1) Chuẩn bị
Ta có thể đem công tác khi chuẩn bị tu định chia thành ba phần như sau:
Thứ nhất, phải có tư lương. Cái được gọi là tư lương, chính là nơi ở phải rất an tĩnh, ban ngày không có người ngoài lui tới, buổi tối phải rất tịch tĩnh, hơn nữa không được để người ở đó sinh bệnh; thực phẩm cũng phải dễ dàng có được. Ví dụ, tu hành trên núi cao ở Ấn Độ, sẽ có người mang cơm đến đúng thời điểm, không cần lo lắng bận lòng. Ngoài ra, phải nên có người bạn tốt (chỉ cho người giống nhau về giới luật và kiến giải) hộ trì, giúp đỡ.
Thứ hai, tư thế ngồi phải chính xác, toàn thân buông lỏng, thoải mái:
(1) Tư thế của chân, có thể ngồi kiết già, bán già, hay là ngồi xếp bằng cũng được.
(2) Mắt mở tự nhiên là tốt nhất.
(3) Thân ngay thẳng, không nghiêng tới trước hoặc ngả về sau.
(4) Vai thẳng.
(5) Đầu hơi cúi xuống, không được quá cao hoặc quá thấp, không được lệch sang một bên.
(6) Răng và môi để tự nhiên.
(7) Lưỡi có thể đưa lên hàm trên.
(8) Thở tự nhiên, không được cố ý khống chế.
Thứ ba, về phương diện sở duyên: Trong lúc tu định nhất định phải có đối tượng an trí, đối tượng này được gọi là “sở duyên”. Sở duyên ở trên kinh luận được đề cập đến rất nhiều, ví như hít thở. Trong lúc tu định, tâm trụ nơi đối tượng sở quán vô cùng ổn định, được gọi là “trụ phần”; tâm giác sát (thấy biết) được sở duyên rất rõ ràng, được gọi là “minh phần”. Trụ phần và minh phần đều phải đạt được. Còn như muốn giác sát thật rõ ràng, thì không phải dùng mắt để thấy, mà phải dùng ý thức để giác sát. Nếu như không có trụ phần, biểu hiện nội tâm không ổn định, lúc này vẫn phải buộc tâm vào đối tượng đã được an trí trước. Nếu không có minh phần, thì đối tượng được giác sát không rõ ràng. Sở duyên được chọn để tu định cũng không thể thường xuyên thay đổi, thường xuyên thay đổi thì khó mà có thể đạt được định.
2) Sự đạt thành của chỉ
Mục tiêu thứ nhất của tu định chính là phải đạt đến được chỉ. Phương thức thứ nhất, theo Câu xá luận có hai loại là “Bất tịnh quán” và “Trì tức niệm” để vào chỉ. Bất tịnh quán hoặc gọi là “Bạch cốt quán”; Trì tức niệm hoặc gọi là “Sổ tức quán”, chia thành sáu giai đoạn: Sổ, tùy, chỉ, quán, chuyển, tịnh. Bất tịnh quán lấy “vô tham” làm bản chất, nhờ đối trị tham mà tu thành chỉ; Trì tức niệm lấy “tuệ” làm bản chất, ngoài ra còn lấy chính niệm an trụ ở nơi sở duyên.
Phương thức thứ hai, theo Du già sư địa luận, từ trình tự của “Cửu tâm trụ”, phối hợp với “Lục lực” và “Tứ tác ý” mà vào chỉ, xem bảng biểu sau:
Định nghĩa của Cửu tâm trụ, theo Du già sư địa luận quyển 30 viết như sau:
“Thế nào là Nội trụ? Chính là từ tất cả cảnh giới sở duyên bên ngoài, nhiếp thu tâm, buộc chặt vào trong, khiến tâm không tán loạn. Đây là sự buộc tâm ban đầu, khiến tâm trụ vào bên trong, không tán loạn ra bên ngoài, nên được gọi là Nội trụ.
