"Ê quả đúng như tôi đã nói. Tôi đã không sai khi nói con Buck đó bằng hai con quỷ mà.” Đó là những gì Francois thốt lên vào sáng hôm sau khi anh ta phát hiện ra Spitz đã biến mất và trên mình Buck đầy những vết thương. Anh ta kéo Buck đến gần ánh sáng của ngọn lửa và chỉ vào những vết thương đó.
“Con Spitz đó cắn mới khiếp làm sao.” Perrault nói khi anh ta xem xét những vết cắn và vết xé toạc đang há miệng trên cơ thể Buck.
“Và con Buck thì khủng khiếp gấp hai lần thế.” Francois trả lời. “Bây giờ thì tình hình sẽ tốt hơn. Không còn Spitz thì không còn rắc rối nữa, chắc chắn đấy.”
Khi Perrault gói ghém đồ đạc của khu trại và chất lên xe trượt tuyết, thì Francois thắng yên cương cho đàn chó. Buck lon ton tiến đến chỗ của con đầu đàn mà trước đây là vị trí của Spitz; nhưng Francois chẳng để ý gì đến nó, đưa Sol-leks vào vị trí đó. Trong suy nghĩ của anh ta, trong số những con chó còn lại, Sol-leks là con chó đầu đàn phù hợp nhất. Buck cuồng nộ nhảy bổ vào Sol-leks, đuổi nó ra và đứng vào vị trí dẫn đầu cả đàn.
“Ê, ê, xem này!” Francois kêu lên, vỗ đùi đèn đẹt một cách khoái chí. “Nhìn con Buck kìa. Nó đã giết con Spitz đó và nghĩ sẽ thay thế vị trí của con Spitz cơ đấy.”
“Đi đi, ra chỗ khác!” Anh ta nói to, nhưng Buck nhất quyết không chịu nhúc nhích.
Anh ta tóm vào gáy Buck và dù con chó gầm gừ đe dọa, anh ta vẫn lôi nó sang bên và đưa Sol-leks vào vị trí đó. Con chó già chẳng thích thú gì việc này, và nó cũng tỏ rõ là nó sợ Buck. Francois vẫn kiên quyết và không lay chuyển, nhưng khi anh ta quay lưng đi thì Buck đã đứng vào vị trí thay cho Sol-leks, và con chó già cũng chẳng phản đối.
Francois giận dữ. “Nào, thế thì tao sẽ cho mày biết tay!” Anh ta kêu lên, và quay trở lại với chiếc gậy to trong tay.
Buck vẫn chưa quên gã đàn ông mặc áo len đỏ, và thế là nó từ từ lùi lại; nó không cố tấn công Sol-leks khi con chó già một lần nữa được đưa vào vị trí đầu đàn. Nhưng nó chạy quanh ngoài tầm với của chiếc gậy, gầm gừ cuồng nộ; và khi chạy quanh như vậy, nó vẫn không rời mắt khỏi chiếc gậy, đề phòng nếu Francois ném cây gậy về phía mình thì nó sẽ nhảy tránh ra, nó đã trở nên khôn ngoan hơn và hiểu rõ hơn về những cái gậy đó. Người điều khiển chó tiếp tục công việc của mình, anh ta gọi Buck lại để đưa nó vào vị trí cũ trước đây, phía trước Dave. Buck lùi lại khoảng hai, ba bước. Francois đuổi theo, nhưng nó vẫn tiếp tục lùi lại. Một lúc sau, Francois ném cái gậy đi, nghĩ rằng Buck sợ bị đánh đòn. Nhưng Buck vẫn công khai chống đối. Điều mà Buck muốn không phải là thoát khỏi trận đòn, mà là vị trí của con đầu đàn. Nó xứng đáng được đứng vào đấy. Nó đã giành được vị trí đó, và nó sẽ không đồng ý bị xếp ở vị trí thấp kém hơn.
