Khi chân của John Thornton bị cóng đến tê liệt vào tháng Mười hai năm ngoái, những người bạn của anh đã để anh ở lại nghỉ ngơi cho lại sức, còn họ tiếp tục đi lên phía thượng nguồn con sông, làm một chiếc bè bằng những khúc gỗ mới xẻ để đến Dawson. Khi giải cứu cho Buck, anh vẫn đi hơi khập khiễng, nhưng giờ thời tiết đang ấm dần lên, anh cũng đã đi lại được bình thường. Và ở nơi này, bên bờ của dòng sông, qua nhiều ngày dài của mùa xuân, ngắm nhìn dòng nước chảy và lười biếng nằm nghe tiếng chim hót, tiếng o o, vo ve của thiên nhiên, động vật, cây cối, Buck dần lấy lại được sức lực.
Sự nghỉ ngơi đó rất cần thiết đối với một con chó vừa di chuyển qua quãng đường dài đến ba nghìn dặm, và phải thừa nhận rằng Buck đang càng lúc càng trở nên lười biếng khi những vết thương dần kín miệng và lành lại, cơ bắp của nó đã đầy đặn hơn, da thịt quay trở về phủ lên từng chiếc xương. Nói đúng ra, tất cả đều lười nhác, thong thả và rong chơi suốt ngày, cả Buck, John Thornton cũng như Skeet và Nig, họ đang chờ đợi chiếc bè đó đến chở họ xuống Dawson. Skeet là con chó săn nhỏ lông xù giống Ireland, ngay từ đầu nó đã đến gần kết bạn với Buck khi ấy còn đang trong tình trạng gần đất xa trời nên không thể tỏ thái độ bực bội phản đối hành động tiếp cận của con chó cái. Cô nàng Skeet có nét đặc trưng giống như một thầy thuốc mà người ta hay thấy ở một vài giống chó; và như một con mèo mẹ vệ sinh cho những đứa con của mình, nó liếm và làm sạch những vết thương của Buck theo cách đó. Rồi cứ đều đặn mỗi buổi sáng, sau khi Buck ăn xong bữa điểm tâm của mình, Skeet lại tiếp tục công việc mà nó tự mình nhận lấy và đảm nhiệm, dần dần Buck đâm ra ngóng đợi, trông chờ sự chăm sóc đó chẳng khác nào chờ mong sự chăm sóc của Thornton. Nig cũng thân thiện chẳng kém, mặc dù ít bộc lộ ra bên ngoài hơn, đó là một con chó to lông màu đen, mang nửa dòng máu của chó đánh hơi và nửa dòng máu của chó săn hươu, với đôi mắt lúc nào cũng như đang cười và bản tính hiền lành tốt bụng vô bờ bến.
Buck rất ngạc nhiên khi những con chó này không hề tỏ ra ghen tức với mình. Dường như chúng chia sẻ lòng tốt và sự hào phóng của John Thornton với nó. Khi Buck đã khỏe hơn, chúng lôi kéo nó tham gia vào đủ kiểu trò chơi ngốc nghếch tức cười, những trò mà ngay cả chính bản thân John Thornton cũng không thể không tham gia; và trong quá trình hồi phục lại sức khỏe đó, Buck được vui chơi, nô đùa ầm ĩ, để rồi khám phá ra một điều mới mẻ. Đó là tình yêu thương, một thứ tình cảm chân thật và nồng nhiệt mà lần đầu tiên nó được biết đến. Nó chưa bao giờ cảm thấy điều gì như vậy khi còn sống trong khu điền trang của ngài thẩm phán Miller dưới thung lũng Santa Clara ngập tràn ánh nắng. Với những đứa con trai của ngài thẩm phán, nó đi săn và đi dạo cùng với chúng, đó là mối quan hệ hợp tác có tính chất công việc; còn với những đứa cháu trai của ngài, nó giống như một nhân viên giám hộ phô trương long trọng; còn với bản thân ngài thẩm phán, đó là mối quan hệ bạn bè cao quý và uy nghiêm. Nhưng tình yêu cháy bỏng và sôi nổi, thứ tình cảm yêu mến thiết tha đầy cuồng nhiệt và phấn khích này, thì chỉ có John Thornton mới khơi dậy được trong Buck.
Người đàn ông này đã cứu sống nó, điều đó có một ý nghĩa nhất định; nhưng còn hơn thế nữa, anh là người chủ tuyệt vời. Những người khác chăm sóc chó của họ vì bổn phận trách nhiệm ép buộc và vì mục đích thực dụng nào đó; còn anh chăm sóc chó của mình như thể chúng là những đứa con của anh vậy, bởi vì anh không thể không làm thế. Và còn hơn thế nữa. Anh không bao giờ quên chào hỏi ân cần tử tế hay nói những lời khuyến khích, động viên; và có nhiều lúc, khi ngồi trò chuyện với chúng thật lâu (mà anh thường gọi đó là những cuộc trò chuyện tầm phào) thì anh cũng cảm thấy thích thú chẳng kém gì chúng. Anh có kiểu vò đầu Buck giữa hai bàn tay của mình, áp trán của mình vào trán nó, lắc lư qua lại, tới lui, và những lúc như thế, anh thường gọi nó bằng những cái tên thật buồn cười mà đối với Buck, đó là tên gọi của tình yêu thương. Chưa bao giờ Buck cảm thấy vui sướng đến thế khi được ôm trong vòng tay chai sạn và thô ráp, được nghe những lời thì thầm rủa yêu, và mỗi lần bị lắc lư tới lui, qua lại, trái tim nó như nảy bật ra khỏi cơ thể trong trạng thái mê ly ngây ngất. Và khi Thornton buông Buck ra, nó liền đứng bật dậy, miệng mở rộng mỉm cười, đôi mắt đầy biểu cảm, cổ họng rung lên với những âm thanh không thể thốt ra, và cứ giữ nguyên dáng vẻ như vậy, không nhúc nhích, khiến John Thornton thốt lên một cách cung kính: “Lạy Chúa! Cứ như thể chú mày biết nói vậy!”
