành và quản trị rủi ro.
Ý nghĩa thứ nhất, công cụ thích hợp để đo lường rủi ro là tổng giá trị giả định của chứng khoán phái sinh, không phải giá trị thuần. Tổng quy mô vị thế chứng khoán phái sinh của tất cả các ngân hàng hiện nay là trên 650 nghìn tỉ đô-la, cao gấp hơn 9 lần GDP toàn cầu.
Ý nghĩa thứ hai, bi kịch lớn nhất có thể xảy ra trong một hệ thống phức tạp là một hàm số mũ phi tuyến tính của quy mô hệ thống. Điều này nghĩa là, khi quy mô hệ thống mở rộng gấp đôi hoặc gấp ba, rủi ro đứng trước thảm họa sẽ tăng lên theo thừa số của 10 hoặc 100. Đây cũng chính là lý do những bài kiểm tra mức độ căng thẳng dựa trên các sự kiện lịch sử như 9/11 hay 2008 hoàn toàn không có giá trị, vì quy mô hệ thống không đồng nhất sẽ dẫn đến rủi ro hệ thống không đồng nhất.
Giải pháp cho rủi ro hệ thống này thực ra lại đơn giản đến không ngờ. Nhiệm vụ trước mắt là đóng cửa các ngân hàng lớn và cấm giao dịch phần lớn chứng khoán phái sinh. Các ngân hàng lớn không cần thiết đối với nền tài chính toàn cầu. Khi cần đến những khoản tiền lớn, một ngân hàng chủ trì có thể đứng ra tổ chức nghiệp đoàn ngân hàng, như đã từng làm trong quá khứ đối với các dự án hạ tầng khổng lồ như đường ống Alaska, những đoàn tàu chở dầu cực lớn và những chiếc Boeing 747 đầu tiên. Lợi ích của việc đóng cửa ngân hàng không phải là loại bỏ được nguy cơ ngân hàng làm ăn thất bại, mà là sự thất bại đó sẽ không trở thành mối nguy hiểm nữa. Cái giá phải trả cho nó sẽ nằm trong khả năng kìm hãm được và không thể “di căn” đến mức đe dọa toàn hệ thống. Trường hợp cấm giao dịch phần lớn chứng khoán phái sinh thậm chí còn dễ hiểu hơn nữa. Trên thực tế, chứng khoán phái sinh không có ích lợi gì ngoài việc làm giàu cho các chủ nhà băng nhờ giá cả mù mờ và lừa gạt các nhà đầu tư thông qua hạch toán ngoại bảng.
Bất kể những chiến lược giải tán ngân hàng lớn hay cấm chứng khoán phái sinh có mang lại lợi ích gì chăng nữa thì khả năng để chúng trở thành hiện thực cũng bằng 0. Vì các nhà quản lý đang sử dụng những mô hình đã lỗi thời hoặc dựa vào mô hình của chính ngân hàng, bất chấp việc chúng không thể nhận diện được rủi ro hệ thống. Quốc hội sẽ không hành động bởi vì nhìn chung, ông nghị bà nghị nào cũng bị trói buộc bởi những khoản tiền mà các ngân hàng đổ vào hoạt động chính trị.
Rủi ro từ phía ngân hàng và chứng khoán phái sinh sẽ không ngừng tăng lên và lần sụp đổ tiếp theo sẽ diễn ra ở một phạm vi chưa từng có, vì quy mô hệ thống đã đạt đến mức lớn nhất từ trước đến nay. Các nguồn lực của Cục Dự trữ Liên bang đã gần như không thể ngăn chặn một đợt sụp đổ toàn diện trong năm 2008, vì vậy chúng ta nên chuẩn bị tinh thần cho một đợt sụp đổ còn lớn hơn thế sẽ chôn vùi bảng cân đối kế toán của FED. Trong một thời kỳ tương đối yên bình mà cơ quan này đã in tới hơn 3.000 tỉ đô-la thì trong cuộc khủng hoảng tương lai, việc in thêm 3.000 tỉ đô-la nữa hoàn toàn không khả thi về mặt chính trị. Nhiệm vụ giải cứu thế giới sẽ đặt lên vai IMF, vì họ sẽ là định chế chính thức duy nhất sở hữu một bảng cân đối kế toán sạch sẽ. IMF sẽ đối phó bằng một đợt phát hành SDR quy mô cực lớn và thị trường tiền tệ này sẽ đặt dấu chấm hết cho vai trò là tiền tệ dự trữ hàng đầu của đồng đô-la.
