Nhận diện
Bản thảo của một tác giả hay của nhiều tác giả khi gửi đến nhà xuất bản thường được chia làm ba loại:
- Bản thảo có nội dung và hình thức thể hiện tốt, không chỉ đảm bảo các tiêu chí cơ bản mà còn sáng tạo, độc đáo, tạo sự hấp dẫn cao đối với người đọc. Với loại bản thảo này, cán bộ biên tập hầu như không phải chỉnh sửa gì hoặc chỉnh sửa rất ít nhưng bản thảo vẫn có thể xuất bản ra mắt bạn đọc.
- Bản thảo có nội dung và hình thức thể hiện cơ bản đáp ứng được các tiêu chí của nhà xuất bản nhưng phải biên tập, chỉnh sửa ở các mức độ khác nhau - lớn, vừa nhỏ - mới có thể xuất bản được. Đây là loại bản thảo phổ biến, thường gặp nhất đối với các cán bộ biên tập.
- Bản thảo không thể xuất bản được: Nội dung trái với đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; trái với đạo đức, thuần phong mĩ tục của dân tộc; xuyên tạc lịch sử; vi phạm chính sách đoàn kết dân tộc, tôn giáo; lộ bí mật quốc gia; … hoặc nội dung nghèo nàn, chủ đề tư tưởng không rõ ràng hoặc hình thức thể hiện quá yếu, ngôn ngữ diễn đạt pha tạp, thiếu chuẩn mực, thô, vụng, tối nghĩa…
Quan niệm về một bản thảo khó rất tương đối. Với các bộ, loại sách khác nhau (sách quân sự, sách chính trị, sách lịch sử, sách giáo khoa giáo trình, sách văn học…) thì cái khó của từng bản thảo cũng rất khác nhau. Ngay bản thân sách văn học, cái khó của tiểu thuyết cũng không giống cái khó của truyện ngắn, truyện ký. Cái khó của văn xuôi cũng rất khác cái khó của thơ, trường ca. Độ khó của bản thảo còn phụ thuộc rất lớn vào trình độ, vốn sống, kinh nghiệm từng trải của từng cán bộ biên tập. Cùng một bản thảo, với cán bộ biên tập này là khó nhưng với cán bộ biên tập khác lại là bình thường. Độ khó của bản thảo cũng còn phụ thuộc vào thời điểm lịch sử. Cùng một bản thảo, ở thời điểm này bị quan niệm là khó, thậm chí không xuất bản được nhưng ở thời điểm sau lại được quan niệm là bình thường, được xuất bản bình thường…(Trên thế giới, nhiều nước quy định giải mã những tài liệu mật, những sự kiện mật sau 30, 40 năm. Như vậy những tác phẩm có nội dung liên quan đến những tài liệu mật, những sự kiện mật sau thời gian giải mã trở thành những tác phẩm bình thường…).
Tuy nhiên, tựu trung lại một bản thảo được coi là khó trong quá trình biên tập thường là bản thảo phải sửa chữa vừa hoặc sửa chữa lớn, phải thực hiện một, hai hoặc nhiều nội dung có tính phổ biến dưới đây:
- Phải thay đổi cấu trúc bố cục tác phẩm.
- Phải cắt bỏ hoặc vừa cắt bỏ vừa bổ sung thêm nhiều nội dung, để làm rõ chủ đề tư tưởng, bảo đảm tính lôgic của tác phẩm.
- Phải chỉnh sửa ngôn ngữ diễn đạt nhiều trang, nhiều phần từ đầu đến cuối tác phẩm để làm sáng rõ nội dung cần diễn đạt, tránh sự hiểu nhầm hoặc khó hiểu cho người đọc đồng thời bảo đảm sự trong sáng, chuẩn mực của tiếng Việt.
- Phải đọc thêm nhiều tác phẩm, phải tra cứu, tham khảo nhiều tài liệu để chỉnh sửa những sự kiện, tình tiết, số liệu… thiếu chuẩn xác, sai lệch với thực tế lịch sử, đặc điểm dân tộc, tôn giáo, vùng miền... của bản thảo.
