Với một nghìn sáu trăm đô la Buck kiếm được cho John Thornton chỉ trong vòng có năm phút đồng hồ, nó đã giúp chủ mình trả được vài món nợ và bắt đầu cuộc hành trình cùng những người bạn của anh tiến vào vùng đất phía đông để săn tìm mỏ vàng trong truyền thuyết, mà lịch sử về nó lâu đời như chính lịch sử của đất nước này vậy. Nhiều người đã cất công tìm kiếm mỏ vàng đó; và chỉ có rất ít người tìm được; còn số người không bao giờ quay trở về từ cuộc săn tìm thì nhiều không đếm xuể. Mỏ vàng trong truyền thuyết này thấm đầy bi kịch và bị che phủ trong một bức màn bí ẩn. Chẳng biết kẻ đầu tiên phát hiện ra nó là ai. Những câu chuyện truyền miệng xa xưa nhất cũng không thể tìm ra manh mối của người đó, bởi vì anh ta xuất hiện từ rất lâu trước cả khi những câu chuyện đó ra đời. Mở đầu câu chuyện là một cái lều nhỏ cổ xưa, cũ nát và xiêu vẹo. Những người sắp chết thề rằng chiếc lều ấy có tồn tại và là nơi đánh dấu cái mỏ khai thác vàng đó, họ chứng minh lời nói của mình bằng những cục vàng không giống với bất kỳ loại vàng nào được biết đến ở vùng đất phương bắc.
Nhưng trong số những người đang sống, chẳng có ai từng mang được kho báu ấy về nhà, những người chết thì đã chết rồi; vì thế John Thornton, Pete và Hans cùng với Buck và sáu con chó khác đã lên đường tiến về vùng đất phía đông ấy, lần theo một vệt đường mòn xa lạ để đạt được thứ mà những người đàn ông và những con chó khôn ngoan, khỏe mạnh như họ đã thất bại. Họ đi bảy mươi dặm tiến về phía thượng nguồn của con sông Yukon, rẽ ngoặt sang bên trái đến sông Stewart, vượt qua Mayo và McQuestion, đi tiếp cho đến khi con sông Stewart chỉ còn là một dòng suối nhỏ, len lỏi qua những đỉnh núi dốc đứng đánh dấu cột xương sống của lục địa.
John Thornton chẳng đòi hỏi quá nhiều ở con người cũng như thiên nhiên. Anh không e ngại thế giới hoang dã. Chỉ cần một nắm muối ăn và một khẩu súng trường, anh có thể lao mình vào giữa nơi hoang vu, đi đến bất kỳ nơi đâu mà anh thích và trong bao lâu cũng được, miễn là anh cảm thấy hài lòng. Không có gì phải vội vàng, cứ theo phong cách của những người da đỏ, trong quãng thời gian di chuyển lúc ban ngày, anh săn thú cho bữa ăn khi đêm xuống; và nếu anh không thể tìm được thứ gì cho bữa tối, thì cũng giống như người da đỏ, anh sẽ đi tiếp, tin chắc rằng sớm hay muộn mình sẽ tìm được. Thế là trong cuộc hành trình đầy tham vọng tiến về vùng đất phía đông, thực đơn là thứ thịt săn được trong lúc di chuyển, phần lớn những đồ chở trên xe trượt tuyết là đạn dược và dụng cụ, đồ dùng, còn thời gian để thực hiện kế hoạch được vạch ra trong một tương lai không hạn định.
Đối với Buck, tất cả những chuyện này thật thích thú vô cùng, đi săn, bắt cá, lang thang vô định qua những vùng đất xa lạ. Có những lúc, suốt nhiều tuần liền, họ di chuyển liên tục từ ngày này qua ngày khác; rồi có những lúc họ hạ trại nhiều tuần liền ở một nơi, những con chó thì lang thang rong chơi chẳng phải làm gì, còn những người đàn ông thì đun nóng mặt băng che phủ lên lớp cát sỏi và đất chứa vàng, tạo thành những cái hố, đãi vô số những chảo đất bẩn bên hơi nóng của ngọn lửa để tìm vàng. Thỉnh thoảng họ bị đói, nhưng có những lúc họ ăn uống thịnh soạn đến no nê, tất cả lệ thuộc vào sự phong phú của các loại thú và sự may rủi khi đi săn. Mùa hè đến, cả chó và người lại đóng gói đồ dùng khoác lên lưng, lái bè vượt qua những hồ nước xanh ngắt trên núi cao, đi xuống hoặc đi lên những dòng sông xa lạ trên những con thuyền hình thoi đục khoét từ những thân cây cao thẳng đứng.
Ngày tháng cứ thế trôi, họ luồn lách, len lỏi qua những vùng đất mênh mông chưa ai đặt chân tới, nơi không có bóng dáng của con người, mà cũng có thể đã có người từng đặt chân đến, nếu căn lều trong truyền thuyết ấy là có thật. Họ vượt qua những đường phân nước giữa trận bão tuyết của mùa hè, họ rùng mình run rẩy dưới ánh mặt trời chiếu sáng lúc nửa đêm trên những ngọn núi trần trụi, ở nơi cao hơn cả đường giới hạn của cây gỗ1, nhưng vẫn chưa đến được những đỉnh núi nơi ngàn năm tuyết phủ. Họ xuống những thung lũng mùa hè giữa nhung nhúc đàn ruồi và muỗi nhỏ, và dưới bóng mát của những ngọn núi băng, họ nếm những quả dâu tây chín mọng, hái những bông hoa đẹp tuyệt vời chẳng thua kém những bông hoa ở vùng đất phương nam. Mùa thu năm ấy, họ tiến vào một miền hồ kỳ lạ, tĩnh lặng và u buồn, ở đó có những loài chim hoang dã, nhưng chẳng thấy có sự sống cũng như bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống, chỉ có những cơn gió lạnh buốt thổi qua, nước đóng thành băng ở những nơi được che chắn, và những gợn sóng lăn tăn sầu thảm trên những bờ bãi hoang vu, hiu quạnh.
1. Đường giới hạn cây gỗ là biên giới địa lý thiên nhiên chia vùng thấp nơi có cây rừng và vùng cao nơi cây cối không thể mọc được.
Rồi lại thêm một mùa đông nữa, họ lang thang theo những vệt đường mòn đã bị xóa sạch của những người đã đi trước. Có một lần, họ bắt gặp một con đường nhỏ xuyên qua một khu rừng, một lối mòn có từ xa xưa, và căn lều trong truyền thuyết dường như đang ở rất gần.
Nhưng con đường khởi đầu chẳng đâu vào đâu ấy lại kết thúc ở nơi cũng chẳng ra đâu vào đâu. Cuối cùng, căn lều ấy vẫn còn là điều bí ẩn, cùng với người đã tạo ra lối đi đó và lý do vì sao họ làm vậy cũng vẫn là điều bí ẩn. Một lần khác, họ bắt gặp đống đổ nát bị thời gian chôn vùi của một túp lều đi săn, và giữa những mảnh vụn của đống chăn mền mục nát, John Thornton tìm thấy một khẩu súng nòng dài được sử dụng cách đây rất lâu rồi. Anh biết đó loại súng do công ty Vịnh Hudson sản xuất vào những ngày đầu ở miền tây bắc, một khẩu súng như vậy khi ở thời kỳ đỉnh cao của nó xứng đáng được cất giữ trong hộp gỗ bọc da hải ly, và tất cả chỉ có thế, chẳng có bất kỳ dấu vết nào về người đầu tiên dựng lên chiếc lều này và bỏ lại khẩu súng giữa đống chăn mền ấy.
