“Thiền” bắt nguồn từ chữ “Thiền na”, mà ý nghĩa trong chữ “Thiền na” chính là “tĩnh lự”, muốn đạt được tĩnh lự thì cần phải trải qua sự vận hành của cả chỉ và quán, mà quán lại có “Thô tĩnh hành tướng quán” của Thế gian đạo và “Vô ngã quán” trong 16 hành tướng Tứ đế của Xuất thế gian đạo. Chứng quả của sự phối hợp này là không giống nhau, chúng ta có thể chia thiền pháp thành mấy loại như sau:
Thế gian tiệm thiền: trước tu chỉ, sau tu đắc Tứ thiền bát định của thế gian.
Xuất thế tiệm thiền: trước tu chỉ, sau đó phối hợp Tứ thiền bát định dùng Thế gian đạo lần lượt chứng đắc Tứ hướng tứ quả.
Xuất thế đốn thiền chi nhất: trước tu chỉ, sau nương vào Vị chí định dùng Xuất thế gian đạo chứng đắc Sơ quả, sau đó lại nương vào Vị chí định trực tiếp chứng đắc Tứ quả. Loại này là tuệ giải thoát A la hán, thuộc “Đốn xuất ly giả”.
Xuất thế đốn thiền chi nhị: trước tu chỉ, đồng thời còn phải thành thạo Tứ thiền bát định mà sau nương vào Xuất thế gian đạo chứng đắc Tam quả, sau nữa chứng đắc Tứ quả. Loại này thuộc “Siêu việt chứng giả”.
Thời kỳ của Đức Thế Tôn, thông thường đệ tử Thanh văn đều chứng Xa ma tha (chỉ) trước, sau đó nương vào Vị chí định dùng Xuất thế gian đạo chứng đắc Sơ quả, tiếp tục tiến tu mà đạt được giải thoát. Có một số đệ tử Thanh văn dùng phương pháp của ngoại đạo trước đây từng tu và chứng được Tứ thiền, sau này tiếp nhận giáo huấn của Thế Tôn, đem “quán” sửa đổi lại sao cho chân chính, vận dụng chỉ quán, lập tức chứng đắc Tam quả, tiếp theo tiến tu mà chứng đắc Tứ quả, loại này chính là “Siêu việt chứng giả” đã nói ở trên.
Về công đức của sự tu định thì trong Câu xá luận quyển 39 có viết:
“Tứ vô lượng tâm: Từ vô lượng tâm, Bi vô lượng tâm, Hỷ vô lượng tâm, Xả vô lượng tâm”.
“Bát giải thoát: Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát, Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát, Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ, Không vô biên xứ giải thoát, Thức vô biên xứ giải thoát, Vô sở hữu xứ giải thoát, Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát, Diệt thọ tưởng định giải thoát”.
“Bát thắng xứ: Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc thiểu, Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc đa, Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc thiểu, Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc đa, Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc thanh, Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc hoàng, Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc xích, Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc bạch”.
“Thập biến xứ: Chu biến quán Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Thanh, Hoàng, Xích, Bạch, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ”.
Những công đức này đều phải lấy “chỉ” làm căn bản mới có thể sinh khởi. Có thể biết, “Định học” trở thành một chi phần trong Phật giáo tam học, tuyệt nhiên không phải là vô duyên vô cớ.