Thế nào là Đẳng trụ? Chính là tâm được buộc chặt ban đầu, vì tính thô động nên chưa thể khiến cho tâm được Đẳng trụ, Biến trụ1. Tiếp theo, ở nơi cảnh giới sở duyên này, dùng phương tiện tương tục, phương tiện lắng trong, hàng phục, thu nhiếp tâm khiến tâm an trụ nên được gọi là Đẳng trụ.
1 Đẳng trụ, Biến trụ: Nếu như tâm không thể an trụ nơi bình đẳng xả, chưa gọi là Đẳng trụ; nếu như không thể nhiếp khắp mọi sở duyên khiến tâm an được trụ thì chưa được gọi là Biến trụ.
Thế nào là An trụ? Chính là tuy tâm được Nội trụ và Đẳng trụ như vậy nhưng do thất niệm tán loạn ra bên ngoài nên nhiếp thu trở lại và an trí vào cảnh bên trong, nên gọi là An trụ.
Thế nào là Cận trụ? Chính là trước tiên phải có tâm niệm muốn đạt đến Niệm trụ. Do xuất hiện niệm này nên luôn luôn tác ý trụ tâm bên trong (nội trụ), không khiến tâm này xa lìa mà trụ vào cảnh bên ngoài, cho nên gọi là Cận trụ.
Thế nào là Điều thuận? Chính là tất cả tướng sắc, thanh, hương, vị, xúc và các tướng tham, sân, si, nam, nữ, v.v. khiến cho tâm tán loạn. Nên người đó trước tiên phải nắm giữ các tướng kia xem thành “quá hoạn tưởng”1, do sức tăng thượng của tưởng như vậy nên ở nơi các tưởng kia chiết phục tâm khiến tâm không tản mạn khắp nơi, cho nên gọi là Điều thuận.
1 Quá hoạn tưởng: Theo Kỳ Lợi Ma Nan kinh (Nam truyền Đại tạng quyển 24): “Này A Nan Đà, thế nào là quá hoạn tưởng? A Nan Đà! Ở đây, vị Tỳ kheo vào rừng sâu, hay tìm đến gốc cây hoặc nhà vắng sống, tùy quán các nguy hại trong thân bằng cách quán xét rằng tấm thân này là đầy khổ nạn, nhiều nguy khốn. Trong thân này có nhiều thứ tật bệnh sai khác như là các bệnh về mắt, các bệnh về tai, các bệnh về mũi, các bệnh về lưỡi, các bệnh về thân, v.v. Này A Nan Đà, đây được gọi là quá hoạn tưởng”.
Thế nào là Tịch tĩnh? Chính là tất cả các ác tầm tư1 như dục, khuể, hại, v.v. và các tùy phiền não như tham dục, v.v. khiến tâm bị nhiễu động. Nên người đó trước tiên phải nắm giữ các pháp kia coi thành quá hoạn tưởng, do sức tăng thượng của tưởng như vậy nên ở nơi các tầm tứ và tùy phiền não, dứt tâm khiến tâm không tản mạn khắp nơi, nên gọi là Tịch tĩnh.
1 Ác tầm tư: Suy nghĩ về những thứ dục, khuể, hại, đất đai, thân thuộc, v.v.
Thế nào là Tối cực tịch tĩnh? Chính là do lạc mất chính niệm (thất niệm) nên lúc hai loại tầm tư và tùy phiền não kia tạm thời xuất hiện, tùy theo sự xuất hiện đó mà không bị chúng sai khiến lôi kéo, tìm mà đoạn diệt, loại trừ đuổi các phiền não đó đi, cho nên gọi là Tối cực tịch tĩnh.
Thế nào là Chuyên chú nhất thú? Chính là có gia hành, có công dụng, không khuyết giảm không gián đoạn, Tam ma địa an trụ tương tục, cho nên gọi là Chuyên chú nhất thú.