Một mùa xuân nữa lại đến, và ở chặng cuối chuyến hành trình lang thang của mình, họ tìm thấy không phải căn lều trong truyền thuyết, mà là bãi cát sỏi nông có vàng trong một thung lũng rộng, nơi thứ kim loại màu vàng ấy hiện rõ chẳng khác nào bơ vàng dưới đáy chảo. Chẳng cần tìm kiếm đâu xa nữa. Mỗi ngày làm việc mang đến cho họ cả nghìn đô la dưới dạng vàng cục và bụi vàng nguyên chất, và ngày nào họ cũng hăng hái làm việc. Vàng được cất trong những túi da nai, mỗi túi nặng hơn hai mươi hai cân, và chất thành đống nhiều như củi bên ngoài một căn lều bằng gỗ vân sam. Họ làm việc cật lực, ngày lại ngày nối nhau trôi qua, nhanh chẳng khác nào tia chớp xẹt ngang trên bầu trời, họ như đang sống trong mơ khi những túi vàng cứ chất cao lên mãi.
Chẳng có việc gì cho lũ chó làm, ngoại trừ những lúc thỉnh thoảng phải kéo những con thú mà Thornton săn được về trại, và Buck có nhiều buổi dành hàng giờ đồng hồ mơ màng bên ngọn lửa. Hình ảnh con người lông lá chân ngắn quay trở lại với nó thường xuyên hơn, khi mà giờ đây chẳng có nhiều việc để làm; và khi ánh mắt mơ màng lim dim bên ngọn lửa như vậy, Buck thường hay lang thang với người đó trong một thế giới khác mà nó vẫn chưa quên.
Điều dễ nhận thấy nhất ở thế giới ấy là nỗi sợ hãi. Khi nó quan sát con người lông lá đó ngủ bên ngọn lửa, đầu đặt giữa hai đầu gối và tay ôm chặt phía trên, Buck thấy người đó ngủ trong trạng thái bồn chồn, không yên, nhiều lần giật mình tỉnh giấc. Và những lúc như thế, người đó lại nhìn chăm chú một cách sợ hãi vào đêm tối, ném thêm củi vào ngọn lửa. Khi họ bước đi trên bờ biển, người lông lá sẽ nhặt nhạnh các loại tôm, cua, cá và ăn ngay khi vừa nhặt được, đôi mắt vẫn không ngừng đảo quanh, tìm kiếm mối nguy hiểm luôn rình rập, và đôi chân sẵn sàng chạy nhanh như gió nếu phát hiện ra dấu hiệu nguy hiểm đầu tiên. Khi họ lén lút đi qua khu rừng không gây ra tiếng động nào, Buck bám sát gót người lông lá đó; cả hai đều cảnh giác và thận trọng, tai vểnh lên nghe ngóng, lỗ mũi rung lên để đánh hơi, vì người đó có thể nghe và đánh hơi sắc sảo chẳng kém gì Buck. Người đó có thể nhảy vọt lên cây cao, di chuyển nhanh chẳng khác nào lúc đi trên mặt đất, cánh tay dài giúp người đó đu và chuyền từ cành cây này sang cành cây khác, thỉnh thoảng những cành cây cách xa nhau đến gần bốn mét, người đó cứ đu, chuyền rồi bám vào cành cây như vậy, chẳng bao giờ ngã, chẳng bao giờ bám trượt. Thực ra, người đó quen thuộc với cuộc sống trên cây chẳng khác nào dưới mặt đất; và Buck vẫn có những ký ức về nhiều đêm thức trắng dưới những thân cây ấy, phía trên là con người lông lá kia đang nằm ngủ, còn nó thì tiếp tục canh gác thật cẩn thận.
Và một thứ rất gần gũi với hình ảnh về người lông lá, đó là tiếng gọi vọng ra từ sâu thẳm trong khu rừng. Tiếng gọi lấp đầy trong Buck những khao khát lạ kì, khiến nó bồn chồn không yên. Tiếng gọi mang đến cho nó cảm giác hân hoan ngọt ngào và mơ hồ, và nó nhận biết được những khuấy động cùng những khao khát ban sơ mà chính nó cũng không rõ là gì. Thỉnh thoảng, nó đuổi theo tiếng gọi đó vào sâu trong rừng, tìm kiếm như thể đấy là một thứ hữu hình, sủa lên khe khẽ hoặc đầy thách thức, tùy thuộc vào tâm trạng của nó khi đó. Nó sẽ thúc mũi mình vào lớp rêu lạnh ẩm, hoặc lớp đất đen nơi những cây cỏ mọc dài, hân hoan hít ngửi mùi đất mềm màu mỡ; hoặc sẽ ẩn nấp nhiều giờ liền, phía sau những thân cây đổ phủ đầy rêu nấm, đôi mắt mở to, tai căng ra để đón nhận tất cả những âm thanh và chuyển động xung quanh. Cũng có thể trong những lúc nằm im như vậy, nó hy vọng có thể bất thình lình lao ra vồ lấy tiếng gọi mà nó cũng không thể hiểu nổi ấy. Nhưng chính nó cũng không biết tại sao bản thân lại hành động như thế.
Nó chỉ cảm thấy một sự thôi thúc buộc phải làm điều đó và chẳng hề suy nghĩ, lý luận về tất cả những chuyện ấy chút nào.
Sự thôi thúc không cưỡng lại được đó chi phối Buck. Nó có thể nằm trong trại, ngủ lơ mơ, uể oải lười biếng trong cái nóng nực của ban ngày, nhưng rồi nó có thể bất chợt ngẩng cao đầu và vểnh tai lên, lắng nghe với vẻ tập trung và chăm chú, và nó đứng bật dậy, lao đi như bay suốt nhiều giờ liền, qua những lối đi lắt léo trong rừng, băng qua những bãi hoang rộng lớn vô số bụi cỏ. Nó rất thích chạy xuống những lòng suối cạn, rón rén theo dõi và quan sát cuộc sống của những loài chim trong rừng. Một lần, nó nằm trọn cả ngày trong một bụi cây thấp, ở đó nó có thể quan sát những con gà gô khệnh khạng qua lại hoặc đập cánh vù vù bay lên bay xuống ngay trước mắt. Nhưng điều mà nó thích nhất là chạy dưới ánh hoàng hôn mờ ảo của những đêm hè, lắng nghe tiếng rì rào dịu êm của khu rừng say ngủ, đọc những dấu hiệu và những âm thanh chẳng khác nào con người đọc một quyển sách, tìm kiếm tiếng gọi bí ẩn lúc nào cũng vang lên mời gọi cả khi ngủ cũng như khi thức.
