Ba mươi ngày kể từ lúc rời Dawson, khối bưu kiện từ Salt Water kéo theo sau Buck và những bạn đồng hành của nó đã đến được Skaguay. Tất thảy lũ chó đều ở trong tình trạng thật thảm thương, sức khỏe hao mòn và kiệt quệ. Cơ thể với cân nặng sáu mươi tư cân của Buck tụt xuống chỉ còn năm mươi hai cân. Những con chó còn lại, dù trọng lượng nhẹ hơn, nhưng bị sụt cân còn nhiều hơn cả nó. Pike, con chó hay giả ốm để trốn việc, trong suốt quãng đời lừa gạt của mình, lúc nào cũng thành công khi giả vờ đau chân, thì bây giờ nó đi khập khiễng thật sự. Sol-leks rất yếu, còn Dub thì đau đớn vì bị trật xương vai.
Chân của tất cả lũ chó đều sưng đau khủng khiếp, không con nào có thể chạy nhảy được nữa. Bàn chân chúng nặng nề rơi xuống mặt đường mòn, làm chấn động mạnh toàn thân và khiến sự mệt nhọc của một ngày di chuyển tăng lên gấp hai lần. Đối với chúng, ngoại trừ việc đang kiệt sức tưởng như chết đến nơi thì chẳng có điều gì khác là quan trọng nữa. Đó không phải nỗi mệt mỏi đến chí tử do gắng sức quá mức trong một thời gian ngắn, chỉ cần nhiều giờ nghỉ ngơi là có thể hồi phục; mà đây là sự mệt mỏi vì nhiều tháng ròng vắt kiệt sức lực trên vệt đường mòn lao khổ. Chẳng còn khả năng để mà hồi phục nữa, chẳng còn dư chút sức khỏe nào để mà dùng đến. Tất cả đã được mang ra sử dụng, bị vắt kiệt đến chút hơi sức cuối cùng còn sót lại. Từng cơ bắp, từng thớ thịt, từng tế bào đều mệt mỏi, mệt muốn chết. Và tất nhiên có lý do để giải thích cho việc đó. Trong vòng chưa đến năm tháng, chúng đã di chuyển qua quãng đường dài đến hai ngàn năm trăm dặm, trong một ngàn tám trăm dặm cuối cùng, chúng chỉ có năm ngày nghỉ ngơi. Khi cuối cùng cả đoàn xe chở thư đến được Skaguay, đàn chó đã ở trong tình trạng kiệt quệ khủng khiếp. Chúng hiếm khi giữ cho dây cương được kéo căng, và khi đi xuống những con dốc, chúng phải cố xoay xở sao cho không bị chiếc xe đè lên người.
“Nào! Cố gắng lên nào! Thật khổ chúng mày, đau chân quá mà.” Người đánh xe động viên khi lũ chó lảo đảo tiến vào con phố chính của Skaguay. “Đây là chuyến cuối cùng rồi. Sau đó chúng ta sẽ được nghỉ ngơi rất lâu. Nghe không? Chắc chắn đấy. Một đợt nghỉ dài thật là dài.”
Những người đánh xe cũng đang hy vọng và tin rằng họ sẽ có được một kỳ nghỉ thật lâu. Chính bản thân họ cũng đã trải qua một quãng đường dài đến một ngàn hai trăm dặm mà chỉ có hai ngày để nghỉ, và theo lẽ phải và lẽ công bằng chung, họ xứng đáng có một khoảng thời gian nghỉ ngơi thật dài. Nhưng có quá nhiều người đàn ông đổ xô đến những mỏ vàng ở Klondike, và cũng có rất nhiều những người tình, người vợ và người họ hàng thân thích không đổ xô đến đó, thế nên đống thư từ dồn ứ lại chất cao như núi; và còn có cả những mệnh lệnh của chính phủ gửi tới. Những con chó mới nơi vịnh Hudson sẽ thay thế những con không còn đủ sức khỏe để kéo xe. Những con chó đã hết tác dụng sẽ bị tống khứ đi, và vì so với những đồng đô la thì chó chẳng đáng giá là bao nên chúng bị đem ra bán để đổi lấy đô la.
Ba ngày trôi qua, cũng là khoảng thời gian Buck và những người bạn đồng hành của nó nhận thấy chúng thực sự yếu và mệt mỏi thế nào. Thế rồi, vào buổi sáng ngày thứ tư, có hai người đàn ông Mỹ đến và mua chúng, mua cả yên cương và tất cả những thứ khác với giá rẻ mạt. Hai người đàn ông đó gọi nhau là Hal và Charles. Charles ở độ tuổi trung niên, nước da nhợt nhạt với đôi mắt ươn ướt yếu đuối, bộ ria mép vểnh lên trông dữ tợn tương phản hoàn toàn với cặp môi ủ rũ ẻo lả che giấu bên dưới. Hal trẻ hơn, độ tuổi khoảng mười chín, đôi mươi, gã có một khẩu súng lục ổ xoay loại lớn và một con dao đi săn buộc nơi thắt lưng. Cái dây lưng đó là thứ rất dễ thấy ở gã. Nó là minh chứng rành rành cho sự non nớt, thiếu kinh nghiệm - non nớt đến mức không thể tưởng tượng nổi. Cả hai gã đàn ông đó rõ ràng đang ở nhầm chỗ, và câu hỏi rằng tại sao những con người như thế lại mạo hiểm đến vùng đất phương bắc lạnh giá này thì là một phần trong bức màn bí ẩn của vạn vật mà người ta không tài nào lý giải nổi.
Buck nghe thấy những lời cò kè mặc cả, nhìn thấy tiền được trao qua tay giữa gã đàn ông với anh chàng nhân viên làm việc cho chính phủ, và biết rằng anh chàng người lai Scotland và những người đánh xe thư đang đi qua cuộc đời nó, theo gót của Perrault, Francois và tất cả những người khác trước đấy. Khi được đưa đến khu trại của chủ nhân mới cùng với những người bạn đồng hành, Buck nhìn thấy một mớ hỗn độn luộm thuộm và cẩu thả: Cái lều được căng nửa vời, bát đĩa bẩn chưa hề được rửa, tất cả mọi thứ thật bừa bãi và lộn xộn. Nó còn thấy một phụ nữ mà mấy gã đàn ông gọi là Mercedes. Đó là vợ của Charles và là chị gái của Hal - một nhóm gia đình khá là xinh xẻo.