- Với bản thảo dịch phải liên tục sửa chữa sự chuyển ngữ thiếu đồng nhất của bản thảo (lúc để nguyên dạng lúc phiên âm, lúc vừa để nguyên dạng vừa phiên âm). Thậm chí phải tra khảo thêm các loại từ điển và tham khảo ý kiến thẩm định của các dịch giả…
Kinh nghiệm
Xét đến cùng, hiệu quả của công tác biên tập là nâng chất lượng bản thảo đến mức cao nhất có thể để phục vụ bạn đọc ở mức tốt nhất. Một trong những yếu tố rất quan trọng để thực hiện mục đích ấy là việc trao đổi, tạo sự đồng thuận với tác giả. Việc trao đổi với tác giả có thể thực hiện dưới nhiều hình thức: Trao đổi trực tiếp, trao đổi qua thư, trao đổi qua điện thoại...Dù trao đổi dưới hình thức nào, với mọi loại bản thảo, muốn đạt được kết quả tốt, cán bộ biên tập cần thực hiện những nội dung sau:
- Nội dung đầu tiên có tính nguyên tắc là: Cán bộ biên tập phải luôn thể hiện mình là đại diện của cơ quan xuất bản, thực hiện nhiệm vụ của cơ quan đó giao cho. Khách quan, công tâm, công bằng với mọi tác giả, bản thảo. Tuyệt đối không được chủ ý hoặc vô ý tỏ ra rằng việc để lại bản thảo hoặc biên tập xuất bản, sửa chữa nhiều hay ít là do cá nhân mình quyết định.
- Phải đọc kỹ bản thảo. Tổng hợp đầy đủ những ưu điểm cũng như những hạn chế về nội dung và nghệ thuật diễn đạt của bản thảo. Cố gắng phát hiện những nét mới lạ, độc đáo trong sự sáng tạo của tác giả (Những trang, dòng, chương, mục… cần đánh dấu nên sử dụng bút chì. Không nên biên tập ngay bằng bút mực trước khi trao đổi với tác giả).
- Cố gắng tìm hiểu nắm vững một số nét cơ bản về thân thế sự nghiệp, đặc điểm văn hóa vùng miền, tính cách… của tác giả. Khi hiểu biết về tác giả càng sâu thì càng có điều kiện thuận lợi để linh hoạt lựa chọn các phương pháp trao đổi hợp lý, tối ưu.
- Có thể tham khảo ý kiến đồng nghiệp, ý kiến cấp trên về chất lượng bản thảo, về phương pháp trao đổi trước khi làm việc với tác giả. Với những tác giả mới, cán bộ biên tập có thể tham khảo thêm hình thức, phương pháp trao đổi với những người quen biết hoặc đã cùng cộng tác với tác giả.
- Chuẩn bị tâm thế trước khi trao đổi với tác giả:
+ Tự tin nhưng khiêm tốn, cầu thị; luôn lấy mục đích nâng cao chất lượng bản thảo để phục vụ bạn đọc tốt nhất là thước đo hiệu quả của việc trao đổi; chuẩn bị giấy bút để ghi chép những ý kiến phản hồi của tác giả.
+ Có thể mở đầu cuộc trao đổi bằng những lời thăm hỏi chân tình, bằng những câu chuyện về quê hương, ngành nghề, bạn bè, người thân… của tác giả để tạo sự gần gũi cảm thông.
- Nêu khái quát nhận định nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, tiếp đó là nhấn mạnh những ưu điểm nổi bật, những nét mới lạ, riêng có của tác phẩm. Với những hạn chế của tác phẩm, không nên nêu theo kiểu dồn dập, liệt kê, không sa đà phân tích… mà nêu ngắn gọn từng nội dung một rồi chủ động đón chờ sự phản hồi của tác giả.
- Khi chưa có sự không thống nhất, thậm chí trái ngược ý kiến với tác giả, cán bộ biên tập cần bình tĩnh lắng nghe, ghi chép đầy đủ ý kiến của tác giả. Không nên vội vã phản ứng, nhất nhất bảo lưu ý kiến của mình. Nếu ý kiến của tác giả là đúng, nên có thái độ cầu thị tiếp thu. Ngược lại, ý kiến đó không chuẩn xác thì nên tìm cách thuyết phục từng bước.
- Thời gian, địa điểm trao đổi với tác giả không nhất thiết trong giờ hành chính, tại cơ quan xuất bản, nên linh hoạt vận dụng, tạo sự thân mật thoải mái góp phần cho cuộc trao đổi đạt kết quả tốt nhất. Có thể trao đổi vào giờ nghỉ, ngày nghỉ, tại cơ quan hay nhà riêng của tác giả hoặc thời gian, địa điểm nào đó mà tác giả và cán bộ biên tập thống nhất lựa chọn. Nếu trao đổi qua điện thoại không nên trao đổi vào thời điểm quá khuya, vào giờ nghỉ trưa, giờ bữa trưa, bữa tối của tác giả. Tuyệt đối không nháy máy để tác giả phải chủ động liên lạc trao đổi với cán bộ biên tập.