Một đêm nọ nó giật mình thức dậy, đôi mắt háo hức, lỗ mũi rung lên đánh hơi, lông bờm dựng thành những nhịp sóng. Từ trong khu rừng, tiếng gọi vọng đến (hoặc là một âm điệu của nó, vì tiếng gọi ấy có rất nhiều âm điệu), chưa bao giờ rõ ràng và dễ nhận thấy đến thế, đó là tiếng hú kéo dài, giống, mà cũng không giống, bất kỳ tiếng kêu nào của chó kéo xe. Nó biết tiếng gọi đó, rất quen thuộc và xưa cũ, giống thứ âm thanh đã từng nghe trước đây. Nó phóng vọt qua khu trại đang say ngủ, im lặng lao mình qua rừng cây. Khi đến gần chỗ tiếng kêu ấy phát ra, nó di chuyển chậm lại, thận trọng trong từng chuyển động, cho đến khi tới một khoảng rừng thưa, nhìn ra, nó thấy một con sói lông xám, dáng gầy gò, dài ngoẵng đang ngồi, mũi nghếch lên bầu trời.
Buck không gây ra bất kỳ tiếng động nào, nhưng con vật ấy cũng không hú nữa và đang cố nhận biết sự hiện diện của nó. Buck tiến vào khoảng rừng thưa, dáng vẻ gần như lẩn lút, cả cơ thể căng lên, đuôi thẳng đờ, bàn chân đặt xuống với sự thận trọng chưa từng có. Mọi chuyển động đều cho thấy cả sự hăm dọa lẫn thái độ muốn kết thân. Đó là hành động tạm ngưng gây chiến đánh dấu sự gặp gỡ giữa những con dã thú trên đường đi săn mồi. Nhưng con sói bỏ chạy khi nhìn thấy nó. Buck đuổi theo, với những bước nhảy mạnh mẽ, trong cơn điên cuồng muốn bắt kịp. Nó đuổi theo con sói đến một lòng suối bị che khuất, dưới đáy con suối có một thân cây chắn ngang đường. Con sói quay ngoắt lại, trụ ở hai chân sau giống kiểu của Joe và những con chó kéo xe bị dồn vào góc, gầm gừ và dựng lông lên, hai hàm răng liên tục đập vào nhau với những cú cắn, táp nhanh và liên tục.
Buck không tấn công, nhưng đi vòng quanh nó, bao vây và tiến đến với thái độ thân thiện. Con sói nghi ngờ và e ngại; bởi lẽ Buck nặng gấp ba lần nó, còn đầu của nó chỉ đến cao đến vai Buck. Nó bắt lấy cơ hội và phóng vút đi, cuộc rượt đuổi lại bắt đầu. Hết lần này đến lần khác nó bị dồn vào góc, và điều tương tự lặp lại, mặc dù con sói đang trong tình trạng đói ăn, nhưng Buck không thể dễ dàng quật ngã nó. Nó vẫn sẽ chạy thậm chí cả khi cái đầu của Buck chạm vào sườn nó, khi quay ngoắt lại để giữ một khoảng cách an toàn, và rồi sẽ phóng vọt đi lần nữa ngay khi có cơ hội đầu tiên.
Nhưng cuối cùng sự ngoan cố của Buck đã được đền đáp; vì con sói nhận thấy Buck không có ý định làm hại nó, nên cuối cùng nó tiến đến hít ngửi mũi của Buck. Và thế là chúng trở thành bạn bè, vui đùa với nhau theo kiểu bồn chồn, không yên, có phần rụt rè, e ngại, giống như cách mà những con thú dữ che giấu sự dữ tợn của mình. Một lúc sau, con sói nhảy một bước nhẹ nhàng, tỏ rõ là nó đang định đi đến một nơi nào đó. Nó thể hiện cho Buck thấy rõ là nó cần phải đi, và chúng chạy bên nhau trong ánh chạng vạng lúc mờ sáng, phi thẳng đến chỗ lòng suối nhỏ, tiến vào hẻm núi nơi dòng suối chảy ra, vượt qua đường phân nước hoang vắng, ảm đạm.
Ở chỗ dốc đối diện của đường phân nước, chúng đi xuống một vùng bằng phẳng nơi những cánh rừng lớn trải rộng bao la với vô số dòng sông nhỏ, và chúng chạy bên nhau qua những dải rừng đó, suốt nhiều giờ liền, mặt trời đang lên cao dần và sự ấm áp của ban ngày càng lúc càng rõ nét hơn. Buck sung sướng phát điên. Nó hiểu rằng cuối cùng nó đã đáp lại tiếng gọi, chạy bên cạnh người anh em hoang dã, đi về phía nơi tiếng gọi phát ra. Những ký ức cũ dồn dập ập đến với nó, khuấy động nó, khiến nó náo nức, giống như trước đây nó từng xúc động trước thực tế rằng chúng chỉ là những cái bóng. Nó đã từng làm điều này trước đây, ở một nơi nào đó trong một thế giới khác mà nó vẫn nhớ mang máng, và bây giờ nó đang làm điều đó một lần nữa, tự do chạy giữa khoảng không rộng lớn, mặt đất hoang sơ trải dài dưới chân, trên đầu là bầu trời rộng mở.
Chúng dừng lại bên một dòng suối để uống nước, và khi dừng lại như vậy, Buck nhớ đến John Thornton. Nó ngồi xuống. Con sói lại bắt đầu phóng đi, tiến về phía nơi tiếng gọi phát ra, rồi nó quay lại, hít ngửi mũi Buck và làm những hành động như thể khuyến khích, mời gọi. Nhưng Buck quay đi và chậm rãi phi trở lại con đường cũ vừa đi qua. Suốt gần một giờ đồng hồ, người anh em hoang dã chạy bên cạnh khẽ rên lên van vỉ. Rồi nó ngồi xuống, nghếch mũi lên và hú. Đó là tiếng hú buồn thảm, sầu muộn; trong lúc ấy, Buck vẫn tiếp tục phóng đi, nó nghe thấy tiếng hú ấy nhạt dần, cho đến khi tắt hẳn ở một nơi xa lắc.
John Thornton đang ngồi ăn khi Buck phóng vọt vào khu trại và lao vào anh trong cơn mê cuồng trìu mến, xô anh ngã nhào, nằm bò lên người anh, liếm mặt anh và ngoạm tay anh - “chơi cái trò của ông tướng ngốc nghếch”, như John Thornton vẫn thường hay gọi như thế, trong lúc đó, anh lắc lư nó tới lui, miệng thốt ra những lời rủa âu yếm.
Suốt hai ngày hai đêm, Buck không rời khu trại nửa bước, không bao giờ để John Thornton khuất khỏi tầm nhìn của mình. Nó đi theo anh khi anh làm việc, quan sát khi anh ăn, nhìn anh chui vào chăn ngủ khi đêm về và bước ra vào buổi sáng. Nhưng sau hai ngày, tiếng gọi từ trong rừng lại vang lên thúc giục hơn bao giờ hết. Sự bồn chồn, lo lắng quay trở lại với Buck, nó thường hay nghĩ về người anh em hoang dã, về vùng đất tuyệt vời phía bên kia đường phân nước, khi nó và người anh em chạy bên nhau qua những dải rừng trải rộng bao la. Một lần nữa, nó lại lang thang vào khu rừng, nhưng người anh em hoang dã không đến nữa; và dù nhiều đêm dài thức canh chờ đợi, nó vẫn chẳng thấy tiếng hú sầu thảm ấy cất lên.