Buck quan sát họ mà trong lòng đầy bứt rứt, âu lo khi họ hạ cái lều xuống và chất đồ lên xe trượt tuyết. Cách làm của họ tốn rất nhiều công sức và chẳng phải phương pháp chuyên nghiệp, hiệu quả gì. Chiếc lều được cuộn lại thành một bó bùng nhùng to sụ trong khi có thể gấp lại gọn gàng và chỉ nhỏ bằng một phần ba cái mớ hiện tại. Đống bát đĩa bằng sắt tây chưa rửa cứ thế được đóng gói. Mercedes liên tục làm vướng chân hai gã đàn ông, huyên thuyên luôn mồm, phản đối khi họ làm cái này cái kia và đưa ra những lời khuyên. Khi họ đặt chiếc túi chứa quần áo lên phía trước xe, cô ta bảo rằng tốt hơn là nên để ở phía sau; và khi họ đặt cái túi ra phía sau, chồng lên đó hai bọc đồ khác nữa, thì cô ta chợt phát hiện ra có vài món đồ quên chưa cất vào và nhất định phải cất vào đúng cái túi đó, thế là họ lại tháo cái đống vừa mới buộc vào ra.
Ba người đàn ông từ lều bên cạnh tiến đến và quan sát cảnh tượng đó, họ cười và nháy mắt nhìn nhau.
“Ba người có một đống đồ gọn gàng gớm nhỉ.” Một người trong số họ nói. “Tất nhiên đây là việc của mấy người và tôi không nên đưa ra lời khuyên này nọ, nhưng nếu tôi là mấy người thì tôi sẽ chẳng vác theo cái lều ấy mà làm gì.”
“Thật không thể tưởng tượng nổi!” Mercedes kêu to, vung hai tay lên trời tỏ vẻ thất vọng một cách điệu đà. “Tôi biết xoay xở ra sao đây nếu không có một cái lều?”
“Đang là mùa xuân, thời tiết cũng không còn lạnh nữa đâu.” Người đàn ông đáp lại.
Cô ta vẫn khăng khăng lắc đầu, Charles và Hal tiếp tục ném những món đồ lặt vặt cuối cùng lên trên cái đống to lù lù kia.
“Liệu có kéo được không?” Một người đàn ông hỏi. “Sao lại không kéo được?” Charles hỏi lại có phần cộc lốc.
“Ồ, không có gì, không có gì đâu.” Người đàn ông vội vàng đáp với giọng nhún nhường. “Tôi chỉ đang thắc mắc chút thôi mà, chỉ vậy thôi. Hình như phía trên hơi nặng quá thì phải.”
Charles quay đi và cố kéo dây buộc xuống phía dưới nhưng xem ra chẳng ăn thua.
“Và dĩ nhiên là những con chó có thể kéo xe suốt cả ngày dài với cái đống đó ở phía sau.” Người đàn ông thứ hai trong nhóm nói quả quyết.
“Chắc chắn là thế rồi.” Hal nói với vẻ lịch sự lạnh lùng, một tay nắm cái trục lái, tay kia vung roi lên. “Đi nào!” Anh ta hô to. “Tiến lên nào!”
Những con chó kéo căng dây cương, dây đai ép sát vào ngực, trong một lúc chúng ra sức kéo, nhưng không ăn thua. Chúng không thể khiến cái xe nhúc nhích.
“Tao sẽ cho chúng mày biết tay, lũ súc sinh lười nhác.” Gã thét lên, vung roi định quất xuống.
Nhưng Mercedes đã nhảy vào khóc lóc, can ngăn: “Ôi, Hal, em không được thế.” Rồi cô ta tóm lấy cái roi và giật nó khỏi tay em trai. “Những con vật tội nghiệp đáng thương! Bây giờ em phải hứa là sẽ không tàn nhẫn với chúng trong suốt quãng đường còn lại của chuyến đi, nếu không chị sẽ không bước thêm một bước nào nữa.”
“Sự hiểu biết của chị về lũ chó mới quý báu làm sao.” Em trai cô ta khinh bỉ nói. “Và em ước gì chị để cho em được yên. Để em nói cho chị biết, chúng là lũ lười nhác, cần phải quất cho chúng thật đau thì chúng mới chịu làm việc. Đó là kiểu của chúng. Chị cứ hỏi bất kỳ người nào mà xem. Hỏi một trong số những người đang đứng kia kìa.”
Mercedes khẩn nài nhìn họ, trên khuôn mặt xinh xắn lộ rõ vẻ ghê sợ không sao kể xiết khi nhìn thấy cảnh tượng đau đớn trước mắt.
“Chúng đang rất yếu, nếu mấy người muốn biết.” Một người đàn ông nói. “Chúng mệt mỏi và kiệt quệ, vấn đề là ở chỗ đó. Chúng cần được nghỉ ngơi.”
“Nghỉ cái con khỉ.” Hal nói qua đôi mép nhẵn thín không một cọng râu; còn Mercedes thì thốt lên một tiếng “Ối!” đau đớn và đầy phiền muộn khi nghe thấy câu rủa đó.
Nhưng cô ta là một người trung thành và hết lòng với người thân, gia đình nên ngay lập tức bênh vực thằng em. “Thôi đừng bận tâm đến gã đó làm gì.” Cô ta nói giọng mỉa mai, châm chọc. “Em mới là người đang điều khiển lũ chó của chúng ta, và em hãy làm những gì mà em nghĩ là tốt nhất đối với chúng.”
Một lần nữa, cái roi của Hal lại quất xuống đàn chó. Chúng lao về phía trước, thân mình ép vào vòng dây đai trước ngực, móng chân cào xuống nền tuyết, cúi rạp người thật thấp, dồn hết toàn bộ chút sức lực còn lại. Nhưng chiếc xe vẫn không nhúc nhích, chẳng khác nào một chiếc mỏ neo cắm chặt. Sau hai lần nỗ lực cố gắng, chúng đứng im một chỗ, thở hồng hộc. Chiếc roi quất lên vun vút một cách tàn bạo, và một lần nữa Mercedes lại nhảy vào can ngăn. Cô ta quỳ xuống phía trước Buck, đầm đìa nước mắt, hai tay quàng quanh cổ nó.
“Những con vật tội nghiệp đáng thương.” Cô ta thút thít khóc đầy thương xót. “Tại sao chúng mày không chịu kéo cật lực vào? Như thế chúng mày sẽ không bị đánh đòn.” Buck chẳng ưa gì cô ta, nó đang cảm thấy quá đỗi cực khổ nên chẳng thể làm gì để phản đối lại cử chỉ ấy, và coi đó như một phần nỗi cực khổ phải chịu đựng trong ngày hôm đó.