Buck có kiểu thể hiện tình yêu gần như gây đau đớn. Nó thường ngậm bàn tay Thornton trong miệng mình và khép miệng lại mạnh đến nỗi phần thịt mềm mang dấu ấn hàm răng của nó mãi một lúc sau mới biến mất. Và cũng như Buck hiểu những lời rủa của Thornton là lời nói yêu thương, Thornton hiểu rằng những vết cắn giả đò ấy là sự vuốt ve, âu yếm.
Nhưng phần lớn tình yêu của Buck được thể hiện bằng sự tôn thờ. Mặc dù nó điên lên vì vui sướng và hạnh phúc khi Thornton chạm vào và trò chuyện với mình, nhưng nó không chạy theo nài nỉ để có được điều đó. Không giống như Skeet, thường hay rúc mũi vào bàn tay của Thornton mà đẩy nhè nhẹ cho đến khi được vuốt ve; hay như Nig, hiên ngang tiến đến và đặt cái đầu to sụ của nó lên đầu gối Thornton; Buck hài lòng với việc đứng từ xa mà ngắm nhìn và tôn thờ chủ nhân. Nó sẽ nằm dưới chân Thornton cả giờ đồng hồ, tỉnh táo và háo hức, nhìn lên mặt anh, suy nghĩ và nghiền ngẫm, chú ý không bỏ sót từng biểu hiện thoáng qua, từng chuyển động và sự thay đổi của nét mặt. Hoặc khi có cơ hội, nó sẽ ở cách anh thật xa, nằm nghiêng sang bên hoặc ngồi xổm, quan sát hình dáng của anh và những chuyển động của cơ thể. Mối quan hệ giữa nó và anh thân thiết đến nỗi cái nhìn chằm chằm của Buck đủ sức khiến John Thornton ngoảnh lại, và anh sẽ đáp lại cái nhìn chằm chằm đó, im lặng, không nói một lời, trái tim anh bừng lên niềm vui và thể hiện ra ngoài đôi mắt, cùng lúc đó, trái tim Buck cũng bừng lên niềm hân hoan như vậy.
Suốt một thời gian dài sau khi được giải cứu, Buck vẫn không thấy thoải mái khi John Thornton biến mất khỏi tầm nhìn của nó. Từ lúc anh rời căn lều cho đến khi anh bước vào bên trong lều, Buck luôn đi theo sát gót. Những người từng trở thành chủ của nó trong quãng thời gian ngắn ngủi kể từ khi nó đặt chân đến vùng đất phương bắc này đã nuôi dưỡng trong nó một nỗi sợ hãi rằng chẳng người chủ nào ở bên nó mãi mãi. Nó sợ rằng một ngày nào đó Thornton cũng sẽ bước qua đời nó giống như Perrault, Francois và anh chàng người lai Scotland. Ngay cả khi đêm xuống, trong những giấc mơ, nỗi sợ ấy không thôi ám ảnh nó. Những lúc như thế, nó lại giật mình thức dậy, bò ra bên ngoài giữa cái lạnh tê buốt, đến chỗ cái lều đang đập phần phật trong gió, nó đứng đó, lắng nghe âm thanh hơi thở người chủ của mình.
Nhưng dù tình yêu của nó dành cho John Thornton có bao la, mạnh mẽ, dường như cho thấy ảnh hưởng và tác động của sự văn minh ôn hòa, thì trong Buck, dòng máu nguyên thủy đã bị vùng đất phương bắc này đánh thức vẫn còn đó, sống động và mạnh mẽ. Nó vẫn có sự trung thành và lòng tận tụy - những đức tính sinh ra khi sống bên ngọn lửa ấm và được che chở dưới mái nhà; nhưng trong nó cũng có cả tính quỷ quyệt và sự man rợ. Nó như một sinh vật của thế giới hoang dã tiến đến bên ngọn lửa của John Thornton, chứ không phải một con chó đến từ vùng đất phương nam hiền hòa mang trên mình những dấu hiệu của nhiều thế hệ đã được văn minh hóa. Chính vì tình yêu thương bao la, mạnh mẽ đó, nên nó mới không đành lòng ăn trộm đồ của anh, giống như nó từng ăn trộm của những người đàn ông khác ở những khu trại khác, nó sẵn sàng làm điều đó không một giây lưỡng lự; sự ranh ma và xảo quyệt khi trộm đồ khiến nó luôn thoát được và những người chủ không thể phát hiện ra.