Nó bắt đầu ngủ đêm ở ngoài khu trại, có lúc đi khỏi trại suốt nhiều ngày liền; và một lần nó vượt qua đường phân nước ở phía đầu của con suối nhỏ, đi xuống vùng đất đầy những sông suối và cây gỗ lớn. Nó lang thang ở đó suốt một tuần, tìm kiếm trong vô vọng dấu vết mới nhất của người anh em hoang dã, nó vừa đi vừa tìm mồi và di chuyển với bước nhảy dài, nhẹ nhàng dường như chẳng bao giờ biết mệt mỏi. Nó săn bắt cá hồi trong một dòng sông nhỏ đổ vào biển ở một nơi nào đó, và cũng chính tại dòng sông này, nó đã giết chết một con gấu đen lớn, mắt đang bị bu kín bởi một đàn muỗi trong lúc bắt cá, điên cuồng và tuyệt vọng lao vào rừng. Ngay cả như thế đi nữa thì đó cũng là một cuộc chiến không hề dễ dàng, cuộc chiến ấy đã khuấy động lên trong Buck những dấu vết tiềm ẩn cuối cùng của sự hung tợn. Và hai ngày sau, khi nó quay trở lại nơi đã tàn sát con vật, nó thấy mười hai con chồn sói đang cãi cọ om xòm quanh chiến lợi phẩm của nó. Nó đuổi chúng chạy tan tác, và hai con chồn sói không kịp chạy trốn, bị bỏ lại phía sau thì chẳng bao giờ có thể cãi cọ được nữa.
Sự thèm khát máu tươi càng lúc càng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Buck trở thành kẻ tàn sát, là thứ đi săn mồi, sống bằng cách ăn thịt những con vật sống; đơn độc, tự lực, dựa vào sức mạnh và sự can đảm của chính mình, sống sót và giành chiến thắng trong một môi trường thù địch, nơi chỉ những kẻ mạnh mới có thể tồn tại. Chính vì lý do này, nó trở nên tự hào và kiêu hãnh về bản thân, điều đó truyền đi khắp thân thể của nó như một thứ bệnh lây lan, thể hiện ra trong mọi chuyển động của nó, bộc lộ rõ ràng trong từng vận động của các thớ cơ, phơi bày một cách thẳng thắn trong cách mà nó chăm chút cho chính mình, khiến bộ lông tuyệt đẹp càng trở nên lộng lẫy hơn. Nếu không có những đốm màu nâu rải rác trên mõm và phía trên mắt, cùng vệt lông trắng chạy xuôi xuống chính giữa ngực, rất có thể nó sẽ bị nhầm là một con sói khổng lồ, to lớn hơn cả con to lớn nhất trong họ nhà sói. Buck kế thừa kích cỡ và cân nặng từ cha mình, một con chó St. Bernard, nhưng mẹ của nó là một con chó chăn cừu đã tạo nên hình hài cho kích cỡ và cân nặng đó. Mõm của Buck là cái mõm dài của loài sói, chỉ có điều cái mõm ấy lớn hơn rất nhiều cái mõm của bất kỳ con sói nào; và cái đầu của nó, lớn hơn một chút, đó là cái đầu sói với kích cỡ khổng lồ.
Nó có sự khôn ngoan, xảo quyệt của loài sói hoang dã; trí thông minh là của loài chó chăn cừu và loài St. Bernard; với tất cả những đặc điểm đó, cộng với kinh nghiệm có được trong môi trường sống tàn bạo và khắc nghiệt, Buck trở thành một sinh vật khủng khiếp, đáng sợ hơn bất kỳ sinh vật nào từng lang thang giữa thiên nhiên hoang dã. Một con thú ăn thịt sống bằng thứ thịt săn được ngay tại trận, nó như bông hoa đang trong thời kỳ rực rỡ nhất, đang ở giai đoạn đỉnh cao trong cuộc đời, tràn trề sinh lực, sự rắn rỏi và kiên cường. Khi Thornton đưa tay vuốt ve dọc xuống lưng nó, những tiếng lách tách vang lên ở những chỗ anh vuốt qua, từng sợi lông như có điện tích đang phóng ra luồng điện bị kìm nén sau mỗi động chạm. Từng phần của bộ não và cơ thể, những dây thần kinh, những thớ thịt, đều được tạo ra để có được sự nhạy bén cao nhất; và giữa mỗi phần của cơ thể đều có một sự cân bằng đến hoàn hảo. Trước những cảnh tượng, những âm thanh và những sự kiện đòi hỏi phải hành động, nó sẽ phản ứng với tốc độ nhanh như chớp giật. Mau lẹ như một con chó kéo xe, nhanh chóng chuyển từ trạng thái phòng thủ sang tấn công, nó có thể làm được điều đó với tốc độ nhanh gấp đôi. Nó nhìn thấy chuyển động, nghe thấy âm thanh, và phản ứng trong khoảng thời gian ngắn hơn khoảng thời gian mà bất kỳ con chó nào khác cần đến để kịp nhìn thấy hoặc nghe thấy. Nó nhận biết, đưa ra quyết định và phản ứng cùng một lúc. Thực ra, cả ba hành động đó diễn ra nối tiếp nhau; nhưng khoảng cách thời gian giữa chúng ngắn đến nỗi tưởng chừng như diễn ra đồng thời. Cơ bắp của nó chứa đầy sinh lực dẻo dai, luôn sẵn sàng cho sự vận động nhanh nhạy nhất, bền bỉ và mạnh mẽ như một chiếc lò xo thép bật lên. Sức sống chảy tràn trong nó như thác lũ cuộn trào, hân hoan và cuồng nhiệt, đến mức dường như có thể khiến nó vỡ tung thành vô vàn mảnh nhỏ trong trạng thái ngây ngất cuồng say hoàn toàn và tuôn ra khắp muôn nơi.
“Chưa từng có con chó nào như vậy.” Có lần John Thornton đã nói, khi những người bạn của anh quan sát Buck dạo bước ra khỏi khu trại.
“Có lẽ cái khuôn của Tạo hóa khi đúc ra nó đã bị vỡ không chừng.” Pete nói.
“Ôi chao! Tôi cũng nghĩ như vậy đấy.” Hans khẳng định thêm.