Một trong những người đang đứng nhìn, răng nghiến chặt cố kìm nén để không thốt ra những lời bức xúc, lúc này lên tiếng:
“Tôi cóc thèm quan tâm dù có chuyện quái gì xảy đến với mấy người, nhưng tôi thấy thương lũ chó nên mới nói, mấy người sẽ giúp chúng rất nhiều nếu phá vỡ lớp băng bám chặt vào càng xe. Càng xe bị đóng băng lại rất nhanh. Hãy kéo cái cần lái thật mạnh vào, sang trái và sang phải, để làm lớp băng ấy vỡ ra đã.”
Thế là họ lại thử lần thứ ba, nhưng lần này, nghe theo lời khuyên của người đàn ông, Hal làm vỡ lớp băng bám vào càng xe. Chiếc xe cồng kềnh quá tải bắt đầu nhúc nhích tiến về phía trước, Buck và những người bạn đồng hành của nó vật lộn điên cuồng dưới cơn mưa đòn giáng xuống tới tấp. Cách gần một trăm mét phía trước, con đường rẽ ngoặt và đổ dốc xuống con phố chính. Phải là một người nhiều kinh nghiệm lắm mới giữ cho chiếc xe trượt tuyết chở nặng ở phía trên trụ vững được khi đi qua khúc cua đó, và Hal thì chẳng phải một người như thế. Khi đi đến chỗ rẽ ngoặt, chiếc xe lật nhào, một nửa số đồ dùng chất trên xe đổ xuống vì những vòng dây da buộc quá lỏng lẻo. Những con chó không dừng lại. Chiếc xe đã nhẹ hẳn đi, đổ nghiêng sang một bên và xóc nảy lên phía sau chúng. Chúng đang cảm thấy tức giận vì bị đối xử tàn tệ và phải kéo cái xe chở nặng đến vô lý. Buck giận dữ. Nó lao đi thật nhanh, cả đàn lao theo nó. Hal hô to “Dừng lại! Dừng lại!” nhưng chúng chẳng thèm nghe. Gã trai trẻ bị trượt chân và ngã nhào. Chiếc xe lật úp đè nghiến qua người hắn, những con chó vẫn phi hết tốc lực vào con phố chính, khiến những trò vui của Skaguay thêm rôm rả khi đống đồ dùng còn lại trên xe bắn tung tóe khắp nơi dọc theo những nơi đàn chó phóng qua.
Một số người tốt bụng giữ cho đàn chó dừng lại và giúp nhặt nhạnh những món đồ rơi vãi. Họ cũng đưa ra những lời khuyên. Cần phải giảm bớt một nửa lượng đồ chất trên xe và tăng gấp đôi số lượng chó nếu muốn đến được Dawson, đó là những gì họ nói. Hal cùng chị gái và anh rể của hắn lắng nghe một cách miễn cưỡng, vứt chiếc lều đi, kiểm tra, xem xét và loại bỏ những đồ dùng không cần thiết. Những đồ ăn đóng hộp bị ném đi khiến mọi người cười ồ, bởi lẽ trong những chuyến đi dài, đồ ăn đóng hộp là thứ mà người ta ao ước. “Chăn đủ dùng cho cả một khách sạn ấy chứ!” Một người tham gia giúp đỡ bật cười và nói. “Một nửa số đó thôi đã là quá nhiều rồi; hãy vứt bớt đi. Ném cái lều đó đi, và cả những cái đĩa ăn nữa… Ai sẽ rửa chúng đây? Ôi trời đất ơi, các người nghĩ các người đang đi du lịch trong một toa xe lửa hạng sang chắc?”
Và thế là, những thứ không cần thiết bị ném đi một cách không thương tiếc. Mercedes rền rĩ kêu than khi túi váy áo của cô ta bị quẳng xuống đường và từng món đồ bị vứt bỏ. Cô ta khóc lóc vì tất cả những đồ đạc bị ném đi, rồi cô ta lại khóc lóc vì từng món đồ bị thải ra. Cô ta ngồi ôm gối, người lắc lư một cách đau khổ. Cô ta quả quyết là mình sẽ không đi tiếp nữa, dù chỉ một bước chân, dù có thêm cả tá chàng Charles đi chăng nữa, cô ta cầu khẩn mọi người, cầu khẩn mọi thứ, nhưng rồi cuối cùng, cô ta lau nước mắt và bắt đầu vứt bỏ các món đồ, thậm chí ném đi cả những đồ quần áo cần thiết. Trong lúc hăng hái, sau khi đã quẳng hết đồ của mình, cô ta bắt đầu quẳng cả những món đồ của hai người đàn ông, sốt sắng xới tung mọi thứ lên chẳng khác nào cơn lốc xoáy.
Khi công việc đã hoàn thành, số đồ dùng đã giảm đi một nửa, nhưng vẫn là một đống to khủng khiếp. Tối hôm ấy, Charles và Hal đi ra ngoài và mua thêm sáu con chó ngoại lai. Những con chó này, cộng với đàn sáu con ban đầu, thêm cả Teek và Koona, những con chó kéo xe kiếm được ở thác Rink trong chuyến đi kỷ lục, như vậy tổng cộng cả đàn lúc này lên đến mười bốn con chó. Nhưng những con chó ngoại lai dù đã nếm trải nhiều vất vả, khắc nghiệt từ lúc được đưa vào vùng đất này vẫn chẳng giúp được gì nhiều. Có ba con là giống chó săn lông ngắn, một con thuộc giống Newfoundland, và hai con còn lại là chó lai chẳng rõ thuộc giống nào. Nhưng đám “lính mới” này có vẻ chẳng biết làm ăn gì. Buck và các bạn đồng hành của nó nhìn chúng với ánh mắt chán ghét, và dù Buck đã ngay lập tức bắt tay vào dạy dỗ chúng, chỉ cho chúng biết vị trí của mình và những điều không được phép vi phạm, nó vẫn không tài nào khiến cho chúng hiểu chúng cần phải làm những gì. Chúng chẳng chịu lao động một cách nghiêm túc trong vòng dây cương và trên vệt đường mòn. Ngoại trừ hai con chó lai, lũ còn lại đều hoang mang, ngơ ngác, tinh thần bị đập nát vì cuộc sống hoang dã khắc nghiệt và xa lạ của vùng đất mới mà chúng bị ném vào, vì sự đối xử tàn tệ mà chúng nhận được. Hai con chó lai thì chẳng có một chút tinh thần hay khí thế nào để mà đập nát, ở chúng thứ duy nhất có thể đập gãy được chỉ có bộ xương mà thôi.