Mặt và cơ thể nó mang đầy những vết răng của nhiều con chó, trong quá khứ nó không chỉ chiến đấu dữ tợn và tàn bạo mà còn rất khôn ngoan nữa. Skeet và Nig thì quá hiền lành nên giữa chúng chẳng bao giờ xảy ra những vụ cãi vã, hơn nữa đó là chó của John Thornton. Nhưng một con chó lạ, không cần biết thuộc nòi gì hay táo tợn ra sao, đều sẽ ngay lập tức phải thừa nhận uy quyền và sức mạnh của Buck, hoặc là sẽ phải chiến đấu tới cùng với một địch thủ khủng khiếp. Còn Buck thì không hề khoan dung và không biết thương xót. Nó đã hiểu rất rõ thứ luật lệ của dùi cui và răng nanh, và nó không bao giờ từ bỏ bất kỳ một lợi thế nào hay rút lui trước một kẻ thù mà nó đã quyết tâm sẽ kết liễu mạng sống. Nó học hỏi được từ Spitz, từ những con chó chiến đấu đầu đàn của cảnh sát và những người đưa thư, và hiểu rằng không có sự trung lập nào hết. Hoặc là nó ở vị trí thống trị hoặc là kẻ khác thống trị nó; thể hiện lòng thương xót và nhân từ chính là yếu đuối. Lòng thương không tồn tại trong cuộc sống nguyên thủy. Thương xót sẽ bị hiểu nhầm là sợ hãi, và những hiểu nhầm như vậy sẽ dẫn đến cái chết. Giết hoặc bị giết, ăn thịt hoặc bị ăn thịt, đó là luật lệ; và nó luôn tuân theo luật lệ đó, thứ được truyền xuống từ tận nơi sâu thẳm của Thời gian.
Nó già đời hơn rất nhiều nhờ những tháng ngày mà nó đã trải qua, và cả những hơi thở mà nó đã hít vào. Nó là mối dây liên kết quá khứ với hiện tại, sự bất diệt tự ngàn xưa đang rung động thông qua nó trong những nhịp đập mạnh mẽ, phi thường, và nó cũng cuốn mình theo nhịp đập ấy, như thủy triều lên xuống, như các mùa thay đổi trong năm. Buck ngồi bên ngọn lửa của John Thornton, một con chó với vòm ngực rộng, răng nanh trắng nhởn và bộ lông dài; nhưng phía sau nó là cái bóng vong linh của những con chó thuộc đủ mọi loại, những con chó nửa phần là sói và cả những con sói thuần hoang dã như đang vội vã thúc giục, đang thưởng thức hương vị của thứ thịt mà nó ăn, thèm khát thứ nước mà nó uống, đánh hơi ngọn gió cùng với nó, lắng nghe cùng nó và kể cho nó nghe những âm thanh được tạo ra từ cuộc sống hoang dã ở bên trong khu rừng, chỉ định tâm trạng của nó, điều khiển hành động của nó, khi nó nằm xuống ngủ thì chúng cũng nằm xuống, cùng mơ với nó, và thậm chí còn hơn thế nữa, chúng trở thành chất liệu dệt nên những giấc mơ của nó.
Những cái bóng ấy hống hách và độc đoán ra lệnh cho nó, từng ngày trôi qua, loài người và sự đòi hỏi của loài người càng lúc càng trượt xa khỏi nó. Sâu bên trong khu rừng, một tiếng gọi vang lên, và khi nghe thấy tiếng gọi ấy, nó tìm thấy ở đó sức quyến rũ kỳ lạ và cảm giác rộn ràng không tài nào lý giải, buộc nó quay lưng lại với ngọn lửa và nền đất nện chặt xung quanh, lao mình vào khu rừng, cứ thế lao đi, chẳng cần biết sẽ tới đâu và tại sao; nó cũng không tự hỏi mình điều đó, tiếng gọi ấy chỉ cứ thế vang lên đầy hống hách, độc đoán, ra lệnh cho nó từ sâu thẳm bên trong khu rừng. Nhưng ngay khi nó đến chỗ mặt đất mềm và những khoảng xanh chưa bị khai phá, tình yêu dành cho John Thornton lại kéo nó quay trở về bên ngọn lửa.
Chỉ có John Thornton mà thôi, tất cả những phần còn lại của loài người chẳng có nghĩa lý gì hết. Những khách lữ hành tình cờ ghé qua có thể ca tụng và vuốt ve nó; nhưng nó chỉ đáp lại một cách lạnh lùng, và với những người quá suồng sã, nó sẽ đứng lên và bỏ đi. Khi những người bạn của John Thornton là Hans và Pete đi đến với cái bè gỗ sau một thời gian dài chờ đợi, Buck không thèm để ý đến họ cho đến khi nó biết rằng họ rất thân thiết với Thornton; sau đó nó tỏ thái độ bao dung với họ một cách thụ động, chấp nhận thiện ý và sự quý mến của họ như thể đang ban cho họ một ân huệ. Họ cũng là những người cao lớn như Thornton, sống thực tế, suy nghĩ đơn giản và thấu hiểu vấn đề; và trước khi rẽ ngoặt chiếc bè vào giữa làn nước lớn bên xưởng cưa ở Dawson, họ đã hiểu Buck và kiểu của nó nên không cố chấp đòi hỏi sự thân thiết như họ đã làm với Skeet và Nig.
Còn với Thornton, tình yêu của nó dành cho anh ngày càng lớn dần lên. Chỉ anh mới có thể đặt một gói đồ lên lưng Buck trong chuyến đi mùa hè. Khi Thornton đã ra lệnh thì đối với Buck, chẳng có nhiệm vụ nào là quá to tát và khó khăn cả. Một hôm (sau khi đã trang bị những đồ dùng cần thiết nhờ số tiền lãi có được từ chiếc bè gỗ, họ rời Dawson, tiến về phía đầu nguồn của sông Tanana), cả người và chó đang ngồi trên đỉnh của một vách đá, bên dưới, cách hơn chín mươi mét là một nền đá trần trụi. John Thornton đang ngồi ở mép của vách đá, Buck ở bên cạnh anh. Một ý nghĩ thiếu thận trọng chợt nảy ra trong đầu Thornton, thế rồi anh bảo Hans và Pete hãy chú ý vào màn thử nghiệm mà anh vừa nghĩ ra. “Nhảy đi, Buck!” Anh ra lệnh, tay chỉ sang phía bên kia vực thẳm. Ngay lập tức, anh đã phải giữ chặt lấy Buck ngay tại mép đá xa nhất, trong lúc đó Hans và Pete kéo cả hai trở lại vị trí an toàn.