Thế nào là Đẳng trì? Chính là vì luôn tu, luôn tập, luôn luôn tu tập làm thành nhân duyên nên đạt đến sự không cần gia hành và không cần công dụng mà đạo vận chuyển tự nhiên. Do nhân duyên đó, không phải do gia hành, không phải do công dụng mà tâm Tam ma địa vẫn tự nhiên tương tục, không tán loạn xao động, cho nên gọi là Đẳng trì (Đẳng trì còn gọi là Bình đẳng nhiếp trì)”.
Nội trụ nương vào Thính văn lực, Đẳng trụ dựa vào Tư duy lực, An trụ và Cận trụ nương vào Ức niệm lực, Điều thuận và Tịch tĩnh thì nương vào Chính tri lực, Tối cực tịch tĩnh và Chuyên chú nhất thú thì nương vào Tinh tấn lực, Đẳng trì thì nương vào Xuyến tập lực.
Ở phương diện “tâm lý tác ý” thì Nội trụ và Đẳng trụ là ra sức hoạt động tác ý: phải tác ý một cách khổ nhọc mới có thể tập trung vào sở duyên. An trụ, Cận trụ, Điều thuận, Tịch tĩnh và Tối cực tịch tĩnh là hoạt động tác ý có gián đoạn có khiếm khuyết: lúc tác ý tương đối không tốn sức nhưng vẫn còn gián đoạn và không được liên tục. Chuyên chú nhất thú là hoạt động tác ý không gián đoạn không thiếu khuyết: khi tác ý đã có thể liên tục nhưng vẫn phải dùng một ít sức lực. Đẳng trì (Bình đẳng nhiếp trì) là hoạt động tác ý không cần dụng công: lúc này rất tự nhiên, rất bình ổn mà không cần phí sức, có thể giữ tâm an trụ liên tục vào sở duyên. Sau khi đạt được Đẳng trì, tiến thêm bước nữa sinh ra thân khinh an và tâm khinh an thì mới xem là đã đạt được Xa ma tha (Chỉ).
Sau khi đạt được chỉ, hướng lên nữa có hai loại pháp tu: một loại pháp tu là Thế gian đạo (Tứ tĩnh lự và Tứ vô sắc), một loại pháp tu là Xuất thế gian đạo.
Du già sư địa luận quyển 33 viết: “Những vị sư đã đạt được tác ý về Du già (chỉ cho hành giả tu hành đã được thân tâm khinh an), nhập vào thiểu phần lạc đoạn1 như thế, từ đây về sau chỉ có hai con đường, không có đường nào khác. Thế nào là hai? Một là Thế gian, hai là Xuất thế gian”.
1 Thiểu phần lạc đoạn: Do đoạn trừ (vài phần phiền não) nên được an lạc vài phần.
3) Thế gian đạo
Pháp tu của Thế gian đạo, chính là nương vào chỉ, hướng lên cao nữa là đạt được Tứ tĩnh lự và Tứ vô sắc. Lúc tu phải phối hợp với pháp quán “Thô tịnh hành tướng”. Để đạt được những mục tiêu này nhất định phải dùng bảy loại tác ý. Sau đây sẽ dùng Sơ tĩnh lự (Sơ thiền) để nói rõ làm thế nào mà từ “chỉ” có thể đạt được Sơ thiền:
“Gia hành cứu cánh” hoặc được dịch là “Phương tiện cứu cánh”. Về ý nghĩa của bảy loại tác ý, Đại thừa A tỳ đạt ma tạp tập luận quyển 9 viết:
“Vì sao khi chứng nhập Sơ tĩnh lự là nhờ bảy loại tác ý? Chính là do định mà tác ý, thấy được những nguy nạn trong cõi Dục giới, hiểu rõ thông đạt được Thô tướng. Trong Sơ tĩnh lự, vì tướng đó là “không” nên gọi là Tĩnh tướng, là Liễu tướng tác ý.