Với những kẻ mới đến khốn khổ và vô tích sự kia, cùng đàn chó cũ đã kiệt quệ sau khi di chuyển liên tục qua quãng đường dài hai nghìn năm trăm dặm, viễn cảnh phía trước mới thật u ám, buồn thảm làm sao. Mặc dù vậy, hai gã đàn ông khá vui mừng và phấn khởi. Họ thậm chí còn cảm thấy hãnh diện nữa là khác. Với mười bốn con chó, những gì họ làm thật ấn tượng. Họ đã thấy những chiếc xe trượt tuyết khác khởi hành qua con đèo để đến Dawson, hoặc ngược từ Dawson đến, nhưng họ chưa bao giờ thấy chiếc xe trượt tuyết nào có đến mười bốn con chó. Ấy là bởi vì trong những chuyến hành trình ở vùng đất phương bắc lạnh giá này, có lý do chính đáng để một chiếc xe trượt tuyết không được kéo bởi mười bốn con chó, đó là một chiếc xe như vậy sẽ không thể mang đủ thức ăn cho mười bốn con chó. Nhưng Charles và Hal không biết điều này. Họ đã lên kế hoạch thật kỹ lưỡng cho chuyến đi, với một con chó thì chừng này thức ăn là quá đủ rồi, nhưng khi có nhiều chó đến thế kia thì chuyến đi chắc sẽ chỉ kéo dài chừng này ngày, cứ thế nhân lên, và một lúc sau thì bài toán được giải quyết xong. Mercedes nhìn qua vai hai người đàn ông và gật đầu tán thành tuyệt đối, mọi sự thật quá đơn giản.
Sáng hôm sau, khi đã gần tới trưa, Buck dẫn đầu cả đàn dài tiến lên con phố. Chẳng có gì vui vẻ, hân hoan trong việc đó cả, Buck và lũ bạn của nó không có chút hào hứng gì. Chúng khởi hành mà thấy người mệt mỏi rã rời tưởng như chỉ muốn gục xuống. Nó đã di chuyển trên quãng đường nối Salt Water với Dawson đến bốn lần, chán ngấy và mệt mỏi, nó biết rằng mình sẽ phải vượt qua quãng đường ấy một lần nữa, việc đó khiến nó cay đắng và đau khổ. Nó chẳng có lòng dạ nào mà làm việc, những con chó khác cũng vậy. Mấy con chó ngoại lai thì nhút nhát và khiếp sợ, những con chó bản địa thì chẳng có chút tin tưởng nào vào chủ nhân của chúng.
Buck mơ hồ cảm thấy không thể dựa dẫm gì được vào hai gã đàn ông và ả đàn bà này. Họ chẳng biết làm một việc gì, nhiều ngày trôi qua càng cho thấy rõ là họ đã chẳng hề học hỏi thêm được chút nào trong thực tế. Họ chậm chạp trong mọi thứ, không có kỷ luật và trật tự gì cả. Họ mất đến nửa buổi tối để hạ trại và sắp xếp được một chỗ nghỉ chân cẩu thả, mất đến nửa buổi sáng để nhổ trại và tất cả đồ được chất tạm lên xe một cách úi xùi đến nỗi cả ngày hôm đó, họ loay hoay, bận bịu suốt với việc dừng xe và sắp xếp lại đồ. Vài ngày trôi qua mà họ không đi nổi mười dặm. Còn những ngày khác thì họ thậm chí không thể khởi hành nổi. Và không ngày nào họ đi được một nửa quãng đường mà người ta thường dùng làm cơ sở tính toán so với lượng thức ăn dành cho đàn chó.
Chắc chắn sẽ đến thời điểm thiếu thức ăn cho lũ chó. Và họ khiến thời điểm đó đến nhanh hơn bằng việc cho đàn chó ăn quá khẩu phần cần thiết, và cái ngày mà họ buộc phải cắt giảm quá mức lượng thức ăn thiết yếu cho chúng càng lúc càng gần hơn. Những con chó ngoại lai với hệ tiêu hóa vẫn chưa được rèn luyện qua những trận đói kinh niên để có thể tồn tại với lượng thức ăn ít ỏi, lao vào ăn ngấu nghiến. Thêm vào đó, khi thấy những con chó kéo xe tàn tạ, với sức khỏe đã kiệt quệ, chỉ kéo được một cách yếu ớt, Hal quyết định rằng lượng thức ăn theo đúng tiêu chuẩn là quá ít. Thế là hắn tăng gấp đôi khẩu phần. Và để khiến tình hình tồi tệ thêm, Mercedes với đôi mắt xinh đẹp và giọng nói run run trong cổ họng, khi không thể dụ dỗ được em trai cho đàn chó ăn nhiều hơn nữa, đã ăn cắp những con cá trong túi và lén lút mang cho lũ chó. Nhưng thứ mà Buck và lũ bạn đồng hành của nó cần không phải là thức ăn mà là sự nghỉ ngơi. Mặc dù đoạn đường mà chúng vượt qua chẳng xa xôi gì, nhưng khối lượng lớn đồ dùng chất nặng trên chiếc xe trượt tuyết mà chúng kéo phía sau đang hủy hoại sức khỏe của chúng một cách trầm trọng.
Và rồi cái ngày thiếu ăn cuối cùng cũng đến. Một hôm Hal nhận ra rằng lượng thức ăn cho đàn chó đã vơi một nửa trong khi mới đi được một phần tư quãng đường; hơn nữa, dù muốn cũng chẳng biết kiếm đâu ra thức ăn cho chó nữa. Thế là hắn cắt giảm khẩu phần ăn xuống dưới mức tiêu chuẩn và cố gắng tăng thêm quãng đường di chuyển mỗi ngày. Chị gái và anh rể ủng hộ hắn; nhưng họ chỉ càng lúc càng nản lòng hơn bởi đống hành lý nặng nề và sự yếu kém của họ. Việc cho đàn chó ăn ít đi thật dễ dàng; nhưng để khiến chúng di chuyển nhanh hơn thì lại là chuyện khác, đó là nhiệm vụ bất khả thi, trong khi việc họ không thể khởi hành sớm vào buổi sáng càng rút ngắn quãng thời gian di chuyển trên đường. Không những họ không biết cách điều khiển lũ chó lao động một cách hiệu quả, mà chính bản thân họ cũng chẳng biết phải làm việc như thế nào cho tốt.
