Trong đời thơ của mình, nhà thơ Phạm Minh Tâm đã dành hẳn một tập thơ viết về đề tài thương binh, liệt sĩ. Chỉ hơn một trăm trang nhưng sức nặng của tập thơ thì không thể cân đong được. Nặng bởi nghĩa tình đồng đội thủy chung; nặng bởi sự hy sinh lẫm liệt, lớn lao; nặng bởi nỗi đau cắt cứa khôn nguôi của những người đang sống… Ngay sau khi ra đời, tập thơ đã được Tổng cục Chính trị quyết định tái bản để phục vụ rộng rãi hơn đồng bào, chiến sĩ mọi miền quê. Đó là tập thơ “Xin đừng của riêng ai”2.
Mở đầu tập thơ, tác giả mượn lời thì thầm của đất để tâm sự với những người đã ra đi, tâm sự với những người đang sống. Bài thơ được sáng tác tại Thành cổ Quảng Trị, nơi nhà thơ cùng đồng đội sống và chiến đấu trong mùa hè đỏ lửa. Tâm trạng của thầy giáo trẻ dạy môn Lịch sử là tâm trạng của anh:
“… Đồng đội tôi bao nhiêu đứa không về
Chớm sang hè rộn rã tiếng ve
Thầy giáo trẻ đến trường dạy môn lịch sử
Phấn trắng, bảng đen dòng nào ghi mùa hè đỏ lửa?
Lời nào thầy nén lại thương đau?...”
(Trong thì thầm của đất)
Vẫn tâm trạng đau buốt ấy, nhà thơ nhớ lại một ngày “tiễn bạn” về nơi bất tử:
“… Tạ từ không một tuần hương
Với tay bẻ cành hoa núi
Gọi là nghĩa tình đồng đội
Trong giờ “tử biệt, sinh ly”…”
(Tiễn bạn)
Tôi cũng đã từng tiễn bạn về nơi bất tử như nhà thơ. Ấy là mùa khô giữa núi rừng Tây Nguyên năm 1973. Bài thơ “Tiễn bạn” đã nói hộ tâm trạng của tôi và tâm trạng bao người vào cái thời khắc đau buồn ấy. Bài thơ giản dị như cuộc đời người lính. Từng câu, từng dòng tựa như lời người lính vẫn tâm tình với nhau khi sống. Có khác chăng là nỗi lo toan vẫn day dứt cùng những giọt nước mắt thầm:
“… Cúi xuống bên anh khóc thầm
Thương bạn một mình nằm lại.
Ở nơi đạn cày, bom vãi
Biết có yên bề cho anh?...”
(Tiễn bạn)
Chiến tranh là vậy, bạn nằm xuống rồi đâu đã được yên. Biết bao đồng đội của tôi, của nhà thơ phải hy sinh mấy lần!
Hòa bình, đất nước vươn mình trong tươi xanh, nhưng khói nghĩa trang vẫn nghi ngút cùng nỗi đau âm ỉ tháng ngày. Nhà thơ trở lại nghĩa trang thăm bạn, tuy mái tóc đã bạc nhưng vẫn ngỡ ngàng nhưng nhức nỗi niềm về những ước ao “chén rượu”, “cuộc cờ” bình dị:
“… Khói hương một chút tâm thành
Giọt rơi đắng cả ngọt lành ngày xưa
Những mong chén rượu, cuộc cờ
Hay đâu bạc tóc đến giờ lạy nhau”
(Viếng bạn ở Nghĩa trang Trường Sơn)
Đan xen với những bài về nghĩa tình thủy chung và nỗi đau đồng đội là những bài khắc họa chân dung cùng nỗi đợi chờ khắc khoải, nỗi đau thương đến nát lòng của những người mẹ, người vợ liệt sĩ:
“… Tóc bao bà mẹ thương con
Hai mươi năm lẻ héo mòn, bạc phơ
Xé trời đá cũng xác xơ
Pháo bom giội đến bây giờ còn rung…”
(Chiều trên bến nhớ)
Nhà thơ đã không cầm được nước mắt khi về thăm một người mẹ đồng đội - một người mẹ liệt sĩ. Có thể nói, những giọt nước mắt mặn chát của anh chứa hai nỗi đau: Nỗi đau của mình và nỗi đau của mẹ:
“… Tôi bước đến trong cái nhìn của mẹ
Lệ tuôn trào không nói được thành câu
Trong xúc động tôi thầm nghe mẹ trách:
- Sao mày về không gọi nó giùm tao…!”