Họ quan sát nó dạo bước ra khỏi khu trại, nhưng không nhìn thấy sự thay đổi ghê gớm và tức thì ngay khi nó vừa khuất dạng trong sự che chắn kín đáo của khu rừng. Buck không còn dạo bước nữa. Ngay lập tức, nó trở thành một sinh vật của thế giới hoang dã, len lén nhẹ nhàng với bước đi của loài mèo, một cái bóng lướt qua thoắt ẩn thoắt hiện giữa vô vàn những cái bóng khác. Nó biết cách tận dụng mọi lùm cây và bụi rậm, áp bụng xuống mặt đất mà trườn đi như rắn, và nó cũng có thể nhảy bật lên và tấn công chẳng khác nào loài rắn. Nó có thể tóm được con gà gô vẫn đang ở trong ổ, giết chết một con thỏ khi con vật ấy còn đang say ngủ, và phóng vọt lên cao để ngoạm chặt một con sóc chuột nhỏ bé đã để lỡ mất một giây khi chạy trốn lên cây. Cá trong các ao nước là những con mồi dễ dàng với nó; cả những con hải ly, bận bịu sửa chữa những cái đập của chúng một cách quá cẩn trọng cũng vậy. Nó giết để ăn thịt, không phải để vui đùa; nhưng nó thích ăn những thứ mà nó tự mình săn được hơn. Có một sự thích thú ngấm ngầm trong những hành động của nó, nó rất khoái chí khi lén lút theo dõi những con sóc, và khi tóm được chúng, nó thả chúng đi, còn chúng thì vội vã chạy tót lên cây cao, miệng líu ríu những tiếng kêu khiếp sợ và kinh hoàng.
Khi mùa thu năm ấy đến gần, nai sừng tấm xuất hiện nhiều vô số, chúng di chuyển chậm rãi xuống vùng thung lũng thấp hơn và ít khắc nghiệt hơn để tránh mùa đông lạnh giá. Buck đã đánh gục một con nai con đi lạc; nhưng nó muốn một con mồi to lớn hơn, khỏe hơn và đáng sợ hơn, và rồi một ngày nó đã gặp được con mồi như thế chỗ đường phân nước ở đầu con suối nhỏ. Một đàn hai mươi con nai sừng tấm đi ngang qua từ vùng đất của những dòng suối và rừng cây gỗ, dẫn đầu đàn là một con nai đực to lớn. Con nai có vẻ đang điên cuồng giận dữ, chiều cao khi đứng của nó lên đến hơn hai mét, quả là một đối thủ đáng gờm ngay cả với Buck. Con nai đực hất tới hất lui hai cái gạc to hình dáng như đôi chân vịt, có đến mười bốn nhánh nhỏ khác nhau và khoảng cách giữa hai đầu mút xa nhất của đôi gạc dài đến hai mét. Đôi mắt nhỏ của nó rực lên vẻ tàn bạo và quyết liệt khi rống lên giận dữ lúc vừa nhìn thấy Buck.
Ở bên sườn của con nai, phía trên hông một chút, thò ra phần đuôi của một mũi tên đính lông chim, điều đó giải thích cho vẻ ngoài điên dại của nó. Được dẫn dắt bởi thứ bản năng có từ những ngày đi săn xa xưa trong thế giới nguyên thủy, Buck tiến đến với mục đích tách con nai ra khỏi đàn. Đó không hề là một nhiệm vụ dễ dàng. Nó sẽ phải sủa và nhảy nhót trước mặt con nai, cố giữ khoảng cách an toàn ngoài tầm với của hai chiếc gạc lớn và những móng guốc nặng nề khủng khiếp có thể giết chết nó chỉ bằng một đòn giậm mạnh. Không thể cắt đuôi được con vật có răng nanh nguy hiểm để tiếp tục lên đường, con nai đực bị cơn giận dữ kích động đến cực điểm. Những lúc nổi điên, nó lao vào tấn công Buck, còn Buck thì rút lui một cách khôn ngoan và quỷ quyệt, dụ con nai bằng mánh khóe vờ như không thể nào chạy thoát nổi. Nhưng mỗi khi con nai bị tách ra khỏi đàn thì lại có hai hoặc ba con nai đực trẻ tuổi hơn lao vào tấn công Buck để con nai kia có thể nhập đàn trở lại.
Sự nhẫn nại trong thế giới hoang dã - gan góc, lì lợm, kiên trì, bền bỉ như chính sự sống - là thứ khiến một con vật đứng yên bất động hàng giờ liền không mệt mỏi, như con nhện nằm chờ trên tấm mạng của nó, như con rắn trong tư thế cuộn tròn, như con báo im lìm tại vị trí đang mai phục; sự kiên trì nhẫn nại này đặc biệt khác thường ở những con vật khi chúng săn mồi; và Buck cũng có sự nhẫn nại đó khi nó tấn công vào bên sườn của cả đàn, tìm cách cản trở đàn nai di chuyển, chọc tức những con nai đực trẻ tuổi, khiến những con nai cái đang chăm sóc con non luôn bồn chồn lo lắng không yên, kích động cơn giận dữ không gì cứu vãn nổi của con nai đực bị thương. Việc đó kéo dài suốt nửa ngày. Buck tấn công từ mọi phía, bao vây đàn nai trong cơn lốc xoáy hăm dọa, tách nạn nhân của nó ra nhanh đến nỗi con nai không kịp nhập trở lại vào đàn, khiến con vật bị săn đuổi mệt mỏi không còn sức chống trả, sự kiên nhẫn của con nai sao có thể sánh được với con vật săn mồi kia.
Khi một ngày dần trôi qua và mặt trời ngả lưng xuống chiếc giường êm ái của mình ở phía tây bắc (bóng tối lại bao trùm và đêm mùa thu thì kéo dài sáu tiếng đồng hồ), những con nai đực trẻ tuổi càng lúc càng lưỡng lự hơn khi tiến đến giúp đỡ con đầu đàn bị bao vây. Mùa đông sắp đến khiến chúng phải gấp rút di cư xuống vùng đất thấp hơn, và dường như chúng không thể nào giũ bỏ được con vật lì lợm đang bám đuổi làm chúng bị chậm lại trong cuộc hành trình tránh rét. Hơn nữa, mạng sống của cả đàn hay của những con nai đực trẻ tuổi không hề bị đe dọa. Chỉ có một thành viên trong đàn bị đe dọa mà thôi, và mạng sống ấy không đáng để quan tâm bằng mạng sống của chính bản thân chúng, vì thế cuối cùng chúng chấp nhận sự thiệt hại đó.
Trong ánh sáng chạng vạng ở thời điểm giao thoa giữa ngày và đêm, con nai đực đứng đó, đầu cúi thấp, đưa mắt dõi theo những con nai cùng đàn - những con nai cái, những con nai non là con của nó, những con nai đực mà nó đã từng chỉ huy - khi chúng lê những bước vội vã trong ánh sáng đang nhạt dần. Nó không thể đi theo, vì ngay trước mũi nó là một hung thần tàn bạo có răng nanh đang nhảy nhót điên cuồng ngăn cản không cho nó dấn bước. Với cân nặng hơn nửa tấn, nó đã sống một cuộc đời dài và đầy sinh lực, trải qua nhiều trận chiến, và cuối cùng nó đối mặt với cái chết dưới răng nanh của một sinh vật mà chiều cao đến đỉnh đầu không vượt quá khuỷu chân to sụ của nó.