- Sau khi đã thống nhất những nội dung cần chỉnh sửa nâng cao, việc chỉnh sửa nâng cao có thể tiến hành dưới nhiều hình thức: Thuyết phục tác giả tự chỉnh sửa nâng cao sau đó cán bộ biên tập xem lại; cán bộ biên tập chỉnh sửa nâng cao rồi trao đổi lại với tác giả; cán bộ biên tập và tác giả cùng chỉnh sửa nâng cao theo từng nội dung thỏa thuận… dù dưới hình thức nào, cán bộ biên tập vẫn phải đọc thẩm định và chỉnh sửa bổ sung lần cuối cùng trước khi bản thảo được nộp duyệt.
Với bản thảo phức tạp, đồng thời với việc thực hiện những nội dung trên, cần lưu ý thực hiện thêm một số nội dung sau:
- Khi trao đổi với tác giả, những nhận xét tổng quát tác phẩm cùng những ưu điểm và những hạn chế phải được thể hiện bằng văn bản đã được chuẩn bị khúc chiết, khoa học, đầy đủ, ngắn gọn, có thể thêm những dẫn chứng điển hình rút ra từ bản thảo. Việc này vừa thể hiện sự trân trọng tác giả vừa không để trùng lặp, sót lọt những nội dung cần trao đổi (với những tác giả ở xa, sau khi nêu nhận xét khái quát, gửi văn bản nhận xét này qua email, fax, đường bưu điện... cho tác giả).
- Trong một số trường hợp đặc biệt có thể báo cáo cấp trên và mời cấp trên cùng dự cuộc trao đổi với tác giả và đưa ra ý kiến tác động thêm. Cũng có thể đề xuất để cấp trên trao đổi riêng với tác giả.
- Với những bản thảo phải tra cứu nhiều tài liệu, tác phẩm để chỉnh sửa các sự kiện, số liệu, chi tiết…khi trao đổi với tác giả cần đưa ra một số tài liệu, tác phẩm để chứng minh việc chỉnh sửa là đúng.
- Với những bản thảo có một số nội dung liên quan đến những vấn đề nhạy cảm về lịch sử, chính trị, sắc tộc, tôn giáo, quốc phòng an ninh, quan hệ đối ngoại… cần dựa vào các văn bản: Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các nghị định, thông tư, chỉ thị của những cơ quan chức năng làm căn cứ đề nghị tác giả chỉnh sửa. Không nên thuần túy nêu quan điểm cá nhân mình.
- Nếu bản thảo tương đối đồ sộ được chia thành nhiều tập và phân công nhiều người biên tập, trước khi trao đổi với tác giả các cán bộ biên tập nên hội ý, rút ra những điểm chung (cả ưu điểm, nhược điểm) xuyên suốt bản thảo. Khi trao đổi, một người nêu nhận xét khái quát sau đó từng người nêu nhận xét riêng từng tập. Tránh tình trạng trao đổi đơn phương tách rời, tạo ra sự chênh lệch mâu thuẫn không đáng có.
- Ngoài hợp đồng xuất bản, trong một số trường hợp cụ thể, nhất là những trường hợp bản thảo phải cắt bỏ, bổ sung sửa chữa nhiều, để thêm “thấu tình, đạt lý”, cán bộ biên tập có thể đề nghị tác giả ký văn bản cam đoan nhất trí với những thay đổi chỉnh sửa của bản thảo hoặc ký xác nhận vào bản bông trước khi ra can, thậm chí có thể ký thêm vào các chương mục…
Chuyện nhỏ minh họa
Có một nhà văn khá nổi tiếng đã bỏ ra nhiều năm để hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầy tâm đắc. Thật buồn, suốt gần mười năm trời ông đưa bản thảo cuốn tiểu thuyết này đến một số nhà xuất bản nhưng đều bị họ “ngâm khá lâu” rồi từ chối. Lý do thật đơn giản: Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết gần như nguyên dạng với một nhân vật có thật, đó là một cán bộ có trọng trách mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm. Tiếc thay, ngoài nhân vật chính có tính ám chỉ đó bản thảo cuốn tiểu thuyết phản ánh khá đậm nét cuộc chiến đấu mưu trí, dũng cảm của quân dân ta với rất nhiều gương mặt và chi tiết điển hình. Với tinh thần “gạn đục khơi trong”, quyết đưa những nội dung mang tính giáo dục cao của tác phẩm đến bạn đọc, đồng chí tổng biên tập và tôi sau khi bàn luận kỹ đã thống nhất: Trao đổi với tác giả để chỉnh sửa xuất bản tác phẩm này. Sau khi đọc kỹ bản thảo, dự kiến phương án chỉnh sửa, tôi đã trao đổi với tác giả. Được tác giả đồng ý, tôi tiến hành biên tập từng chi tiết. Với nhân vật chính, từ chỗ gần như nguyên dạng với nhân vật ngoài đời, tôi đã chỉnh sửa để nhân vật ấy trở thành nhân vật văn học điển hình, có tác dụng giáo dục chung với mọi đối tượng bạn đọc, không mang tính ám chỉ nữa. Khi trao đổi với tác giả lúc đầu rất khó khăn vì tác giả rất nuối tiếc những gì đã định hình trong bản thảo. Tôi đã kiên trì vận dụng những kinh nghiệm trên, cuối cùng đã được tác giả nhiệt thành ủng hộ. Khi tác phẩm ra đời, rất nhiều bạn đọc, đặc biệt là đồng nghiệp đã chúc mừng tác giả và nhà xuất bản.