“Thật là dại dột!” Pete nói sau khi tất cả đã qua đi và mọi người đã bình tĩnh trở lại.
Thornton lắc đầu. “Không, thật tuyệt vời, và cũng thật khủng khiếp. Các cậu biết không, đôi lúc nó khiến tôi phát sợ đấy.”
“Tôi chẳng muốn gây chuyện với cậu khi nó ở gần đâu.” Pete tuyên bố một cách chắc nịch, hất đầu về phía Buck.
“Ái chà!” Hans thốt lên. “Tôi cũng chẳng muốn đâu.” Vào một ngày trong năm ấy, tại thành phố Circle, điều lo sợ của Pete đã trở thành sự thực. Burton “Đen”, một gã xấu xa và độc ác, gây sự với một người mới đến tại quán rượu, và Thornton nhảy vào can ngăn một cách đầy thiện chí. Buck, vẫn theo thói quen cũ của mình, nằm ở một góc, đầu đặt trên hai chân trước, quan sát từng cử chỉ, hành động của chủ. Không một lời cảnh báo, Burton quay lại, nện một cú thật lực vào mặt Thornton. Thornton bị đánh bất ngờ, xoay tròn một vòng và nếu không kịp bám chặt vào tay vịn thì anh đã ngã sấp mặt rồi.
Những người đứng ở đó giật mình nhìn lên, không phải vì tiếng sủa hay tiếng kêu ăng ẳng nào, mà là thứ âm thanh giống một tiếng gầm cuồng nộ, và họ nhìn thấy Buck tung mình lên cao, lao vọt đến, nhằm đúng vào cổ họng Burton. Gã đàn ông thoát chết vì hắn đã kịp đưa tay ra che chắn theo bản năng, nhưng hắn bị hất ngã ngửa về phía sau, đập người xuống sàn, còn Buck thì nằm đè lên hắn. Buck nhả phần thịt mềm ở chỗ cánh tay ra và tiếp tục nhằm vào cổ họng mà tấn công. Lần này, gã đàn ông chỉ che chắn được một phần, và cổ họng của hắn bị xé rách toạc. Sau đó, đám đông bu vào đuổi Buck ra; nhưng khi bác sĩ kiểm tra chỗ vết thương bị chảy máu của Burton, Buck lảng vảng đi tới đi lui xung quanh, gầm gừ cuồng nộ và cố lao vào, chỉ chịu lùi trở lại khi một loạt những cái dùi cui giơ lên đe dọa.
Một “cuộc họp của thợ đào vàng” ngay lập tức được tổ chức và người ta quyết định rằng con chó đã bị khiêu khích nên mới hành động như vậy, thế là Buck được tự do. Nhưng kể từ ngày hôm đó nó trở nên nổi tiếng khắp các khu trại ở vùng Alaska.
Sau đó, vào mùa thu năm ấy, lại một lần nữa Buck cứu sống John Thornton theo một cách khác. Ba người đàn ông khi đó đang xoay xở đưa một con thuyền dài và hẹp qua một đoạn thác ghềnh nguy hiểm trên nhánh sông Forty Mile1. Hans và Pete di chuyển dọc theo bờ sông, buộc một sợi dây thừng mảnh từ cây này tới cây kia, trong lúc đó Thornton vẫn ở trên thuyền, dùng một cái sào đề đẩy thuyền, hét to về phía bờ để hướng dẫn hai người kia. Buck khi ấy đang ở trên bờ, bồn chồn và lo lắng, mắt không rời chủ.
1. Nghĩa là: Bốn Mươi Dặm. Đây là một nhánh của con sông Yukon.
Đến một đoạn sông đặc biệt hiểm trở vì gờ nhọn của dải đá ngầm nơi mé nước nhô ra ngoài sông, Hans nới dây thừng trong khi Thornton điều chỉnh chiếc thuyền tránh ra giữa dòng chảy. Hans chạy dọc theo bờ, xuôi xuống phía dưới, tay giữ chặt một đầu dây thừng để sẵn sàng buộc lại khi chiếc thuyền đã vượt qua chỗ gờ đá. Khi đã qua được, con thuyền trôi như bay xuôi theo dòng nước. Hans định dừng chiếc thuyền lại bằng dây thừng nhưng anh cho dừng quá đột ngột. Chiếc thuyền giật mạnh rồi lật úp, bụng thuyền ngửa lên trời lúc được kéo vào bờ. Thornton thì văng ra khỏi thuyền, bị dòng nước cuốn xuôi xuống đoạn thác ghềnh nguy hiểm nhất, nơi dòng nước chảy xiết dữ dội đến nỗi chẳng người hay con vật nào bị cuốn tới đó mà có thể sống sót.