Perrault cũng tham gia vào. Cả hai người đàn ông cùng dồn đuổi Buck suốt gần một giờ đồng hồ. Họ ném gậy về phía nó. Nó chạy lắt léo né tránh. Họ chửi rủa nó, chửi rủa thế hệ cha mẹ, ông bà, cụ kị của nó, chửi rủa tất cả con cháu hậu duệ sau này của nó, từng sợi lông trên cơ thể nó, từng giọt máu chảy trong huyết mạch nó. Buck đáp lại những lời chửi rủa đó bằng tiếng gầm gừ và vẫn giữ khoảng cách để họ không đến gần được. Nó không bỏ trốn, mà chỉ chạy vòng quanh khu trại, thể hiện rõ cho họ thấy rằng khi nào mong muốn của nó được đáp ứng, nó sẽ ngoan ngoãn và vâng lời.
Francois ngồi xuống và vò đầu bứt tai. Perrault nhìn đồng hồ và nguyền rủa. Thời gian đang trôi đi, đáng lẽ họ đã lên đường từ một giờ đồng hồ trước rồi. Francois lại cào xới mái tóc của anh ta lần nữa. Anh ta lắc đầu và quay sang mỉm cười ngao ngán nhìn người đưa thư, người này nhún vai tỏ vẻ chấp nhận thua cuộc. Thế là Francois tiến đến chỗ Sol-leks đang đứng và gọi Buck lại. Buck mỉm cười, cười theo kiểu của lũ chó, nhưng vẫn giữ khoảng cách. Francois cởi dây cương của Sol-leks ra và đưa nó trở về vị trí cũ. Cả đàn đã được thắng yên cương và đứng tại vị trí sẵn sàng phía trước chiếc xe trượt tuyết, thành một hàng dài không đứt đoạn, sẵn sàng để lên đường. Không còn vị trí nào khác dành cho Buck ngoài vị trí dẫn đầu. Francois lại cất tiếng gọi và một lần nữa, Buck mỉm cười, đứng lùi xa ra.
“Ném cái gậy đi.” Perrault nói.
Francois làm theo, ngay lập tức Buck tiến lại, nở nụ cười của kẻ chiến thắng, nhún nhảy đứng vào vị trí dẫn đầu cả đàn. Dây cương được buộc vào người nó, chiếc xe trượt tuyết lao đi, và với hai người đàn ông chạy cùng, tất cả cùng tiến nhanh về phía trước trên vệt đường mòn.
Dù trước đây người điều khiển chó đã đánh giá Buck khá cao khi anh ta nói rằng một mình Buck bằng hai con quỷ cộng lại, nhưng Francois sớm nhận ra rằng anh ta đã đánh giá thấp Buck khi nói như vậy. Buck đảm nhiệm vị trí đầu đàn một cách cực kỳ trôi chảy; và bất cứ lúc nào cần đến sự trừng phạt, cần phải suy nghĩ và hành động một cách nhanh nhạy, nó đều chứng tỏ mình vượt xa cả Spitz, trước đó Francois nghĩ rằng anh ta chưa gặp được con chó nào tài giỏi hơn Spitz.
Buck tỏ ra rất xuất sắc khi thực thi và ép buộc những con chó khác tuân theo luật lệ. Dave và Sol-leks chẳng bận tâm về sự thay đổi của vị trí đầu đàn. Đó không phải việc của chúng. Việc của chúng là kéo xe, cần mẫn và cặm cụi, trong vòng dây cương. Chừng nào công việc không bị cản trở và quấy rầy, thì chúng chẳng buồn bận tâm đến những thứ khác. Ngay cả nếu Billee, con chó hiền như đất mà có làm con đầu đàn thì chúng cũng chẳng quan tâm, miễn sao nó giữ được trật tự và kỷ luật đàn chó. Nhưng những con chó khác đã trở nên ngỗ ngược vào những ngày cuối cùng của Spitz, giờ đây chúng vô cùng kinh ngạc khi Buck bắt đầu rèn chúng vào kỷ luật.
Pike, con chó trước đây chạy phía sau Buck, chẳng bao giờ làm nhiều hơn những gì mà nó buộc phải làm, có cơ hội sểnh ra là trốn việc và đi chơi; nhưng ngày hôm đó, chưa bao giờ thấy nó kéo xe năng nổ như vậy. Đêm đầu tiên hạ trại, Joe, con chó bẳn tính và hay cáu gắt, đã bị trừng phạt một trận đích đáng - việc mà trước đó Spitz chưa bao giờ thành công. Buck chỉ tận dụng ưu thế cân nặng của mình để khiến nó ngạt thở, liên tục tấn công cho đến khi nó thôi không đánh trả nữa và bắt đầu rên rỉ cầu xin tha thứ.