Kể từ lúc ấy, cả ngày lẫn đêm, Buck không bao giờ rời con mồi của mình, không bao giờ cho nó một giây phút nào nghỉ ngơi, không để nó có thời gian gặm lá cây và cành của những cây liễu và cây phong non. Buck cũng không cho phép con nai đực bị thương có cơ hội làm dịu cơn khát cháy khô cổ họng ở những dòng suối nhỏ mà chúng đi qua. Con nai thường cố phóng những bước dài để chạy trốn trong cơn tuyệt vọng. Những lúc như vậy, Buck không cố gắng ngăn cản nó mà nhảy những bước nhẹ nhàng đuổi theo sát gót, cảm thấy thỏa mãn và vui thích với diễn biến của trò chơi, nó nằm xuống khi con nai đứng im, tấn công dữ dội khi con nai định cố ăn hoặc uống.
Cái đầu to sụ càng lúc càng gục xuống thấp hơn dưới cặp sừng như hai cái cây lớn trên đầu, những bước đi càng lúc càng yếu ớt. Con nai chịu đựng được trong một khoảng thời gian dài, nó đứng đó, mũi chúi xuống đất, đôi tai rũ xuống; và Buck có nhiều thời gian hơn để nghỉ ngơi và uống nước cho thỏa cơn khát. Những lúc như vậy, trong khi vẫn đang thở hổn hển với cái lưỡi đỏ thè ra, đôi mắt dán chặt vào con nai to lớn, Buck nhận thấy dường như có một sự thay đổi đang diễn ra trong dáng vẻ của vạn vật. Nó có thể cảm thấy vùng đất này đang trở nên xôn xao, náo động. Khi những con nai sừng tấm tiến vào nơi này, những loài sinh vật khác cũng xuất hiện. Cả khu rừng, dòng suối và bầu không khí dường như cũng phập phồng hồi hộp với sự hiện diện đó. Nó nhận thấy rõ sự mới mẻ ấy, không phải bằng những gì nhìn thấy, nghe thấy hay ngửi thấy, mà bằng một thứ gì đó khác, một thứ giác quan tinh tế, nhạy bén hơn nhiều. Nó không nghe thấy gì cả, cũng chẳng nhìn thấy gì, nhưng bằng cách nào đó mà nó biết vùng đất này đã thay đổi; thông qua sự đổi thay đó, những thứ kỳ lạ đang trở dậy, hoạt động và lan tỏa; và nó quyết định sẽ tìm hiểu xem đó là gì sau khi kết thúc công việc trước mắt này.
Cuối cùng, đến cuối ngày thứ tư, nó đã đánh gục được con nai đực to lớn. Suốt một ngày một đêm, nó ở bên cạnh thành quả săn được của mình, ăn và ngủ, quanh đi quẩn lại ở đó. Và rồi, sau khi đã nghỉ ngơi, trở nên khỏe khoắn và lấy lại được sức lực, nó quay đầu đi về phía khu trại của John Thornton. Nó phi những bước dài nhẹ nhàng, và cứ phóng đi như thế suốt nhiều giờ liền, không bao giờ bị lạc giữa mê cung những con đường rối rắm phức tạp, cứ thẳng hướng khu trại mà phóng như bay, qua cả một miền xa lạ với sự tin chắc vào đường đi của mình đến nỗi con người và cái kim la bàn của họ cũng phải cảm thấy xấu hổ.
Khi phóng đi như vậy, nó càng cảm nhận rõ sự xáo trộn mới mẻ trên vùng đất này. Từ khắp mọi nẻo, sự sống dường như rất khác so với những gì đã diễn ra trong suốt mùa hè. Nó không còn nhận thấy điều đó theo một cách thức bí ẩn và tinh tế nữa, mà sự khác biệt đã trở nên rõ nét và hữu hình. Những con chim đang trò chuyện về điều đó, những con sóc líu ríu nói về điều đó, cả cơn gió rất nhẹ dường như cũng thì thầm điều đó vào tai nó. Nhiều lần nó dừng lại, hít ngửi những hơi dài làn không khí buổi sáng trong lành, đọc ở đó những thông điệp được gửi đến thúc giục những bước nhảy của nó càng lúc càng nhanh hơn. Nó cảm thấy trong lòng đè nặng một linh cảm chẳng lành về tai họa sắp xảy đến, nếu như không phải là đã xảy đến; và khi nó vượt qua đường phân nước cuối cùng và phóng xuống thung lũng dẫn đến khu trại, nó bắt đầu trở nên thận trọng hơn.
Khi còn cách khu trại ba dặm, nó phát hiện một dấu vết mới khiến lông trên cổ nó lay động và dựng ngược. Dấu vết đó dẫn thẳng đến chỗ khu trại và John Thornton. Buck vội vã tiến về phía trước, nhanh và lén lút, từng dây thần kinh căng ra, cảnh giác với vô số dấu hiệu nhỏ bé đang kể cho nó nghe về một câu chuyện… câu chuyện mà có lẽ đã đến hồi kết thúc. Cái mũi nhạy bén cho nó những mô tả khác nhau về đường đi của thứ mà nó đang bám theo sát gót. Nó nhận thấy sự im lặng đầy hàm ý của khu rừng. Chim chóc biến đi đâu hết. Những con sóc lẩn trốn. Nó chỉ nhìn thấy một con, con vật màu xám với bộ lông bóng mượt, áp chặt người xuống một cành cây to xám xịt như thể đã trở thành một phần của cành cây ấy, một cục gỗ lồi lên trên một bề mặt gỗ.
Buck nhẹ nhàng lướt đi như một cái bóng âm thầm, mũi nó bất chợt giật mạnh về một bên như thể có một lực mạnh, quả quyết tóm chặt lấy và kéo. Nó bước về phía cái mùi mà mũi vừa đánh hơi được, tiến vào một bụi cây và tìm thấy Nig. Nig đang nằm nghiêng về một bên, chết ngay tại nơi nó đã lết mình đến đó, đầu và đuôi của một mũi tên thò ra ở hai bên sườn.
Đi tiếp khoảng gần một trăm mét nữa, Buck bắt gặp một trong những con chó kéo xe mà Thornton đã mua ở Dawson. Con chó đang vật vã giãy chết ngay trên lối mòn, Buck đi qua nó mà không dừng lại. Từ phía khu trại vang lên những âm thanh khe khẽ của nhiều giọng nói, lên trầm xuống bổng theo nhịp điệu của một bài hát. Áp chặt bụng xuống nền đất, Buck tiến đến bên rìa của khu đất trống, nó tìm thấy Hans, nằm úp mặt, trên người cắm đầy mũi tên trông chẳng khác nào một con nhím. Ngay lập tức, Buck đảo mắt nhìn ra chỗ trước đây là túp lều làm bằng những cành cây vân sam và trông thấy cảnh tượng khiến lông trên cổ và vai nó dựng thẳng đứng. Cơn cuồng nộ bừng bừng trào dâng. Buck không biết mình gầm lên, nhưng đúng là nó đã gầm rõ và to với sự tàn bạo khủng khiếp. Đó là lần cuối cùng trong cuộc đời, nó để cho cơn giận dữ lấn át cả lý trí và sự khôn ngoan, đó là vì tình yêu lớn lao dành cho John Thornton đã khiến nó đánh mất tự chủ.