Con chó đầu tiên ra đi là Dub. Nó đúng là tên trộm vụng về đáng thương, lúc nào cũng bị tóm khi lén xoay xở lấy cắp thức ăn và bị trừng phạt, mặc dù vậy nó là con chó luôn làm việc tận tụy và đầy trách nhiệm. Chỗ xương vai bị trật khớp của nó, không được chữa trị và không được nghỉ ngơi, càng lúc càng trở nên trầm trọng, cuối cùng Hal phải bắn chết nó bằng khẩu súng lục ổ quay của hắn. Ở vùng đất lạnh giá này, người ta thường truyền tai nhau một câu nói quen thuộc là một con chó ngoại lai sẽ bị đói đến chết nếu được cho ăn theo khẩu phần của chó kéo xe bản địa, thế là sáu con chó ngoại lai không có kết cục nào khác là cái chết khi chúng chỉ được ăn một nửa khẩu phần của một con chó kéo xe bản địa. Con chó Newfoundland ra đi trước tiên, sau đó là ba con chó săn lông ngắn, hai con chó lai thì gan lì bấu víu lấy cuộc sống hơn nhưng cuối cùng cũng có kết cục tương tự.
Đến lúc này, tất cả sự hòa nhã và dịu dàng của vùng đất phương nam đã biến mất khỏi ba con người kia. Đối với họ, cuộc hành trình ở vùng đất phương bắc lạnh giá đã mất đi tất cả sự lãng mạn và vẻ quyến rũ, trở thành một thực tế quá khắc nghiệt, không phù hợp với chất nữ tính và nam tính trong con người họ. Mercedes không còn khóc lóc xót thương những con chó nữa, cô ta còn bận bịu khóc lóc xót thương cho chính bản thân mình và bận cãi vã với chồng và em trai. Cãi vã là điều duy nhất họ làm mà không bao giờ cảm thấy chán. Sự khổ cực khiến họ trở nên cáu kỉnh, và càng khổ cực bao nhiêu thì họ càng dễ cáu kỉnh bấy nhiêu. Sự nhẫn nại tuyệt vời ở những con người dù phải chịu đựng nhiều khổ đau, dù phải lao động cực nhọc trên vệt đường mòn, nhưng vẫn giữ được lời nói dịu dàng và tử tế, không tồn tại ở hai gã đàn ông và ả phụ nữ này. Họ không có một chút xíu nào sự nhẫn nại đó. Họ nghiệt ngã và đau khổ, các cơ bắp của họ tê liệt, xương khớp họ đau đớn, cả trái tim họ cũng nhức nhối. Vì lẽ đó, chỉ có những lời lẽ cay nghiệt thốt ra từ miệng họ suốt từ sáng cho đến tối mịt.
Charles và Hal cãi lộn, ẩu đả bất cứ khi nào Mercedes cho họ cơ hội. Ai cũng nghĩ trong lòng rằng họ đã phải làm nhiều hơn phần việc của mình và bất cứ khi nào có cơ hội họ đều nói ra điều đó không chút kiềm chế. Đôi lúc Mercedes đứng về phía chồng, nhưng có những lúc cô ta lại bênh vực em trai. Và kết quả là cuộc cãi vã gia đình hay ho đó cứ kéo dài liên tu bất tận. Bắt đầu bằng cuộc cãi cọ xem ai sẽ là người chẻ vài que củi để nhóm lửa (cuộc cãi cọ này chỉ liên quan đến Charles và Hal thôi), chẳng bao lâu sau thì tất cả những thành viên khác trong gia đình đều bị lôi vào để mà xỉa xói, những ông bố, những bà mẹ, những ông chú, ông bác, những anh chị em họ, những con người đang ở cách xa đến cả nghìn dặm, trong số đó có cả những người đã không còn sống trên đời nữa. Rồi là quan điểm của Hal về nghệ thuật, hay những vở kịch về giới thượng lưu mà em trai của mẹ anh ta đã viết thì có liên quan gì đến việc chẻ vài thanh củi để nhóm lửa? Chẳng ai biết, quả đúng là vượt quá khả năng một người có thể hiểu được. Ấy thế mà, cuộc cãi vã lúc nào cũng tiến triển theo chiều hướng đó, cũng như xoay sang việc đả kích những thành kiến chính trị của Charles vậy. Và rằng cái thói hay đưa chuyện của chị gái Charles có liên quan đến việc nhóm một ngọn lửa bên bờ sông Yukon hay không thì chỉ có Mercedes mới có thể hiểu được, cô ta tha hồ thể hiện cả đống quan điểm liên quan đến chủ đề này, và nhân tiện được dịp chì chiết luôn vài đặc điểm kỳ dị chẳng mấy dễ chịu của gia đình nhà chồng. Trong lúc đó thì ngọn lửa vẫn chưa được nhóm lên, cái lều thì được dựng dở dang và những con chó thì chưa được cho ăn.
Mercedes lúc nào cũng ấp ủ trong lòng một sự bất mãn đặc biệt - sự bất mãn mang đặc điểm của giới tính. Cô ta xinh đẹp và ủy mị, và khi còn trẻ luôn được người khác đối xử một cách hào hiệp. Nhưng cách cư xử hiện tại của chồng và em trai cô ta thì chẳng có một chút hào hiệp nào. Cô ta mặc định yếu ớt và luôn cần có người để nương tựa là đặc quyền của bản thân. Hai người đàn ông kêu ca, phàn nàn, quở trách cô ta. Thế là, bực tức vì cái điều mà cô ta cho là quyền cơ bản nhất của phụ nữ và cũng là của cô ta bị họ lôi ra chê trách, Mercedes quyết làm cho cuộc sống của họ trở nên không thể chịu đựng nổi. Cô ta chẳng đếm xỉa gì đến những con chó nữa, bởi vì cô ta đang đau đớn và mệt mỏi, cô ta nhất quyết đòi ngồi lên chiếc xe trượt tuyết. Cô ta xinh đẹp và yếu đuối, nhưng cô ta nặng đến hơn năm mươi tư cân, là thứ nặng nhất trong cái đống cồng kềnh mà những con vật đói ăn và yếu lả kia đang phải kéo phía sau. Cô ta ngồi trên đó nhiều ngày, cho đến khi đàn chó gục xuống và chiếc xe đứng im một chỗ. Charles và Hal van nài cô ta hãy xuống xe và tự đi bộ, dùng đủ mọi lý lẽ, cầu xin cô ta, trong khi đó thì cô ta khóc lóc và trách móc Thượng đế, kể lể lại hành động tàn nhẫn của họ.