Cả đàn nhanh chóng lấy lại được tinh thần hăng hái chung. Sự đoàn kết trước đây được khôi phục, và một lần nữa những con chó lại cần mẫn và ngoan ngoãn lao đi trong vòng dây cương. Tại khu vực thác Rink, có hai con chó kéo xe nữa gia nhập đội; và Buck đã đưa chúng vào kỷ luật nhanh đến nỗi khiến Francois phải sửng sốt.
“Chưa bao giờ có con chó nào như con Buck đó!” Anh ta thốt lên. “Đúng là chưa bao giờ! Thề có Chúa, nó phải đáng giá cả ngàn đô la ấy chứ! Anh nghĩ sao, Perrault?”
Perrault gật đầu đồng ý. Anh ta sắp sửa đạt được mục tiêu cho chuyến đi kỷ lục của mình, từng ngày trôi qua, mục tiêu đó càng lúc càng gần hơn. Con đường mòn ở trong tình trạng rất thuận tiện cho việc di chuyển, mặt đường được nện chặt và cứng, không có tuyết lở rơi xuống gây trở ngại. Thời tiết cũng không quá lạnh. Nhiệt độ luôn duy trì ở mức âm năm mươi độ trong suốt chuyến đi. Hai người đàn ông thay phiên nhau đổi vị trí, những con chó luôn hối hả bận rộn, hiếm khi họ gặp phải rắc rối gì và chỉ thi thoảng dừng lại để nghỉ.
Con sông Thirty Mile gần như bị băng phủ kín, họ chỉ mất một ngày để đi qua đó trong khi để đến được đó phải mất mười ngày. Chỉ trong một lần chạy, họ đã vượt qua quãng đường sáu mươi dặm từ cuối hồ Le Barge đến thác White Horse1. Họ vượt qua hồ Marsh, Tagish, và Bennett (dãy hồ dài bảy mươi dặm). Đàn chó lao đi nhanh đến nỗi người đến phiên phải chạy bộ phía sau xe trượt chỉ còn cách túm lấy tít chỗ đầu mút của sợi dây thừng, và để cho chiếc xe lôi tuột mình theo sau. Vào đêm cuối cùng của tuần thứ hai, họ lên đến đèo White, rồi đi xuống con dốc bên bờ biển, ánh sáng tỏa ra từ những ngọn đèn của thị trấn Skaguay và những con tàu đang ở phía dưới chân họ.
1. Nghĩa là: Ngựa Trắng.
Đó là một chuyến đi kỷ lục. Trong suốt mười bốn ngày qua, trung bình mỗi ngày họ vượt qua quãng đường dài đến bốn mươi dặm. Suốt ba ngày, Perrault và Francois liên tục ném xuống và chất lên xe những rương và hòm dọc con phố chính của Skaguay, ngập lụt trong những lời mời nâng cốc, trong khi đó, đàn chó liên tục trở thành trung tâm của đám đông những người huấn luyện và điều khiển chó, họ thốt lên những lời ngưỡng mộ không che giấu. Nhưng rồi có ba hay bốn gã đàn ông da trắng xấu xa định đến cướp bóc thị trấn này, chúng bị bắn chết, đạn găm vào người chúng chi chít chẳng khác nào các lỗ trên lọ hạt tiêu, và thế là sự quan tâm của công chúng lại chuyển sang những người hùng khác. Rồi mệnh lệnh của chính phủ được đưa đến. Francois gọi Buck lại gần, anh ta quàng tay mình quanh cổ nó, khóc lóc từ biệt. Đó là lần cuối cùng nó nhìn thấy Francois và Perrault. Giống như nhiều người khác, họ đi qua cuộc đời Buck và để lại trong nó những ấn tượng tốt đẹp.
Một anh chàng lai người Scotland tiếp nhận Buck và những người bạn đồng hành của nó, và cùng với mười hai đội chó khác, nó lại bắt đầu chuyến hành trình mệt mỏi quay trở lại Dawson. Lần này không còn nhẹ nhàng như trước nữa, cũng không có việc đạt được mục tiêu kỷ lục về thời gian, mà chỉ là những chuỗi ngày lao động cực nhọc với khối hàng nặng nề ở phía sau; bởi lẽ lần này là đoàn xe chở thư mang những lời nhắn từ khắp nơi trên thế giới đến những người đang tìm kiếm vàng trong bóng tối của vùng Địa Cực.