Tác ý như vậy là vì cái nghe và cái nghĩ của mình bị gián đoạn xen tạp. Từ đây trở đi, vượt lên trên những điều nghe nghĩ, luôn luôn tu tướng, duyên vào thô tĩnh tướng để làm cảnh giới. Tu Xa ma tha, Tỳ bát xá na, thường tư duy như các tính tướng thô tĩnh của tầm tứ, gọi là Thắng giải tác ý. Do tu tập như vậy nên tối sơ đoạn đạo sinh câu hành tác ý, nên được gọi là Viễn ly tác ý1.
1 Theo Du già sư địa luận thì sau khi thắng giải không còn hồ nghi và trải qua kết quả của sự tu hành không gián đoạn thì sẽ tự nhiên dẫn khởi sinh ra công đức Xa ma tha và Tỳ bát xá na; có đủ sức mạnh để viễn ly các phiền não nặng nề (các phiền não được phát khởi bởi tham và sân) nên gọi là Viễn ly tác ý.
Do đó có thể đoạn được phiền não thượng phẩm và có thể viễn ly được phẩm thô trọng kia nên hành giả tu quán lại hân lạc vì thượng đoạn (những phiền não đoạn phía trên), nhìn thấy công đức thượng đoạn nên chạm được vài phần hỷ lạc của sự viễn ly. Lại vì muốn trừ bỏ hôn trầm thụy miên nên phải luôn luôn tu tập Tịnh diệu tác ý để làm cho tâm vui sướng, đó gọi là Nhiếp lạc tác ý.
Hành giả chính tu như vậy nhờ sự giữ gìn trợ giúp (tư trì) của phương tiện thiện phẩm, khiến cho phiền não trói buộc trong Dục giới không còn hiện hành, do vậy vì muốn xét kỹ phiền não đã đoạn và phiền não chưa đoạn, lại càng phải tác ý quán sát cái sinh khởi tùy thuận tịnh tướng kia, đó gọi là Quán sát tác ý.
Hành giả nhiều lần quán sát tiến tu đối trị như vậy, khiến cho tất cả phiền não của Dục giới tạm thời đạt được sự xa rời trói buộc, con đường đối trị này tương ưng tác ý, là phương tiện sau cùng của Sơ tĩnh lự, nên gọi là Phương tiện cứu cánh tác ý.
Từ đây chứng nhập không gián đoạn câu hành tác ý căn bản của tĩnh lự đầu tiên, đó gọi là Phương tiện cứu cánh quả tác ý”.
Trong bảy loại tác ý, đạt đến Viễn ly tác ý, có thể chế phục thô phẩm phiền não (hoặc dịch là thượng phẩm, trong đó chia làm ba tiểu phẩm); đạt đến Nhiếp lạc tác ý có thể chế phục được phiền não trung phẩm (trong đó chia làm ba tiểu phẩm); nhờ vào Vô gián đạo của Gia hành cứu cánh tác ý, mà có thể chế phục được phẩm phiền não vi tế của Dục giới (hoặc dịch là hạ phẩm, trong đó chia làm ba tiểu phẩm); Đạo giải thoát đó tức là Gia hành cứu cánh quả tác ý, lúc này đạt đến Sơ tĩnh lự (Sơ thiền). Trong lúc chế phục phiền não thô, trung, vi tế thì phải nương pháp chỉ quán song hành, “quán” chính là quán “trên là Tĩnh tướng, dưới là Thô tướng” (vui trên mà chế phục dưới).
Do quán này là “Thô tĩnh hành tướng quán”, không phải “Vô ngã quán”, cho nên chỉ có thể chế phục phiền não mà không thể nhổ trừ được hạt giống của phiền não, do vậy chỉ là Thế gian đạo. Nhằm chế phục phiền não cần phải sử dụng phương pháp chỉ (Xa ma tha) quán (Tỳ bát xá na) song hành, tuyệt không thể chỉ nương vào chỉ mà có thể chế phục.