Ngay lập tức, Buck lao mình xuống nước; sau khi bị dòng nước đưa đi một quãng gần ba trăm mét, ở ngay giữa một xoáy nước bọt tung trắng xóa, nó đuổi kịp Thornton. Khi đã cảm thấy Thornton tóm được đuôi mình, Buck liền ra sức bơi vào bờ, nó phải vận dụng đến tất cả sức mạnh của bản thân để làm việc đó. Nhưng quá trình bơi vào bờ rất chậm; dòng nước chảy về phía hạ nguồn với tốc độ nhanh chóng mặt. Từ phía dưới vang lên tiếng gầm thét khủng khiếp nơi dòng nước cuộn xoáy điên cuồng càng lúc càng trở nên dữ dội hơn, rồi bị xé nát thành vô vàn những mảnh và tia nước nhỏ li ti bởi những mỏm đá đâm xuyên qua, như những cái răng của một chiếc lược khổng lồ. Lực hút của nước khi nó bắt đầu đổ xuống đoạn dốc cuối cùng thật khủng khiếp, và Thornton hiểu rằng bơi vào bờ là điều không thể. Anh điên cuồng cố bấu víu vào một tảng đá, trượt qua tảng đá thứ hai, rồi cả người anh đập vào tảng đá thứ ba với một lực khủng khiếp. Anh buông Buck ra, dùng cả hai tay bấu chặt lấy một mỏm đá trơn trượt và hét to giữa tiếng gầm thét của dòng nước cuộn tung trắng xóa: “Bơi vào bờ đi, Buck! Bơi vào bờ!”
Buck thì không thể bám vào đâu, nó bị cuốn đi theo dòng nước, cố gắng một cách tuyệt vọng mà không tài nào quay lại được. Khi nghe thấy Thornton hét lên như vậy, nó hơi nhô người lên khỏi mặt nước, đầu ngẩng cao, như để nhìn lần cuối, rồi ngoan ngoãn bơi về phía bờ. Nó ráng sức bơi, được Pete và Hans lôi vào đúng chỗ đoạn sông nguy hiểm nhất, ở đó không thể nào bơi nổi và chỉ có chết đuối mà thôi.
Họ hiểu rằng thời gian để một người bám chặt được vào một mỏm đá trơn trượt trong khi dòng nước vẫn tiếp tục cuồn cuộn chảy qua chỉ kéo dài vài phút. Thế là họ chạy thật nhanh dọc theo bờ sông, đến một điểm ở phía trên, cách thật xa nơi Thornton đang bám trụ. Họ sử dụng chiếc dây thừng dùng để cột chiếc thuyền ban nãy, quấn quanh cổ và vai của Buck, cẩn thận sao cho sợi dây không siết nó nghẹt thở cũng như không cản trở nó bơi, sau đó họ tung nó xuống dòng nước. Buck dũng cảm lao mình xuống dòng sông nhưng không đủ mạnh để vào chính giữa dòng chảy. Nó nhận ra sai lầm của mình quá muộn, trong khi Thornton ở song song với nó, cách nó đến sáu nhịp bơi thì nó lại bị cuốn trôi xuống phía dưới, vượt qua anh mà không thể làm gì được.
Hans nhanh chóng cột dây thừng lại, như thể Buck là cái thuyền vậy. Chiếc dây thừng siết chặt lấy nó dưới lực đẩy của dòng nước chảy xiết, nó bị vùi dập, chìm nghỉm dưới nước, cứ giữ nguyên tình trạng như thế cho đến khi cơ thể đập mạnh vào bờ và được kéo lên. Nó gần như chết đuối, Hans và Pete lao đến, ra sức hà hơi thổi ngạt và đẩy nước ra khỏi phổi của nó. Buck lảo đảo đứng lên rồi lại gục xuống. Tiếng thét yếu ớt của Thornton vang đến tai họ, và mặc dù họ không nghe rõ anh đang nói gì, họ biết anh đã đuối sức lắm rồi. Giọng nói của chủ có tác động đến Buck như cú sốc của dòng điện, nó đứng bật dậy và chạy về phía bờ, trước cả hai người đàn ông, đến đúng vị trí xuất phát lúc trước.
Chiếc dây thừng lại được buộc vào và hai người đàn ông lại ném Buck xuống dòng nước, nó lại ra sức bơi, nhưng lần này thẳng vào chính giữa dòng chảy. Nó đã tính toán sai một lần, nhưng sẽ không phạm phải sai lầm ấy lần thứ hai. Hans nới dây thừng, giữ cho dây không bị chùng, trong khi Pete giữ cho cuộn dây không bị rối. Buck cố gắng bơi cho đến khi nó ở ngay chỗ dòng chảy xuôi thẳng xuống chỗ của Thornton; sau đó nó quay đầu và với tốc độ của một con tàu tốc hành, nó lao thẳng về phía anh. Thornton nhìn thấy nó đang lao đến, cơ thể nó đâm sầm vào anh mạnh như búa nện với tất cả sức mạnh mà dòng nước đã đẩy nó từ phía sau, anh với tay ra, vòng tay ôm chặt lấy cái cổ bờm xờm lông. Hans buộc chặt sợi dây thừng quanh một thân cây, Buck và Thornton bị giật mạnh, chìm nghỉm dưới dòng nước. Lúc thì Buck ở trên, lúc thì Thornton ở trên, họ bị bóp nghẹt đến không thể thở nổi và được kéo lê qua đáy sông lởm chởm đá nhọn, cơ thể va vào đá đau điếng. Cả hai ráng hết sức hướng về phía bờ.