Buck không thích việc này, nhưng nó chịu đựng mà không than phiền gì, cảm thấy tự hào khi được làm việc - giống như Dave và Sol-leks, và lo liệu để những bạn đồng hành của nó, dù cho chúng có tự hào về công việc hay không, vẫn phải san sẻ và làm tốt phần việc của mình. Đó là cuộc sống đơn điệu và buồn tẻ, hoạt động đều như một cái máy. Mỗi ngày trôi qua giống như mọi ngày khác. Hằng sáng, vào một giờ nhất định, những người đàn ông thức dậy, họ nhóm lửa, rồi ăn bữa sáng. Khi một vài người khác nhổ trại, những người còn lại đóng yên cương cho lũ chó rồi họ lên đường khoảng một giờ trước khi đêm tối lùi xa báo hiệu bình minh đang đến. Khi đêm xuống, họ lại hạ trại. Người thì dựng lều, người thì chẻ củi và bẻ những cành cây vân sam để làm giường nằm, người thì đi lấy nước hoặc băng để nấu nướng. Rồi những con chó được cho ăn. Với chúng, đây là điều hấp dẫn nhất trong ngày, mặc dù sau khi đã ăn hết phần cá của mình, tha thẩn rong chơi khoảng một giờ đồng hồ cùng với những con chó khác cũng vui. Nhóm có khoảng hơn một trăm con chó, trong số đó có những con rất hung dữ, nhưng chỉ cần ba trận chiến với những con dữ tợn nhất là đủ đưa Buck lên vị trí nắm quyền lực, thế là sau đó, chỉ cần nó dựng lông lên và nhe nanh ra là chúng sẽ tránh đường để nó đi qua.
Nhưng có lẽ điều tuyệt vời hơn cả với Buck là nằm gần ngọn lửa, hai chân sau co lại bên dưới, hai chân trước duỗi ra phía trước mặt, đầu vươn cao, và đôi mắt mơ màng nhìn ngọn lửa. Thỉnh thoảng, nó nghĩ về ngôi nhà lớn của ngài thẩm phán Miller ở thung lũng Santa Clara ngập tràn ánh nắng, cái bể bơi bằng xi măng, hai con chó Ysabel và Toots; nhưng điều mà Buck thường hay nghĩ đến nhiều hơn cả là gã đàn ông mặc áo len đỏ, cái chết của Curly, cuộc chiến với Spitz, những thứ ngon lành mà nó đã ăn và muốn được ăn. Nó không thấy nhớ nhà. Vùng đất ngập tràn ánh nắng đã trở nên xa vời và mơ hồ, với lại những ký ức như thế chẳng có tác động gì tới nó. Thứ mạnh mẽ hơn và uy lực hơn là những ký ức mà nó được thừa hưởng qua di truyền, khiến những điều mà nó chưa từng thấy, chưa từng trải nghiệm trước đây có gì đó thật quen thuộc; những bản năng (chính là những ký ức của tổ tiên xa xưa đã trở thành thói quen) vốn đang dần mai một đi qua nhiều thế hệ, thì giờ đang ngày một sống lại trong nó.