NGUY HIỂM DỒN DẬP
Những mối đe dọa nói trên đối với đồng đô-la hiện diện khắp mọi nơi. Từ bên trong là việc in tiền vô tội vạ của FED và nguy cơ lạm phát phi mã. Từ bên ngoài là hoạt động tích trữ vàng của Nga và Trung Quốc (sẽ được đề cập rõ hơn trong Chương 9) báo trước sự chuyển đổi sang một loại tài sản dự trữ mới.
Ngoài ra, còn vô số mối đe dọa liên quan khác. Nếu lạm phát không hình thành thì chỉ có thể do nền kinh tế đã giảm phát vô phương cứu chữa và phản ứng của FED sẽ dọn đường cho sự trỗi dậy của vàng. Nga và Trung Quốc không phải là hai quốc gia duy nhất khao khát thoát khỏi sự chi phối của đồng đô-la. Iran và Ấn Độ có thể dẫn đầu một cuộc cách mạng chuyển hướng sang sử dụng đồng tiền châu Á làm tiền tệ dự trữ và các thành viên trong Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (Gulf Cooperation Council) có thể chọn cách xác định giá xuất khẩu dầu mỏ bằng một loại tiền tệ khu vực mới do một ngân hàng trung ương có trụ sở tại Vịnh Ba Tư phát hành.
Về mặt địa chính trị, các mối đe dọa đối với đồng đô-la có thể không giới hạn trong sự cạnh tranh kinh tế, mà có thể mang khuynh hướng thù địch và chuyển thành một cuộc chiến tranh tài chính.
Cuối cùng, chính sự phức tạp và hiệu ứng lan tỏa từ bên trong có thể sẽ khiến hệ thống tài chính toàn cầu tự sụp đổ mà không cần đến một cuộc tấn công trực diện nào.
Cho đến bây giờ, đồng đô-la và hệ thống tiền tệ quốc tế tuy hai mà một. Nếu đồng đô-la sụp đổ, hệ thống tiền tệ quốc tế cũng sẽ sụp đổ theo, đó là điều tất yếu. Người dân, người gửi tiết kiệm và người được hưởng trợ cấp, lương hưu sẽ là nạn nhân chính trong những biến động khó lường theo sau cuộc sụp đổ. Mặc dù một sự kiện như vậy không có nghĩa là sự chấm hết cho hoạt động thương mại, tài chính hay ngân hàng. Những “tay chơi” lớn trên thị trường tài chính, bất kể đó là các quốc gia, ngân hàng hay các thể chế đa phương, sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn. Trong khi các bộ trưởng tài chính, thống đốc ngân hàng trung ương và nguyên thủ quốc gia liên tục nhóm họp để dàn xếp luật lệ mới của cuộc chơi. Nếu tình hình xã hội trở nên bất ổn trước khi giới tài chính chóp bu kịp cứu vãn hệ thống, các quốc gia sẽ phải chuẩn bị lực lượng cảnh sát có vũ trang, quân đội, phương tiện, cơ chế giám sát và ban hành các mệnh lệnh để đàn áp làn sóng phẫn nộ trong dân chúng.
Hệ thống tiền tệ quốc tế tương lai sẽ không dựa trên đồng đô-la, vì Trung Quốc, Nga, các nước khai thác dầu mỏ và các quốc gia mới nổi khác sẽ đồng tâm hiệp lực chấm dứt sự thống trị của Mỹ về mặt tiền tệ và thiết lập nên một bản vị tiền tệ mới. Việc bản vị mới này sẽ dựa trên vàng, SDR hay một mạng lưới tiền tệ dự trữ của khu vực, chúng ta còn phải chờ xem. Tuy nhiên, sự lựa chọn không có nhiều, và việc nghiên cứu thấu đáo về những khả năng hàng đầu có thể đem lại cho các nhà đầu tư một lợi thế cùng cái nhìn toàn cảnh hợp lý để bảo tồn tài sản trong thế giới mới này.
Hệ thống tiền tệ quốc tế đang diễn biến ngoài tầm kiểm soát, cục diện nền kinh tế thế giới đã biến đổi, với những đối thủ mới, lòng trung thành đổi chủ, sự vô lý về mặt chính trị và sự thay đổi về mặt công nghệ khiến giới đầu tư cảm thấy rối rắm. Trong Tiền đấu với vàng, bạn sẽ lướt qua những ngày cuối cùng của đồng đô-la và nhìn vào tương lai để quan sát một hệ thống mới sẽ trỗi dậy từ tro tàn của cái cũ.