(Thăm mẹ bạn)
Với những người mẹ liệt sĩ, ngọn lửa chiến tranh không hề tắt, vẫn âm ỉ cháy trong lòng. Và, mẹ vẫn chờ vẫn đợi anh về. Sự chờ đợi mỏi mòn, đau đáu đã bật lên thành tiếng nấc nghẹn ngào:
“… Thân tằm rút ruột nhả tơ
Tóp teo chờ đến bao giờ con ơi…”
(Lời người mẹ liệt sĩ)
Với người vợ liệt sĩ cũng vậy, nỗi đau quặn thắt của họ cũng chính là nỗi đau quặn thắt của những người mẹ, của tất cả chúng ta:
“… Nghĩa trang trắng một màu đồng đội
Chị đi thắp hương cho chồng tháng Bảy
Gặp anh thương binh bên nấm mộ vợ mình
Hai con người - Bốn mất mát hy sinh
Nỗi đau dồn về nơi trái tim còn đập…”
(Gặp ở nghĩa trang)
“… Em quỳ xuống thắp cho anh nén hương
Hương thơm bật lên tiếng nấc
Khói chạm vào chân sương
phảng phất
Em nhìn vào hư không
trống vắng đầy lòng…”
(Trong khói hương)
“… Tô Thị ba năm chờ chồng hóa đá
Thì ra đá vẫn yếu mềm
Em chờ anh hai mươi năm
Xác lá, xơ cành
Tóc xanh ngả màu sương gió…”
(Chung thủy)
Tập thơ “Xin đừng của riêng ai” còn có nhiều bài viết về những người thương binh trong cuộc sống thời bình. Họ đi ra từ đạn bom và để lại một phần xương máu của mình nơi chiến trường khói lửa. Những tưởng hạnh phúc của phần đời còn lại sẽ đắp bù cho những năm tháng chiến tranh. Không! Chiến tranh vẫn hành hạ họ một cách tàn nhẫn, họ vẫn phải đêm ngày thầm lặng hy sinh, hy sinh lớn lao, hy sinh cùng kiệt. Bài thơ “Công lý phải đòi” là một trong những bài gây “chấn động” trong tôi, buộc tôi cứ ám ảnh mãi:
“… Sao anh không mang về cho em
Màu xanh của tình yêu thay vì màu da cam quái gở
Thai nghén cả cuộc đời - mấy lần sinh nở
Mấy lần chồng vợ “tiễn đưa con”
Mất đã là nỗi đau
Con chẳng ra con.
Sống không được làm người còn đau hơn cái chết…”.
(Công lý phải đòi)
Đặt tên cho tập thơ viết về đề tài Thương binh liệt sĩ “Xin đừng của riêng ai”, phải chăng nhà thơ thương binh hạng 2/4 Phạm Minh Tâm muốn nhắn gửi: Sự mất mát hy sinh trong chiến tranh cùng nỗi đau do nó mang lại là nỗi đau chung của tất cả mọi người? Hãy khắc ghi đời đời sự hy sinh to lớn đó để càng thêm trân trọng, nâng niu từng ngày từng giờ đang sống:
“… Khi ta ôm đầy hoa hạnh phúc trên tay
Trong tiếng pháo vu quy, đã hết ngày xa vắng
Xin kính cẩn nghiêng mình thắp lên
Đài chiến thắng
Một nén hương nghĩa nặng sâu tình…”.
(Xin đừng của riêng ai)
Vâng! Nén hương thể hiện truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây” - một nét đạo lý tốt đẹp ngàn đời của dân tộc Việt Nam.
2009
2. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 2007