Thỉnh thoảng, giữa lúc thu mình nằm đó, với đôi mắt mơ màng nhìn ngọn lửa, thì dường như đó là ánh lửa bập bùng phát ra từ một ngọn lửa khác, và nó nhìn thấy một người đàn ông khác hoàn toàn với anh chàng người lai Scotland đang ngồi trước mặt mình. Người đàn ông này có chân ngắn hơn và tay dài hơn, cơ bắp gầy và gân guốc chứ không tròn lẳn. Tóc của người này dài và bết lại, xỉn màu và mờ đục, còn cái trán thì vát về phía sau từ chỗ đôi mắt. Người đó thốt ra những âm thanh kỳ lạ và hình như rất sợ hãi bóng tối, liên tục liếc mắt về phía màn đêm dày đặc, bàn tay thõng xuống giữa đầu gối và bàn chân đang nắm chặt cái gậy với hòn đá buộc ở một đầu. Người đàn ông đó gần như trần truồng, một tấm da rách rưới với những vệt cháy sém vì lửa khoác trên vai che kín một phần lưng, nhưng cơ thể của người đó có rất nhiều lông. Ở vài chỗ, trên ngực và hai bên vai, xuôi xuống mặt ngoài của hai cánh tay và hai bên đùi được phủ một lớp lông thú dày. Người đó không đứng thẳng, mà phần thân từ hông trở lên hơi cúi về phía trước, chân hơi cong lại chỗ đầu gối. Toàn thân của người ấy có vẻ gì đó thật đặc biệt, co dãn, nhún nhảy, gần như đàn hồi; mang dáng dấp giống như mèo, với sự cảnh giác, lanh lợi của một người triền miên sống trong nỗi sợ những thứ vô hình và hữu hình.
Những lần khác, con người lông lá đó ngồi xổm bên ngọn lửa, đầu đặt giữa hai chân và nhắm mắt ngủ. Những lúc như thế, khuỷu tay của anh ta đặt trên đầu gối, hai bàn tay ôm chặt lấy đầu như thể muốn dùng đôi cánh tay lông lá để che mưa rơi xuống. Và phía bên kia ngọn lửa, trong bóng tối vây quanh, Buck có thể nhìn thấy rất nhiều những hòn than đỏ rực đang lóe lên, từng cặp từng cặp một, mà nó biết chắc đó là đôi mắt của những con thú lớn săn mồi. Còn phía sau những bụi cây, nó có thể nghe thấy những cơ thể va đập vào nhau và tiếng ồn ào mà chúng tạo ra trong bóng tối. Nó cứ mơ màng như thế, bên bờ của con sông Yukon, đôi mắt lờ đờ hấp háy nhìn ngọn lửa, những âm thanh và quang cảnh của một thế giới khác khiến lông trên lưng, trên vai và trên cổ nó dựng lên, nó bật ra tiếng rên rỉ khe khẽ như thể bị kìm nén, hoặc tiếng gầm gừ rất nhỏ, và thế là anh chàng người lai liền nói to với nó: “Này, Buck, tỉnh lại đi!” Thế là cái thế giới kia lập tức biến mất và thế giới thực trở lại trong đôi mắt nó, nó đứng dậy, ngáp dài và vươn vai như thể vừa thức dậy từ giấc ngủ.
Đó là một chuyến hành trình gian khổ, đống thư từ bưu kiện ở phía sau và công việc nặng nhọc khiến lũ chó dần kiệt sức. Khi đến được Dawson, tất cả chúng đều bị thiếu cân và ở trong tình trạng thảm thương, đến nỗi chúng cần đến mười ngày hoặc ít nhất là một tuần nghỉ ngơi mới lấy lại được sức lực. Nhưng chỉ hai ngày sau, chúng đã phải tiến xuống bờ sông Yukon gần khu doanh trại, mang nặng những lá thư để chuyển ra bên ngoài. Những con chó mệt mỏi, những người điều khiển chó trở nên cáu gắt, bẳn tính, thêm vào đó là tuyết rơi suốt nhiều ngày càng khiến tình hình tồi tệ hơn. Tuyết rơi dày khiến mặt đường mềm hơn, lực ma sát tác động vào càng xe nhiều hơn và những con chó sẽ phải kéo cật lực hơn; nhưng những người điều khiển chó luôn là những người công tâm, họ làm tất cả những gì tốt nhất cho đàn chó của mình.
Đêm nào những con chó cũng được ưu tiên chăm sóc trước nhất. Chúng được ăn trước khi người được ăn, và bàn chân của lũ chó luôn được xem xét cẩn thận và kỹ lưỡng trước khi những người đàn ông đi ngủ. Mặc dù vậy sức khỏe của chúng vẫn sa sút trầm trọng. Ngay từ đầu mùa đông, chúng đã phải di chuyển qua quãng đường dài một nghìn tám trăm dặm, kéo theo những chiếc xe trượt tuyết trên quãng đường dài mệt mỏi. Buck chịu đựng tất cả, nó vẫn luôn duy trì kỷ luật và thúc giục những con chó khác làm việc, mặc dù chính bản thân nó cũng mệt mỏi vô cùng. Billee kêu lên và rên rỉ hàng đêm trong giấc ngủ. Joe càng trở nên cáu bẳn hơn, Sol-leks thì chẳng ai đến gần được, dù là bên mắt mù hay bên mắt còn nguyên vẹn của nó.