Thornton tỉnh lại, thấy mình đang nằm úp bụng, cơ thể vắt ngang một khúc gỗ trôi dạt vào bờ, Hans và Pete đang ra sức đẩy người anh tới lui. Ngay lập tức anh đưa mắt tìm kiếm Buck. Đứng bên cơ thể mềm rũ và bất động như không còn sức sống của nó, Nig đang hú lên thảm thiết, trong khi Skeet đang liếm khuôn mặt ướp nhẹp và đôi mắt nhắm nghiền của nó. Khắp người Thornton cũng bầm dập vì bị va đập vào đá, anh thận trọng cúi xuống xem xét cơ thể Buck, khi đã kiểm tra xong, anh thấy có ba cái xương sườn bị gãy.
“Không cần bàn bạc gì cả.” Anh nói. “Chúng ta sẽ hạ trại luôn ở đây.” Và họ hạ trại ở đó, cho đến khi những cái xương sườn của Buck liền lại và nó có thể đi lại bình thường.
Mùa đông năm ấy, ở Dawson, Buck lại lập được một kỳ tích nữa, không đến mức anh hùng quả cảm nhưng cũng khiến tên tuổi của nó trở nên lẫy lừng khắp vùng Alaska. Kỳ tích này đặc biệt làm thỏa lòng ba người đàn ông; bởi lẽ nhờ đó họ trang bị được những đồ dùng cần thiết còn thiếu và có thể thực hiện được chuyến đi đã ấp ủ bấy lâu nay: Tiến sâu vào vùng đất phía đông chưa ai khai phá, nơi chưa có người đào vàng nào hiện diện.
Tất cả bắt đầu từ một cuộc trò chuyện ở quán rượu Eldorado, những người đàn ông bắt đầu khoe khoang về lũ chó yêu quý của họ. Nhờ thành tích đáng nể, Buck trở thành trung tâm cuộc trò chuyện của những người đàn ông này, và Thornton ra sức lên tiếng để bảo vệ nó. Cuối cùng, sau nửa giờ, một người đàn ông tuyên bố chó của anh ta có thể khiến một chiếc xe chở nặng đến hai trăm hai mươi lăm cân nhúc nhích và kéo chiếc xe đi được một đoạn đường; người thứ hai khoe khoang chó của anh ta có thể kéo được hai trăm bảy mươi cân, người thứ ba nói chó của anh ta kéo được ba trăm hai mươi cân.
“Ôi dào! Thế đã là gì!” John Thornton nói. “Buck có thể kéo được năm trăm cân.”
“Khiến chiếc xe dịch chuyển? Và kéo được đoạn đường dài một trăm mét?” Matthewson hỏi. Đó là một gã giàu có nhờ vớ bẫm khi đào vàng, kẻ vừa khoe chó của mình kéo được ba trăm hai mươi cân.
“Khiến chiếc xe dịch chuyển, và kéo được đoạn đường dài một trăm mét.” John Thornton lạnh lùng đáp.
“Được.” Matthewson nói, thong thả và chậm rãi, để tất cả mọi người đều có thể nghe thấy. “Tôi dám cá một nghìn đô la là nó không thể kéo được.” Vừa nói, Matthewson vừa ném phịch lên bàn một túi bột vàng to bằng cả khúc xúc xích bologna.
Không ai hé răng nói nửa lời. Sự khoác lác của Thornton, nếu đó đúng là khoác lác, thì giờ đang bị yêu cầu chứng minh là thật. Anh cảm thấy máu nóng dồn lên mặt. Thật đúng là cái miệng hại cái thân. Thực tình anh cũng không biết liệu Buck có thể kéo được đến năm trăm cân hay không. Nửa tấn ư? Khối lượng khổng lồ đó khiến anh kinh hãi. Anh rất tin tưởng vào sức mạnh của Buck và thường nghĩ rằng nó có thể kéo được một khối lượng khổng lồ như vậy; nhưng chưa bao giờ, ví như lúc này đây, anh bị đặt vào tình thế phải suy xét giữa tính khả thi và thực tế của vấn đề, những con mắt của mười hai người đàn ông đang dán chặt vào anh, im lặng và chờ đợi. Hơn nữa, anh làm gì có một nghìn đô la, cả Hans và Pete cũng không có.
“Tôi có một chiếc xe trượt tuyết đang đậu ở ngoài kia, trên xe là hai mươi gói bột mì, mỗi gói nặng hai mươi lăm cân.” Matthewson nói với sự thẳng thắn đến tàn bạo. “Đừng để việc đó gây trở ngại gì cho anh chứ.”
Thornton không đáp lại. Anh không biết phải nói gì. Anh liếc nhìn từ khuôn mặt người này đến khuôn mặt người kia, ngơ ngác như một kẻ đã đánh mất khả năng suy nghĩ và đang lùng sục ở đâu đó một thứ có thể khiến anh ta suy nghĩ được bình thường và tỉnh táo hơn. Anh nhìn thấy khuôn mặt của Jim O’Brien, một người giàu sụ và là một người bạn cũ. Đối với anh, đó như một tín hiệu, một lời gợi ý, xúi giục anh hãy làm điều mà anh chưa bao giờ dám mơ đến.
“Cậu có thể cho tôi mượn một nghìn đô la được không?” Anh hỏi, giọng gần như thì thầm.
“Dĩ nhiên rồi.” O’Brien trả lời, ném mạnh xuống mặt bàn một cái túi to bên cạnh cái túi của Matthewson. “Mặc dù tôi không tin tưởng lắm vào việc con chó đó có thể làm được, John ạ.”
Khách trong quán rượu Eldorado đổ hết cả ra đường để xem màn thách đố. Các bàn uống rượu trống trơn, đám dân buôn bán và những người gác rừng chạy đến xem kết quả ra sao và đặt cược với nhau. Khoảng vài trăm người đàn ông, mặc quần áo lông thú và đi bao tay da, bu lại quanh chiếc xe trượt tuyết ở khoảng cách có thể quan sát được dễ dàng.