Một lần, họ phải dùng vũ lực để buộc cô ta xuống xe. Và họ không bao giờ lặp lại điều đó nữa. Cô ta khập khiễng kéo lê đôi chân chẳng khác nào một đứa trẻ hư làm mình làm mẩy và ngồi bệt xuống đường. Họ tiếp tục đi nhưng cô ta vẫn không nhúc nhích. Sau khi đi được ba dặm, họ dỡ đống đồ trên xe xuống và quay trở lại chỗ cô ta, và dùng sức nhấc cô ta ngồi lên chiếc xe lần nữa.
Khi sự khổ cực vượt quá sức chịu đựng, họ trở nên nhẫn tâm và chai sạn với những đau đớn của đàn chó. Hal lý luận rằng người ta phải trở nên chai lì và cứng rắn hơn. Gã trai trẻ bắt đầu thuyết giảng điều đó với chị gái và anh rể. Khi việc này thất bại, hắn dùng gậy để thuyết giáo điều đó với đàn chó. Khi đi đến thác Five Fingers thì thức ăn cho chó đã cạn sạch, một người đàn bà da đỏ đã nhiều tuổi, mồm móm mém vì rụng sạch răng chào mời họ đổi vài cân da ngựa đã đóng băng để lấy khẩu súng lục ổ quay mà lúc nào Hal cũng đeo bên hông cùng với con dao săn to. Mớ da ngựa đó là thứ thức ăn thay thế tồi tệ, là mớ da của những con ngựa chết đói của đám dân chăn bò và được lột từ sáu tháng trước. Chúng bị đông cứng lại trông chẳng khác nào những dải sắt tráng kẽm, và khi lũ chó cố tọng cái thứ ấy vào dạ dày của chúng, thì nó sẽ tan chảy ra thành những dải da mỏng dai nhách và những mớ lông ngắn chẳng có chút dưỡng chất nào, chỉ góp phần gây khó tiêu và khiến dạ dày trở nên óc ách, khó chịu.
Mặc dù vậy, Buck vẫn loạng choạng bước đi, dẫn đầu cả đàn như đi trong một cơn ác mộng. Nó vẫn gắng gượng kéo khi còn có thể; và khi không thể kéo được nữa thì nó gục xuống, nằm im tại chỗ cho đến khi trận mưa đòn bằng roi da và gậy tới tấp đổ xuống buộc nó phải đứng lên. Bộ lông đẹp đẽ của nó không còn khỏe mạnh và bóng mượt nữa, mà xẹp xuống, ủ rũ và tả tơi, hoặc bết lại vì máu khô ở những chỗ mà cái gậy của Hal tàn bạo giáng xuống. Cơ bắp của nó bị hủy hoại, trở thành những thớ thịt lồi lõm, phần đệm thịt ở gan bàn chân không còn nữa, từng cái xương trong bộ khung của nó nhô ra và thấy rõ qua lớp da trùng nhăn nheo vì bên trong chẳng có gì hết. Vẻ ngoài trông nó mới thật khốn khổ làm sao, nhưng dũng khí của nó thì không thứ gì có thể bẻ gãy. Gã đàn ông mặc áo len đỏ đã chứng minh điều đó.
Tình cảnh của Buck như thế nào thì đám bạn kéo xe của nó cũng hệt như vậy. Chúng chẳng khác gì những bộ xương di động. Có tất cả bảy con chó, bao gồm cả Buck. Trong nỗi khốn khổ cùng cực, chúng đã trở nên vô cảm với những đòn đánh nhức nhối của roi da hay gậy gộc. Sự đau đớn vì bị đánh đập trở nên mơ hồ và không rõ rệt. Không phải là chúng đang nửa sống nửa chết, cũng không phải chúng đã chết đến ba phần và chỉ còn một phần sống. Chúng chỉ đơn thuần là những cái túi đựng xương mà ở đó, tia sáng của sự sống le lói, chập chờn một cách yếu ớt. Khi có lệnh dừng lại, chúng gục xuống trong vòng dây cương như thể đã chết thật rồi, tia sáng của sự sống mờ đi, yếu dần, dường như tắt hẳn. Và khi cái gậy hoặc cái roi da quất xuống tới tấp, tia sáng đó lại chập chờn, le lói, lay động, chúng loạng choạng và lảo đảo đứng lên.
Rồi cũng đến cái ngày Billee, con chó hiền lành gục xuống và không đứng lên được nữa. Hal đã bán khẩu súng của hắn rồi, thế là hắn bèn đi lấy cái rìu, bổ xuống đầu Billee khi nó đang nằm gục trong vòng dây cương, sau đó chặt cái xác ra khỏi bộ yên cương và vứt sang bên đường. Buck nhìn thấy, đám bạn của nó cũng nhìn thấy, và chúng hiểu rằng sớm muộn gì kết cục ấy cũng xảy đến với chúng. Ngày hôm sau, con chó tiếp theo ra đi là Koona, năm con chó còn lại vẫn sống nhưng Joe chẳng còn là con chó xảo quyệt, dữ tợn như xưa nữa; Pike thì yếu rũ và khập khiễng, dường như chỉ tỉnh táo được một nửa, không đủ tỉnh táo để giả ốm và trốn việc như trước; Sol-leks, con chó một mắt vẫn cần mẫn kéo xe trong vòng yên cương trên vệt đường mòn, tình cảnh của nó cũng thật đáng thương, nó đã trở nên quá yếu; Teek dù không phải di chuyển nhiều vào mùa đông năm đó, nhưng đến giờ đã chán nản, ủ rũ và tuyệt vọng hơn những con chó khác vì ít kinh nghiệm hơn; và Buck, vẫn ở vị trí đầu đàn, nhưng không còn cố gắng duy trì kỷ luật và buộc những con chó khác tuân lệnh nữa, phân nửa thời gian nó yếu đến nỗi mắt mờ đi chẳng còn nhìn thấy gì, cố gắng tiếp tục tiến bước vì nhìn thấy hình ảnh lờ mờ của con đường phía trước và cảm giác mơ hồ không rõ rệt ở dưới chân.