Nhưng tình trạng của Dave là thảm thương hơn cả. Có gì đó không ổn với nó. Nó trở nên rầu rĩ và cáu kỉnh hơn, cứ khi nào hạ trại là nó lập tức đi tìm chỗ đào hố nằm ngủ, người điều khiển chó phải mang đồ ăn đến cho nó. Một lần, khi được tháo ra khỏi dây cương, nó gục xuống và không đứng dậy cho đến khi tới giờ lên đường vào sáng hôm sau. Đôi lúc, ở trong vòng dây cương, khi bị giật mạnh lúc chiếc xe dừng lại đột ngột hoặc lúc ban đầu phải kéo mạnh để chiếc xe lao đi, nó kêu thét lên đau đớn. Người điều khiển xe đã kiểm tra nó rất kĩ nhưng chẳng phát hiện được gì. Tất cả những người điều khiển xe khác đều rất lưu tâm đến tình trạng của nó. Họ trò chuyện về việc này trong giờ ăn, khi hút tẩu thuốc trước giờ đi ngủ, và một đêm, họ đã có một buổi bàn bạc nghiêm túc để đưa ra cách xử lý. Dave được mang từ chỗ nó nằm nghỉ đến gần ngọn lửa, họ nắn và bóp nó đến nỗi nhiều lần nó kêu thét lên đau đớn. Có gì đó không ổn ở bên trong, nhưng họ không phát hiện được cái xương nào bị gãy và cũng không lý giải được vì sao.
Khi đến được Cassiar Bar, Dave trở nên yếu đến mức nó liên tục gục xuống trong vòng dây cương. Anh chàng người lai Scotland buộc phải cho cả nhóm dừng lại và đưa nó ra khỏi đàn, để Sol-leks thay vào vị trí của nó. Ý định của anh ta là muốn Dave được nghỉ ngơi, nên để nó chạy tự do phía sau xe. Nhưng dù ốm yếu như vậy, Dave phật ý vì bị đưa ra ngoài, nó gầm gừ khi dây cương được tháo ra, rên rỉ đầy đau khổ khi nhìn thấy Sol-leks đứng vào vị trí mà nó đã đảm nhiệm và phục vụ trong suốt một thời gian dài. Nó luôn tự hào khi lao động trong vòng dây cương, và dù ốm yếu đến gần chết, nó không thể chịu đựng được việc một con chó khác làm công việc của nó.
Khi chiếc xe tiếp tục lên đường, nó loạng choạng bước trên lớp tuyết mềm, lết theo bên cạnh trên vệt đường mòn, dùng răng tấn công Sol-leks, liên tục thúc vào vai và đẩy Sol-leks ngã sang lớp tuyết mềm phía bên kia để buộc nó phải rời khỏi vị trí. Dave cố nhảy vào vòng dây cương, chen giữa Sol-leks và chiếc xe, suốt lúc đó, nó vẫn không ngừng rên rỉ, kêu thét lên vì đau đớn và sầu não. Anh chàng lai Scotland cố dùng roi đuổi nó ra, nhưng nó chẳng buồn bận tâm đến ngọn roi đang quất xuống đau nhói, và người đàn ông không nỡ lòng quất mạnh hơn. Dave nhất quyết không chịu chấp nhận công việc dễ dàng hơn là chạy trên đường mòn phía sau chiếc xe một cách nhẹ nhàng, không gánh nặng trên vai, nó tiếp tục loạng choạng bước bên cạnh trên lớp tuyết mềm, di chuyển ở chỗ đó khó khăn, vất vả hơn nhiều, cho đến khi nó mệt nhoài và kiệt sức. Thế là nó khuỵu xuống, nằm ngay tại nơi mà nó ngã gục, hú lên thảm thiết khi hàng dài những chiếc xe cuộn tung tuyết lao qua.