Chiếc xe trượt tuyết của Matthewson chở theo năm trăm cân bột mì, đã đỗ ở đó được hai giờ đồng rồi, và trong thời tiết lạnh giá khủng khiếp như thế này (âm mười lăm độ C) càng xe sẽ nhanh chóng dính chặt xuống nền tuyết nện chặt. Người ta đưa ra mức cược một ăn hai rằng Buck không thể khiến chiếc xe nhúc nhích. Họ bắt đầu tranh cãi về từ “dịch chuyển”. O’Brien cãi rằng Thornton có quyền đập vỡ băng đóng chặt ở càng xe và để Buck kéo thì chiếc xe mới nhúc nhích và thoát khỏi trạng thái bị đóng cứng tại chỗ như vậy. Matthewson khăng khăng cãi lại rằng câu nói đó bao gồm cả việc con chó phải phá được lớp băng đóng chặt lấy càng xe. Số đông những người chứng kiến vụ cá cược ủng hộ Matthewson, thế là tỷ lệ cá cược lên đến một ăn ba rằng Buck không thể làm được.
Chẳng ai tin Buck có thể lập được kỳ tích đó. Thornton bị ép nhận cược trong sự háo hức của số đông, lòng anh trĩu nặng mối hoài nghi. Giờ đây, nhìn thấy chiếc xe trượt tuyết đó, một sự vật cụ thể và hữu hình, cùng với đội chó kéo xe chính quy lên đến mười con đang nằm cuộn tròn trên tuyết phía trước chiếc xe, anh càng cảm thấy việc thắng cược là điều không thể. Matthewson thì trông vui sướng ra mặt.
“Một ăn ba đây!” Gã đàn ông tuyên bố. “Tôi sẽ đặt cược thêm một nghìn đô với tỷ lệ như thế. Anh nghĩ sao, Thornton?”
Mặt Thornton cho thấy rõ sự nghi ngờ, nhưng tinh thần chiến đấu của anh đang dâng cao - tinh thần chiến đấu ấy còn cao hơn cả tỷ lệ cá cược và không đếm xỉa đến mức độ bất khả thi của nhiệm vụ này, khiến anh làm ngơ tất cả những thứ khác ngoại trừ tiếng hô xung trận. Anh gọi Hans và Pete lại gần. Túi tiền của họ lép kẹp, cộng với túi tiền của anh nữa, tổng cộng họ chỉ vét ra được có hai trăm đô la. Trong tình cảnh khó khăn lúc này, số tiền đó là tất cả vốn liếng mà họ có; mặc dù vậy họ không ngần ngại đặt hết số tiền đó cược với sáu trăm đô của Matthewson.
Đội chó mười con được đưa ra ngoài, và Buck, với bộ yên cương của riêng nó, được đặt vào thay thế. Không khí kích động xung quanh truyền cả đến nó, và nó cũng cảm thấy như mình đang phải làm một điều gì đó có ý nghĩa rất lớn cho John Thornton. Những tiếng thì thầm thán phục vang lên khi nó xuất hiện. Buck đang ở trong thời kỳ khỏe mạnh và sung sức, không có một chút mỡ thừa nào, cơ thể nặng gần bảy mươi cân của nó chứa đầy sự mạnh mẽ, rắn rỏi và gan góc. Bộ lông ánh lên vẻ mượt mà, óng ả của lụa mềm. Xuôi xuống cái cổ và chéo hai bên vai là lông bờm của nó, ngay cả trong trạng thái bình thường vẫn hơi dựng đứng và như thể xù bông lên cùng với mỗi chuyển động của cơ thể, dường như sức mạnh thể chất và sinh lực cường tráng mạnh mẽ đã khiến từng sợi lông cũng trở nên sống động. Vòm ngực rộng, cặp chân trước to và chắc nịch rất cân xứng với phần còn lại của cơ thể, cơ bắp hiện rõ, cuồn cuộn bên dưới lớp da. Đám đàn ông sờ vào những cơ bắp đó và tuyên bố rằng chúng rắn như thép, và mức cá cược hạ xuống còn một ăn hai.
“Ôi, thật tuyệt, tuyệt quá, thưa ngài!” Một gã tóc vàng thuộc nhóm trọc phú mới của Skookum Benches lắp bắp lên tiếng. “Tôi sẽ trả cho ngài tám trăm đô, thưa ngài, trước khi vụ cá cược diễn ra; con vật đó đáng giá tám trăm đô đấy, thưa ngài.”
Thornton lắc đầu và bước đến bên cạnh Buck.
“Anh phải đứng xa ra.” Matthewson lên tiếng phản đối. “Để nó tự lực tự cường đi. Anh thiếu gì chỗ để đứng chứ.”
Đám đông im lặng; chỉ còn nghe thấy tiếng nói của những con bạc đang rêu rao mức cược một ăn hai mà chẳng có ai chấp nhận. Mọi người đều thừa nhận Buck là một con chó tuyệt đẹp, nhưng hai mươi túi bột mì nặng hai mươi lăm cân chất đống trước mắt họ quá lớn, nên họ không muốn nới lỏng cái dây buộc hầu bao của mình chút nào.
Thornton quỳ xuống bên cạnh Buck. Hai tay anh ôm lấy đầu nó, áp má anh vào má nó. Anh không lắc lư nó theo kiểu vui đùa như mọi khi, hay thì thầm những lời rủa yêu; mà anh thì thầm vào tai nó: “Có thương ta thì cố lên nhé, Buck. Hãy cố lên vì ta.” Anh thì thầm những lời đó. Buck rên rỉ với sự háo hức say mê bị kìm nén.