Khi ấy đang là mùa xuân, tiết trời rất đẹp và dễ chịu nhưng cả người lẫn chó đều chẳng nhận thấy. Mỗi ngày trôi qua, mặt trời mọc sớm và lặn muộn. Ban ngày, bình minh lên vào lúc ba giờ sáng và hoàng hôn kéo dài cho đến tận chín giờ tối. Suốt cả ngày dài, ánh nắng mặt trời chiếu sáng chói chang. Sự tĩnh lặng ma quái của mùa đông đã nhường chỗ cho tiếng thì thầm, rì rào, róc rách của mùa xuân khi sự sống bừng sôi, trỗi dậy. Những âm thanh ấy hân hoan vang lên từ khắp nơi trên vùng đất, những sinh vật sống, những thứ tưởng chừng như đã chết, nằm im lìm suốt nhiều tháng dài lạnh giá lại bắt đầu chuyển động. Nhựa sống lại trào dâng trong những thân cây thông. Chồi non đang nhú lên trên những cây liễu và cây dương. Những bụi cây và dây leo khoác lên mình bộ quần áo mới xanh non mơn mởn. Những con dế cất tiếng hát trong đêm, và ban ngày, những sinh vật sột soạt bò ra phơi mình dưới ánh nắng. Gà gô và chim gõ kiến xuất hiện đầy trong rừng. Những con sóc líu ríu, huyên thuyên luôn mồm, những chú chim cất tiếng hót, và phía trên bầu trời trong xanh, những đàn chim di cư từ phương nam kêu ầm ĩ, bóng dáng mảnh mai của chúng như xé toạc cả không trung.
Trên những sườn đồi dốc, nước đang róc rách chảy, tạo nên thứ âm thanh du dương của những dòng suối vô hình. Tuyết tan, tất cả như đang vặn mình, hân hoan, hồ hởi phát ra những tiếng lách tách. Dòng sông Yukon oằn mình phá vỡ lớp băng kìm hãm nó. Lớp băng tự tan từ bên dưới; còn mặt trời thì làm tan băng ở phía trên. Những lỗ khí xuất hiện, những vết nứt lan ra, những mảng băng mỏng rơi xuống và trôi theo dòng nước. Và giữa tất cả những âm thanh, những hoạt động sôi nổi, rộn ràng của sự sống đang thức giấc, dưới ánh nắng chói chang của mặt trời và làn gió nhẹ đang rì rào thổi qua, hai người đàn ông cùng một phụ nữ và đàn chó kéo xe loạng choạng bước đi, như những vị khách bộ hành đang bước về phía Thần chết.
Những con chó liên tục ngã gục xuống, Mercedes khóc lóc và ngồi riết trên xe, Hal thốt ra những câu nguyền rủa vô thưởng vô phạt, đôi mắt của Charles thì lúc nào cũng ướt át, buồn bã, cả đoàn lảo đảo tiến đến gần nơi hạ trại của John Thornton ở cửa sông White. Khi họ dừng lại, những con chó gục xuống như thể chúng bị đánh đập đến chết. Mercedes lau khô nước mắt và nhìn John Thornton. Charles ngồi xuống một khúc gỗ mới xẻ để nghỉ ngơi. Anh ta ngồi xuống một cách từ từ, chậm rãi bởi vì khắp nơi trên cơ thể đều đang mỏi nhừ, ê ẩm khiến mọi cử động đều khó khăn, đau đớn. Hal là người lên tiếng trước. John Thornton đang đẽo những nhát cuối cùng để hoàn chỉnh cái tay cầm bằng gỗ bạch dương cho một chiếc rìu, vừa đẽo vừa nghe Hal nói, đáp lại bằng những câu vỏn vẹn một âm tiết, và khi được hỏi thì đưa ra lời khuyên cũng ngắn gọn như vậy. Thornton chẳng lạ gì kiểu người giống như mấy người này, và anh đưa ra lời khuyên mà biết chắc chắn rằng họ sẽ chẳng nghe theo.
“Ở phía trên kia họ nói với chúng tôi rằng lớp băng dưới bề mặt đang tan, đáy con đường đang lún dần và có thể vỡ nên tốt nhất là chúng tôi nên dừng lại.” Hal nói để đáp lại lời cảnh báo của Thornton bảo họ đừng có liều lĩnh di chuyển trên mặt băng đang tan nhanh và càng lúc càng trở nên mỏng hơn. “Họ nói rằng chúng tôi không thể đến được sông White, vậy mà bây giờ chúng tôi đang ở đây.” Hal nói câu cuối cùng đó với vẻ giễu cợt đầy hân hoan của kẻ chiến thắng.
“Họ nói đúng đấy.” John Thornton trả lời. “Băng đang tan từ bên dưới và đáy con đường chắc chắn sẽ sụt xuống bất kỳ lúc nào. Chỉ những kẻ ngốc với cái vận may mù quáng của những thằng khờ mới dám đi qua đấy. Để tôi nói thẳng với anh nhé. Dù có được tất cả vàng của Alaska đi nữa, tôi sẽ không đánh liều đem cái thân xác này của mình để mà bước lên mặt băng đó đâu.”
“Tôi đoán đó là bởi vì anh không phải một thằng khờ chứ gì?” Hal nói. “Đằng nào cũng thế, chúng tôi sẽ tiếp tục đi đến Dawson.” Nói xong gã duỗi thẳng cái roi ra. “Đứng dậy nào, Buck! Đứng dậy! Lên đường thôi!”
Thornton lại tiếp tục việc đẽo gọt của mình. Anh biết rằng chẳng lợi lộc gì khi xen vào giữa một kẻ ngu ngốc và sự điên rồ của hắn; trong khi đó, thêm hay bớt hai hay ba tên ngốc cũng chẳng thay đổi được trật tự sắp đặt của vạn vật.