Đám thổ dân Yeehat đang nhảy múa bên đống đổ nát của túp lều bằng gỗ vân sam khi chúng nghe thấy tiếng gầm khủng khiếp và nhìn thấy một con vật mà chúng chưa trông thấy bao giờ lao bổ đến. Đó là Buck, cơn bão tố cuồng nộ hiện hình thành vật sống, lao vào chúng trong cơn điên cuồng hủy diệt. Nó lao vào tên đứng đầu (đó là thủ lĩnh của đám người Yeehat), xé toạc cổ họng của hắn cho đến khi tĩnh mạch cảnh ở cổ bị cắn nát, máu xối xả tuôn ra như suối. Nó không dừng lại để thương tiếc cho nạn nhân của mình, mà tiếp tục lao vào cắn xé, với cú nhảy tiếp theo, nó xé toạc cổ họng của một tên Yeehat thứ hai. Không kẻ nào tấn công lại nó được. Buck cứ thế lao vào giữa đám người, cắn nát, xé toạc, tiêu diệt, di chuyển liên tục với tốc độ khủng khiếp, thách thức mọi mũi tên mà đám người Yeehat bắn về phía nó. Thực tế là, bởi những chuyển động của nó quá nhanh, không thể lường trước được, và đám dân da đỏ đang chen chúc, túm tụm lại thành một mớ lộn xộn, nên những mũi tên chúng bắn ra lại thành ra trúng vào người nhau. Một tay thợ săn trẻ phóng một ngọn lao về phía Buck khi nó đang tung mình lên cao, ngọn lao đó cắm thẳng vào ngực của một tên thợ săn khác, mạnh đến nỗi mũi lao đâm xuyên qua người hắn. Thế là đám dân Yeehat thét lên trong nỗi kinh hoàng, chúng tháo chạy vào rừng với cơn khiếp sợ hãi hùng, vừa chạy vừa kêu la rằng linh hồn quỷ dữ hiện hình và đang đuổi theo chúng.
Và quả thật Buck là một con quỷ bằng xương bằng thịt, điên cuồng giận dữ bám đuổi chúng sát gót, quật ngã chúng chẳng khác nào tiêu diệt những con nai khi chúng chạy bán sống bán chết vào rừng để lẩn trốn. Ngày hôm đó đúng là một tai họa khủng khiếp của đám người Yeehat. Chúng bỏ chạy tan tác khắp nơi, phải mãi một tuần sau, những tên sống sót cuối cùng mới tụ tập lại được trong một thung lũng thấp hơn và điểm lại xem ai còn ai mất. Còn với Buck, sau khi đã mệt mỏi vì cuộc săn đuổi, nó quay trở lại khu trại bị tàn phá tan hoang. Nó tìm thấy Pete, bị giết khi còn đang nằm trong chăn ngay từ giây phút bất ngờ đầu tiên. Cuộc vật lộn tuyệt vọng của Thornton còn được ghi lại rõ nét trên nền đất, và Buck đánh hơi được từng chi tiết của cuộc vật lộn đó, dấu vết dẫn nó đến tận mép của một ao nước sâu. Ở mép ao là xác Skeet, đầu và hai chân trước chìm trong nước, trung thành với chủ đến tận giây phút cuối cùng. Cái ao đó lầy bùn, đục ngầu vì đất bẩn đổ ra từ các máng đãi vàng, nó che giấu thật kín đáo những gì chứa đựng sâu bên dưới, và ở bên dưới cái ao đó chính là John Thornton; Buck lần theo dấu vết của anh đến chỗ mép nước, và đến đây thì không còn tìm thấy dấu vết nào nữa.
Suốt cả ngày Buck ủ ê, rầu rĩ bên cái ao, hoặc tha thẩn quanh khu trại, bồn chồn không yên. Cái chết, đó là việc chấm dứt mọi sự vận động, là đi qua và biến mất khỏi cuộc sống, nó hiểu điều đó, và nó hiểu rằng John Thornton đã chết. Điều đó để lại một khoảng trống lớn bên trong Buck, có gì đấy giống với cơn đói, chỉ có điều khoảng trống này cứ nhói đau, nhức nhối mà không thứ thức ăn nào có thể khỏa lấp. Nhiều lúc, khi nó dừng lại nhìn những cái xác của bọn Yeehat và suy ngẫm, nó quên đi nỗi đau đó; vào lúc ấy, nó cảm thấy vô cùng tự hào về bản thân, niềm tự hào lớn hơn bất kỳ niềm tự hào nào mà nó từng trải nghiệm. Nó đã giết con người, loài thú săn mạnh mẽ và uy quyền nhất của muôn loài, nó đã thách thức cả thứ luật lệ về dùi cui và răng nanh để giết chết chúng. Nó tò mò hít ngửi những cái xác. Sao mà chúng chết dễ dàng thế. Giết chúng còn dễ hơn cả giết một con chó kéo xe. Chúng chẳng xứng đáng làm đối thủ của nó chút nào nếu không có những cái gậy, ngọn lao hay mũi tên. Từ đó trở đi, nó không còn sợ chúng nữa, trừ khi chúng mang tên, giáo và dùi cui, gậy gộc trong tay.
Đêm xuống, mặt trăng tròn vành vạnh nhô lên khỏi ngọn cây và lơ lửng trên bầu trời, chiếu sáng cả vùng đất cho đến khi mặt đất thấm đẫm thứ ánh sáng bàng bạc ma quái. Và cùng với màn đêm buông xuống, khi đang ủ ê đau buồn bên cái ao sâu, Buck bỗng nhận thấy sự xáo động của sức sống mới bên trong khu rừng mà không phải do đám người Yeehat gây ra. Nó đứng lên, lắng nghe và đánh hơi. Từ xa vọng lại tiếng kêu xa xăm, cao vút, rồi cả một dàn hợp xướng những tiếng kêu như thế cất lên sau đó. Càng lúc tiếng kêu càng gần hơn và rõ hơn. Buck nhận ra đó chính là tiếng kêu mà nó đã nghe được ở thế giới vẫn thường hiện về trong ký ức của mình. Nó bước đến đứng giữa khoảng đất trống và lắng nghe. Đó chính là tiếng gọi, tiếng gọi với nhiều cung bậc và âm điệu khác nhau, vang lên đầy mời gọi và thúc bách hơn bao giờ hết. Và cũng chưa bao giờ nó sẵn sàng đi theo tiếng gọi ấy như lúc này. John Thornton đã chết. Sợi dây gắn kết cuối cùng đã đứt. Con người và những đòi hòi của họ chẳng còn trói buộc được nó nữa.