Đám đông quan sát một cách tò mò. Vụ việc đang ngày càng trở nên khó hiểu, giống như một sự phù phép vậy. Khi Thornton đứng lên, Buck cắn chặt bàn tay đeo găng của anh trong miệng mình, ấn răng vào đó rồi từ từ nhả ra, có phần miễn cưỡng. Đó là câu trả lời, không phải bằng lời nói, mà bằng tình yêu thương. Thornton bước lùi lại phía sau.
“Nào, Buck.” Anh nói.
Buck kéo căng dây da, sau đó nới lỏng vài phân. Đó là cách mà nó đã học được.
“Sang phải!” Giọng Thornton vang vọng, sắc lạnh giữa sự im lặng căng thẳng.
Buck lao về bên phải, kết thúc động tác bằng một cái thúc mạnh, khiến đoạn dây da chùng bị kéo căng, và với một cú giật mạnh đột ngột, cả cơ thể nặng gần bảy mươi cân của nó khựng lại. Khối hàng rung lên, và bên dưới càng xe, những tiếng răng rắc nứt vỡ vang lên.
“Sang trái!” Thornton ra lệnh.
Buck lặp lại hành động vừa rồi, lần này kéo sang bên trái. Tiếng nứt vỡ vang lên tanh tách, chiếc xe trượt tuyết bắt đầu xoay và càng xe trượt đi vài phân sang bên cạnh, phát ra những tiếng kèn kẹt. Lớp băng bám chặt vào càng xe đã vỡ ra. Mọi người chăm chú dõi theo, không hề nhận ra là mình đang nín thở.
“Nào, KÉO!”
Lời của Thornton vang lên như phát súng mệnh lệnh. Buck lao mình về phía trước, kéo căng sợi dây da với cú nhào tới đột ngột. Toàn bộ cơ thể nó gồng lên với sự nỗ lực phi thường, các thớ cơ gồ lên, quằn quại như những sinh vật sống dưới lớp lông óng ả, mượt mà. Vòm ngực rộng của nó rạp trên nền tuyết, cái đầu rướn về phía trước và cúi thấp, móng chân cào xới điên cuồng xuống mặt tuyết nện chặt, tạo thành những rãnh song song. Chiếc xe lắc lư và rung chuyển, gần như đang nhúc nhích tiến về phía trước. Một chân của nó bị trượt đi, có tiếng một người đàn ông rên lên thật to. Và rồi chiếc xe lắc lư di chuyển về phía trước, nhích dần theo từng cú giật nhanh và liên tiếp, mặc dù không lúc nào chiếc xe thực sự dừng hẳn lại… một phân… ba phân… rồi sáu phân… Những cú giật mạnh có thể nhìn thấy được dần ít đi. Khi chiếc xe đã có được đà, Buck nhịp nhàng di chuyển theo từng cú giật, cho đến khi chiếc xe đều đặn tiến về phía trước.
Đám đàn ông há hốc miệng vì kinh ngạc và đã bắt đầu thở lại bình thường, không hề biết rằng mình vừa mới nín thở một lúc. Thornton chạy ở phía sau, cổ vũ Buck bằng những từ ngắn gọn và hân hoan. Khoảng cách đã được tính toán rõ ràng, và khi nó tiến gần đến chỗ đống củi đánh dấu điểm kết thúc của quãng đường thử thách dài một trăm mét, tiếng hoan hô càng lúc càng to hơn, rồi vỡ tung thành những tiếng reo hò ầm ĩ khi nó vượt qua đống củi và dừng lại lúc nghe thấy mệnh lệnh. Mọi người vỡ òa trong vẻ hân hoan, vui mừng nhảy múa, cả Matthewson cũng vậy. Người ta tung mũ và bao tay lên cao. Họ bắt tay nhau, chẳng cần biết là bắt tay ai, tiếng nói cười hòa thành một mớ những tiếng nói lộn xộn, ầm ĩ.
Nhưng Thornton thì khuỵu xuống bên cạnh Buck. Đầu anh áp vào đầu Buck, và anh cứ thế lắc lư nó tới lui, tới lui một lúc lâu. Những người chạy vội đến chỗ anh nghe thấy anh đang rủa yêu Buck, và anh cứ rủa nó như vậy thật lâu, thật nồng nhiệt, thật dịu dàng và đầy yêu thương.
“Thật tuyệt! Thưa ngài, thật tuyệt!” Gã trọc phú Skookum Bench lại lắp bắp nói. “Tôi sẽ trả cho ngài một nghìn đô la để có được con vật này, thưa ngài, một nghìn đô… một nghìn hai trăm đô, thưa ngài.”
Thornton đứng lên, đôi mắt anh ướt đẫm nước.
Những giọt nước mắt chảy dài xuống má. “Thưa ông.” Anh nói với gã trọc phú. “Không, thưa ông. Ông hãy xuống địa ngục đi. Đó là điều tốt nhất tôi có thể làm cho ông.”
Buck lại ngậm bàn tay anh trong hàm răng của mình và cắn nhẹ. Thornton lắc lư nó tới lui, tới lui. Những người đứng xem, như thể bị lây sự vui vẻ, phấn khích trong cơn bốc đồng chung của tất cả, đã lùi về phía sau, giữ khoảng cách để tỏ sự tôn trọng; họ giữ ý tế nhị để không làm gián đoạn giờ phút cảm động riêng tư đó.