Nhưng đàn chó không đứng lên khi được ra lệnh. Đã từ rất lâu rồi, Hal phải dùng đến đòn roi mới có thể buộc chúng đứng dậy. Chiếc roi vung lên, giáng xuống chỗ này, chỗ kia một cách tàn nhẫn không thương xót. John Thornton mím chặt môi. Sol-leks là con vật đầu tiên cố đứng dậy. Tiếp theo là Teek, rồi đến Joe, vừa đứng lên vừa kêu la đau đớn. Pike cũng đang cố sức. Hai lần nó gục xuống, đến lần nỗ lực thứ ba, cuối cùng nó cũng đứng lên được, dù lảo đảo và tưởng như sắp khuỵu xuống đến nơi. Nhưng Buck không đứng dậy, nó vẫn nằm im ở đúng nơi đã gục xuống. Cái roi quất lên nó hết lần này đến lần khác, nhưng nó chẳng rên rỉ vì đau đớn cũng chẳng lồng lộn chống trả. Vài lần Thornton định lên tiếng nhưng rồi lại thôi. Đôi mắt anh ươn ướt, và khi cái roi vẫn tiếp tục quất xuống, anh liền đứng lên, phân vân, lưỡng lự.
Đây là lần đầu tiên, Buck yếu đến như vậy, và chỉ riêng việc đó thôi cũng đủ khiến Hal nổi khùng. Hắn thay chiếc roi bằng gậy. Buck vẫn nhất quyết không chịu nhúc nhích dưới trận mưa đòn ác liệt. Giống như những bạn kéo xe của mình, thực ra nó vẫn có thể đứng dậy được, nhưng không giống như chúng, Buck nhất quyết gan lì không đứng lên. Nó lờ mờ cảm thấy tai họa đang đến gần. Cảm giác đó bao trùm và rất rõ ràng khi nó kéo chiếc xe đến bờ sông, rồi dai dẳng đeo bám, chưa chịu rời đi. Suốt cả ngày, nó luôn thấy như lớp băng dưới chân đang tan ra, mỏng dần và nứt vỡ, dường như nó cảm nhận được tai họa đang gần kề trên mặt băng ở phía trước kia, ngay nơi mà chủ nhân của nó đang buộc nó phải đi qua. Nó nhất quyết không chịu nhúc nhích. Sự đau đớn mà nó đang phải chịu đựng mới thật khủng khiếp làm sao, và cứ như thể nó đang ở nơi nào đó xa xôi lắm, đến nỗi chẳng còn cảm thấy đau đớn nữa. Khi những đòn roi tàn bạo tiếp tục giáng xuống, tia sáng của sự sống cứ chập chờn và dần tàn lụi. Tia sáng ấy sắp tắt hẳn. Nó cảm thấy tê dại một cách kỳ lạ. Như thể từ một khoảng cách rất xa xôi, nó nhận thức được là mình đang bị đánh. Thế rồi những cảm giác đau đớn cuối cùng rời xa nó. Nó chẳng còn cảm thấy gì nữa, mặc dù nó có thể nghe thấy một cách mơ hồ tiếng cái gậy nện xuống cơ thể. Nhưng cơ thể đó dường như không còn là của nó nữa, mà đã trở nên xa lắm rồi.
Bất chợt, không một lời cảnh báo, thốt ra một tiếng thét không rõ ràng và giống tiếng thét của một con vật hơn là con người, John Thornton lao vào gã đàn ông đang cầm cái gậy. Hal bị hất mạnh về phía sau, như thể một thân cây đổ vừa quật vào hắn. Mercedes thét lên.
Charles lờ đờ nhìn lên vẻ buồn bã, quệt đôi mắt ươn ướt nhưng vẫn không đứng dậy vì cơ thể vẫn còn cứng đờ, đau đớn.
John Thornton đứng trước Buck, cố kiềm chế cảm xúc, cả người anh run lên vì giận dữ, không thốt được nên lời.
“Nếu mày còn đánh con chó nữa, tao sẽ giết mày.” Cuối cùng anh cũng cố nói được với giọng uất hận.
“Nó là chó của tao.” Hal đáp lại, đưa tay quệt vết máu chảy ra trên khóe miệng khi đứng dậy. “Đừng có xía vào chuyện của tao, nếu không tao sẽ cho mày biết tay. Tao còn phải đi đến Dawson.”
Thornton đứng chắn giữa Hal và Buck, chẳng tỏ vẻ là có ý định tránh khỏi chuyện riêng của hắn. Hal rút con dao đi săn dài của mình ra. Mercedes hét lên, gào khóc rồi bật cười điên dại. Thornton dùng cái tay cầm của chiếc rìu đập nhẹ vào tay Hal khiến con dao rơi xuống. Khi Hal xoay xở định nhặt con dao lên, anh lại đập vào tay hắn lần nữa. Rồi anh cúi xuống, cầm lấy con dao và chỉ với hai nhát đã cắt đứt sợi dây da nối Buck với chiếc xe.
Cơn hăng máu của Hal đã nguội đi. Thêm nữa là chị của hắn đã lao vào túm chặt lấy tay hắn, hay nói đúng hơn là níu chặt lấy cánh tay hắn; còn Buck thì cũng gần chết nên chẳng thể kéo xe được nữa. Vài phút sau, cả đoàn lại tiếp tục lên đường, xuôi xuống dòng sông. Buck nghe thấy họ rời đi, nó ngẩng đầu nhìn lên, Pike đang dẫn đầu cả đàn, Sol-leks ở phía cuối, ở giữa là Joe và Teek. Chúng lảo đảo, khập khiễng tiễn bước. Mercedes ngồi trên chiếc xe chất nặng đồ đạc. Hal ở cần điều khiển còn Charles chật vật ở phía sau.
Trong khi Buck đang dõi theo đám người và chó ấy, Thornton quỳ xuống bên nó, bàn tay xù xì chai sạn nhưng dịu dàng, dò dẫm tìm xem có chỗ xương nào bị gãy không. Sau khi kiểm tra xong, anh chỉ thấy có vô số những vết thâm tím, bầm dập và tình trạng đói ăn khủng khiếp. Trong lúc đó, chiếc xe đã đi được một phần tư dặm. Buck và Thornton nhìn chiếc xe được kéo lê trên mặt băng. Bất chợt họ trông thấy phần đuôi phía sau thụt xuống, như thể bị lún vậy, chỗ cần điều khiển mà Hal đang giữ chổng ngược lên. Tiếng thét của Mercedes vẳng đến tai họ. Họ nhìn thấy Charles quay đầu và định bỏ chạy, và rồi một mảng băng lớn vỡ ra, chẳng còn thấy bóng dáng cả chó lẫn người đâu nữa, chỉ còn lại cái hố to há miệng rộng hoác. Phần đáy của con đường đã sụt xuống.
John Thornton và Buck nhìn nhau.
“Tội nghiệp! Cái con quỷ đáng thương này.” John Thornton nói, và Buck liếm tay anh.