Trong cuộc hành trình đi săn thứ thịt sống, giống như những người Yeehat đuổi theo đàn nai sừng tấm trên con đường di cư, cuối cùng đàn sói cũng vượt qua vùng đất của những dòng sông nhỏ và rừng cây gỗ để tiến vào thung lũng nơi Buck đang đứng. Chúng tràn vào khoảng đất trống ngập tràn ánh trăng như dòng thác lũ màu trắng bạc; và Buck đang đứng ở giữa khoảng đất trống đó, im phăng phắc như một pho tượng, chờ đợi chúng đến. Chúng bị giật mình và khiếp sợ, Buck thì vẫn đứng đó, im lìm và to lớn. Một khoảnh khắc im lặng trôi qua, rồi con sói táo tợn nhất nhảy vọt, lao thẳng vào nó. Buck tấn công, nhanh như chớp, cắn gãy cổ con vật. Rồi nó lại đứng im, không nhúc nhích, y như lúc trước, con sói kia quằn quại đau đớn phía sau nó. Ba con sói khác liên tiếp lao vào; và rồi từng con một lùi lại phía sau, máu tuôn ra xối xả từ cổ họng và vai bị xé toạc.
Thế là đủ để kích động cả đàn sói lao tới, hỗn loạn và lộn xộn, cả đàn đông đúc lao vào, ngáng trở lẫn nhau và làm rối tung lên vì con sói nào cũng háo hức muốn quật ngã con mồi. Sự nhanh nhẹn và lanh lẹ tuyệt vời của Buck giữ cho nó đứng vững và chống trả được cuộc tấn công. Hai chân sau trụ vững, nó liên tục cắn, đớp, táp và xé, cùng một lúc nó chống trả ở nhiều vị trí, bày bố một thế trận dường như không thể nào phá vỡ, nó phòng vệ và tấn công điên cuồng như cơn lốc xoáy từ mọi hướng.
Nhưng để ngăn chặn chúng tấn công từ phía sau, nó buộc lòng phải lùi lại, qua cái ao và lùi xuống một lòng suối nhỏ, cho đến khi đến gần một bờ sỏi cao. Nó men theo cái bờ đó đến một góc vuông mà con người đã tạo ra khi tìm vàng, và chính tại cái góc này nó trụ lại để chống trả, ba mặt được bảo vệ, chỉ phải chú ý phòng vệ và tấn công ở phía trước.
Nó đương đầu thành công và hiệu quả đến nỗi, cuối cùng, sau nửa giờ, những con sói lùi lại, tỏ ra bối rối và lúng túng. Lưỡi của chúng thè dài, răng nanh trắng nhởn lộ ra đầy dữ tợn dưới ánh trăng bàng bạc. Vài con nằm xuống, đầu ngẩng cao và tai vểnh về phía trước; những con khác đứng quan sát Buck; vài con đi đến chỗ cái ao uống nước để thỏa mãn cơn khát. Một con sói lông xám, gầy gò dài ngoẵng, thận trọng tiến tới tỏ thái độ thân thiện, Buck nhận ra người anh em hoang dã đã chạy bên mình suốt một ngày một đêm. Con sói khẽ rên rỉ, và Buck cũng rên rỉ đáp lại, mũi chúng chạm vào nhau.
Và rồi một con sói già, gầy gò, dữ tợn, trên mình đầy những vết sẹo chiến đấu, tiến lên phía trước. Buck cuộn mép lên định gầm gừ, nhưng rồi nó chạm mũi với con sói già đó. Thế là lúc ấy, con sói ngồi xuống, nghếch mũi về phía mặt trăng và cất lên tiếng hú dài của loài sói. Những con sói khác cũng ngồi xuống và hú theo. Và giờ đây, tiếng gọi đến với Buck qua những âm điệu rõ ràng không thể nhầm lẫn. Nó cũng ngồi xuống và cất tiếng hú. Dứt tiếng, nó bước ra khỏi cái góc đó, cả đàn sói vây quanh nó, hít ngửi với thái độ nửa thân thiện, nửa dữ tợn. Những con đầu đàn cất tiếng kêu gọi bầy và phóng vút vào khu rừng. Những con sói khác phóng theo phía sau, cùng cất lên tiếng kêu hòa vào bản đồng ca. Và Buck chạy cùng với chúng, bên cạnh người anh em hoang dã, vừa chạy vừa cất lên tiếng kêu như thế.
***
Đến đây, lẽ ra đã có thể kết thúc câu chuyện về Buck được rồi. Vài năm sau, những người Yeehat nhận thấy có sự thay đổi ở loài sói xám; vì họ nhìn thấy một vài con sói có những đốm nâu ở trên đầu và mõm, cùng một dải lông trắng kéo xuống giữa ngực. Nhưng điều đáng chú ý hơn cả là những người Yeehat thường kể về một con chó ma, chạy ở vị trí dẫn đầu đàn sói. Họ khiếp sợ con chó ma này, bởi vì con vật ấy khôn ngoan và xảo quyệt hơn họ. Trong những mùa đông khắc nghiệt, nó trộm thức ăn trong trại của họ, cướp những con vật mà họ bẫy được, tàn sát chó của họ và thách thức cả những thợ săn quả cảm nhất.
Không những thế, câu chuyện còn trở nên khủng khiếp hơn nhiều. Có những thợ săn ra đi không bao giờ trở về nữa, có những thợ săn được người trong bộ lạc tìm thấy với cổ họng bị xé rách toạc khủng khiếp, trên nền tuyết xung quanh xác của họ có những dấu chân sói to hơn bất kỳ dấu chân của con sói nào. Mỗi khi mùa thu đến, người Yeehat đi theo dấu hành trình di cư của đàn nai sừng tấm, nhưng có một thung lũng mà họ không bao giờ dám bước chân vào. Và đám đàn bà da đỏ ủ rũ đau buồn khi nghe những câu chuyện được kể bên ngọn lửa về việc tại sao linh hồn ác quỷ lại chọn thung lũng đó làm nơi ẩn náu.
Nhưng vào mùa hè, vẫn có một vị khách ghé thăm thung lũng đó mà người Yeehat không hề hay biết. Đó là một con sói lớn với bộ lông tuyệt đẹp, rất giống mà cũng rất khác tất cả những con sói khác. Nó một mình băng qua vùng đất tươi đẹp với những rừng cây gỗ lớn, đi xuống khoảng đất trống nằm giữa khu rừng. Ở đây có một dòng suối vàng chảy ra từ những túi da nai mục nát và chìm dần vào trong lòng đất, cỏ cao mọc lên che kín, các loài cây dây leo bò lan qua đó, che khuất dòng suối vàng khỏi ánh nắng mặt trời; và ở nơi đây, con sói trầm ngâm suy tưởng một hồi, rồi cất lên tiếng hú dài ảm đạm, thê lương trước khi rời đi.
Nhưng không phải lúc nào nó cũng đi một mình. Vào những đêm dài của mùa đông, khi đàn sói đuổi theo nguồn thức ăn của chúng xuống những thung lũng thấp hơn, người ta có thể nhìn thấy nó dẫn đầu cả đàn chạy dưới ánh trăng bàng bạc nhạt nhòa hoặc dưới ánh sáng của bắc cực quang lấp lánh huyền ảo, nhảy những bước dài phía trước các con sói khác, từ cổ họng cất lên bài ca nguyên thủy của thế giới xa xưa, bài ca của loài sói.
HẾT