Tương tự, một nhà văn khác đưa tôi bản thảo cuốn truyện ký viết về cuộc đời một cán bộ cách mạng. Bên cạnh nhiều chương mục có nội dung tư tưởng tốt, có giá trị lịch sử được dư luận xã hội và nhiều sách báo công nhận, một số chương mục cuối bản thảo khai thác quá sâu những chuyện “nội tình” chưa được các cơ quan có thẩm quyền kết luận. Thêm nữa, cách diễn đạt, sử dụng ngôn từ để phê phán một số cơ quan có thẩm quyền hơi quá mức, dễ tạo sự hiểu lầm và gây nên những bức xúc không đáng có cho bạn đọc. Khi tôi trao đổi với tác giả cắt bỏ, chỉnh sửa những chương mục này, tác giả không nhất trí, nêu ra rất nhiều lý lẽ để giữ nguyên những chuyên mục đó. Tôi bình tĩnh lắng nghe, cần mẫn ghi chép rồi từ tốn nói với tác giả: “Chúng ta cùng suy nghĩ thêm cho kỹ”. Sau nhiều buổi trao đổi, cũng nhờ những kinh nghiệm trên, phần vì cảm động bởi sự tâm huyết, nhiệt thành của tôi, phần vì những lý lẽ thuyết phục của tôi đã “ngấm dần”, cuối cùng tác giả nhất trí cắt bỏ, chỉnh sửa những chương mục tôi đã nêu. Khi tác phẩm xuất bản, đông đảo bạn đọc, đặc biệt là những cựu chiến binh đã nồng nhiệt đón nhận. Đến tận bây giờ, tác giả vẫn coi việc xuất bản tác phẩm này là một trong những kỷ niệm sâu đậm nhất đối với nhà xuất bản và đời văn của mình.
Một dịp sau tết, đồng chí tổng biên tập giao cho tôi biên tập một bộ tiểu thuyết nhiều tập. Điều nan giải nhất khi biên tập bộ tiểu thuyết này là ngôn ngữ diễn đạt rối rắm vụng về, đại khái đại thể theo kiểu ngôn ngữ nói. Nhiều trang, dòng, nội hàm các khái niệm liên tục trùng lặp, chồng lấn, thậm chí mâu thuẫn, loại trừ nhau. Ví như câu “Quân đội ta và dân công đưa nhiều vũ khí, súng, đạn và nhiều lương thực, thực phẩm gạo, muối, thịt, rau và người phải vượt sông vào chiến trường”. Ví như câu “Quân đội ta” cùng một lúc phải làm nhiều việc, không thể là chủ ngữ của câu văn trên. “Súng, đạn” đã nằm trong nội hàm “vũ khí”, tương tự “gạo, muối, thịt rau” đã nằm trong nội hàm “lương thực thực phẩm” như vậy cách diễn đạt trên vừa tối vừa thừa… Đúng ra, một bản thảo như bộ tiểu thuyết này không đủ tiêu chuẩn xuất bản, nhưng vì muốn lưu giữ nhiều nội dung, sự kiện lịch sử của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nên đồng chí tổng biên tập động viên tôi cố gắng. Không thể kể hết những khó khăn, nan giải phải vượt qua trong suốt quá trình biên tập, trao đổi với tác giả để chỉnh sửa, nâng cao chất lượng bản thảo bộ tiểu thuyết này. Chỉ xin khái quát rằng: Tôi đã vận dụng linh hoạt tất cả những kinh nghiệm nêu trên và đã tạo được sự đồng thuận của tác giả. Bộ tiểu thuyết này là một ví dụ điển hình về sự hy sinh thầm lặng của những người làm công tác biên tập, những “bà đỡ” mát tay, những “cầu nối” thủy chung giữa tác giả và bạn đọc, trong đó có tôi.
Hà Nội, 20-4-2018