Tứ tĩnh lự và Tứ vô sắc, mỗi loại sau khi đạt thành bảy loại tác ý nêu trên, có đặc trưng như sau: Sơ tĩnh lự: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Tâm nhất cảnh tính. Tĩnh lự thứ hai: Nội đẳng tịnh, Hỷ, Lạc, Tâm nhất cảnh tính. Tĩnh lự thứ ba: Xả, Niệm, Chính tri, Lạc, Tâm nhất cảnh tính. Tĩnh lự thứ tư: Xả thanh tịnh, Niệm thanh tịnh, Bất khổ bất lạc thọ, Tâm nhất cảnh tính. Tứ vô sắc: Xa ma tha nhất vị tính (Xa ma tha thuần nhất tính).
Tạp tập luận quyển 9 viết:
“Trong Sơ tĩnh lự, hai loại Tầm và Tứ là đối trị chi, vì có thể đoạn các tầm tứ như dục, khuể, hại, v.v. của Dục giới. Hai loại Hỷ và Lạc là lợi ích chi, vì những gì cần dùng Tầm, Tứ để trị đều đã trị xong1 nên đạt được Ly sinh hỷ lạc. Tâm nhất cảnh tính là tự tính chi mà cả hai chi đó (đối trị chi và lợi ích chi) nương vào, vì y chỉ vào định lực, tầm, v.v. mà chuyển biến.
1 Câu này được hiểu đơn giản là trong Sơ thiền, hành giả sử dụng chính Tầm và Tứ để đối trị lại những Tầm và Tứ ác. Sau khi đối trị xong thì sinh hỷ lạc, nên được gọi là Ly sinh hỷ lạc.
Trong Tĩnh lự thứ hai, Nội đẳng tịnh là đối trị chi, vì chi này có thể đối trị được Tầm, Tứ1. Hỷ, Lạc là lợi ích chi, Tâm nhất cảnh tính là tự tính chi mà cả hai chi đó nương vào, nghĩa như trước đã nói.
1 Trong Tĩnh lự thứ hai, hành giả phải dùng Nội đẳng tịnh để đoạn trừ Tầm và Tứ (ở Sơ thiền).
Trong Tĩnh lự thứ ba, Xả, Niệm và Chính tri là đối trị chi, do ba loại này có thể trị Hỷ2. Lạc là lợi ích chi, Tâm nhất cảnh tính là tự tính chi mà cả hai chi đó nương vào, nghĩa như trước đã nói.
2 Trong Tĩnh lự thứ ba, hành giả phải dùng Xả, Niệm và Chính tri để đoạn trừ Hỷ.
Trong Tĩnh lự thứ tư, Xả thanh tịnh và Niệm thanh tịnh là đối trị chi, do hai loại này đối trị Lạc3. Bất khổ bất lạc thọ là lợi ích chi, Tâm nhất cảnh tính là tự tính chi mà cả hai chi đó nương vào, trong Vô sắc không lập chi phần mà chỉ dùng Xa ma tha nhất vị tính4”.
3 Trong Tĩnh lự thứ tư, hành giả phải dùng Xả thanh tịnh và Niệm thanh tịnh để đoạn trừ Lạc.
4 Trong Vô sắc định, hành giả chỉ thọ dụng Xa ma tha thuần nhất.
Tĩnh lự thứ tư có một đặc sắc, tức là “hơi thở vào, hơi thở ra” bị ngừng lại. Thành thật luận quyển 13 viết: “Hơi thở nương vào thân tâm thì lấy gì để biết nó có mặt? Vào lúc tâm đã vi tế thì thở gấp cũng sẽ vi tế. Khi vào Tứ thiền thì tâm bất động nên hơi thở ra vào cũng sẽ diệt”.