Với chút sức tàn cuối cùng, nó cố lảo đảo bước đi phía sau cho đến khi cả đoàn xe dừng lại một lần nữa, nó loạng choạng bước qua những chiếc xe khác cho đến khi tới được chỗ chiếc xe mà nó từng kéo, ở đó, nó đứng bên cạnh Sol-leks. Người điều khiển chó lưỡng lự một hồi, bước đến bên người đàn ông phía sau nhờ châm lửa cho chiếc tẩu của mình. Rồi anh ta quay lại và ra lệnh cho đàn chó tiếp tục lên đường. Nhưng khi cất bước để tiếp tục lao đi trên đường thì kỳ lạ thay, chúng đi nhẹ tênh và chẳng phải gắng sức gì cả, chúng băn khoăn quay đầu nhìn và sững lại, vô cùng sửng sốt. Người điều khiển chó cũng kinh ngạc chẳng kém; chiếc xe trượt tuyết không hề di chuyển. Anh ta gọi những người bạn của mình đến chứng kiến cảnh tượng đó. Dave đã cắn đứt hai sợ dây cương của Sol-leks, và đang đứng ngay phía trước chiếc xe, đúng vị trí của nó trước đây.
Qua đôi mắt nó, người ta hiểu nó đang cầu xin được tiếp tục đứng vào vị trí ấy. Người điều khiển chó bối rối. Những người bạn của anh ta nói rằng một con chó có thể đau khổ đến thế nào khi bị từ chối, không được làm công việc mà người ta biết nếu làm thì nó sẽ chết mất. Họ kể lại những trường hợp trước đây mà họ đã từng thấy, những con chó quá già yếu, hoặc là bị thương, không còn đủ sức để kéo xe nữa, chúng đã chết bởi vì bị đưa ra khỏi vòng dây cương. Thế là họ dành cho nó một ơn huệ, bởi vì sớm muộn gì Dave cũng sẽ chết, nên tốt nhất là để nó được chết trong vòng dây cương, như thế nó sẽ được toại nguyện và thấy nhẹ lòng. Thế là Dave lại được thắng cương, và nó lại tiếp tục kéo như trước đây, cảm thấy vô cùng tự hào, mặc dù nhiều lần nó thét lên vì cơn đau nhói buốt từ vết thương bên trong. Nhiều lần, nó ngã gục xuống và bị kéo lê đi, và một lần, chiếc xe đã chẹt qua nó, thế là từ lúc đấy, nó phải đi khập khiễng vì một chân sau bị thương.
Rồi nó cũng cố được cho đến khi đoàn xe dừng lại và hạ trại, người đánh xe dành cho nó một chỗ gần bên ngọn lửa ấm. Sáng hôm sau, người ta thấy nó đã quá yếu, không thể đi lại được nữa. Đến giờ thắng đai cương, nó cố bò đến chỗ người đánh xe. Nó ráng hết sức đứng lên, người run rẩy và co giật, nhưng rồi lại loạng choạng và ngã gục xuống. Thế là nó chậm chạp bò về phía trước, đến chỗ những người bạn của nó đã được thắng dây cương. Nó đưa hai chân trước ra, kéo lê cơ thể, nhích từng chút một. Nó đã quá kiệt sức rồi, điều cuối cùng những người đồng đội của nó nhìn thấy là nó nằm đó, thở hổn hển trên nền tuyết, nhìn về phía chúng đầy khát khao. Khi đã đi khuất hẳn sau những rặng cây gỗ lớn bên bờ sông, chúng vẫn nghe thấy tiếng nó hú lên sầu thảm.
Ở đây, đoàn xe dừng lại. Anh chàng người lai Scotland chậm rãi đi ngược trở về nơi hạ trại mà họ vừa rời đi. Những người đàn ông thôi không còn trò chuyện nữa. Một tiếng súng vang lên. Anh chàng lai vội vàng quay trở lại. Những chiếc roi vung lên, tiếng chuông leng keng vang lên hân hoan và vui vẻ, những chiếc xe lại tiếp tục xới tung tuyết trên vệt đường mòn. Nhưng Buck hiểu, và mọi con chó đều hiểu, điều gì đã xảy ra ở phía sau, nơi bị che khuất bởi những rặng cây thân gỗ lớn bên bờ sông.