Tứ tĩnh lự và Tứ vô sắc, mỗi loại đều có “Cận phân định” và “Căn bản định”. Lúc đã đạt đến “chỉ” giúp thân tâm khinh an rồi, lại đi tiếp vào Cận phân định của Sơ tĩnh lự, còn gọi là “Vị chí định”, được liệt kê theo bảng sau:
Từ tĩnh lự thứ ba trở lên, tương đồng với các phân định của Tĩnh lự thứ hai. Tầm là tư duy thô, Tứ là tư duy tế. Từ tĩnh lự thứ hai trở lên mới là vô Tầm vô Tứ. Tu đến Trung gian định, có thể đạt được quả Đại Phạm Thiên.
Tứ tĩnh lự và Tứ sắc giới đẳng chí, thông thường được gọi chung là “Tứ thiền bát định” (Bát định là tám loại Căn bản định). Có Tầm có Tứ, không Tầm có Tứ và không Tầm không Tứ, ba loại Tam ma địa này được gọi chung là “Tam Tam ma địa” (Tam đẳng trì). Người thường ở thế gian coi việc đạt đến Sơ thiền, có thể chế phục được phiền não của Dục giới là đã cận kề với bậc thánh, nhưng trong Phật giáo, người tu tập xem đó vẫn không phải là bậc thánh, nhất định phải dùng phép quán vô ngã để nhổ tận gốc của phiền não, mới có thể xem là đạt đến được bậc thánh. Do đó, muốn trở thành bậc thánh thì nhất định phải đi vào “Xuất thế gian đạo”.
Sau khi đạt được “chỉ” thì phải đi vào Xuất thế gian đạo, tiếp theo cũng là bảy loại tác ý, nhưng phải quán 16 hành tướng của Tứ đế để thể ngộ vô ngã. Bảy loại tác ý này dựa vào thứ tự của năm đạo, được phối hợp như sau:
Liễu tướng tác ý mà Xuất thế gian đạo tu tập là nhờ vào văn và tư để tư duy về bốn hành tướng của Khổ đế (Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã); bốn hành tướng của Tập đế (Nhân, Tập, Sinh, Duyên); bốn hành tướng của Diệt đế (Diệt, Tĩnh, Diệu, Ly) và bốn hành tướng của Đạo đế (Đạo, Như, Hành, Xuất).
Thắng giải tác ý chính là vượt qua “Văn tư gián tạp tác ý” đối với 16 hành tướng của Tứ đế, luôn luôn phát khởi thắng giải tu hành, có bốn thiện căn là “Noãn”, “Đỉnh”, “Nhẫn” và “Thế đệ nhất pháp”. Bốn thiện căn này phải phối hợp với Vị chí định, Trung gian định hoặc Tứ tĩnh lự để tu.
Trong pháp quán 16 hành tướng của Tứ đế, do có phối hợp với quán vô ngã, trong khi Viễn ly tác ý, thiền giả vận dụng cả chỉ quán để thân chứng vô ngã, nhổ trừ tận gốc các “phiền não cần phải đoạn nhờ kiến đạo”. Cũng vậy, trong lúc tu đạo, vận dụng cả chỉ quán để lần lượt nhổ trừ tận gốc rễ các “phiền não cần phải đoạn nhờ tu đạo”.
Lúc này, dùng Quán sát tác ý để quán sát tất cả phiền não đã đoạn và chưa đoạn; dùng Nhiếp lạc tác ý khởi sinh tâm ngưỡng mộ đối với các pháp đáng ưa thích, trong lúc tu đạo phải phối hợp cả hai loại tác ý này.
Tác ý sau cùng của tu đạo là Gia hành cứu cánh tác ý, đây là tác ý thuộc về “Kim cang dụ định”, là “Vô gián đạo” sau cùng. Lúc này đem phiền não vi tế nhất trong những loại phiền não cần phải đoạn nhờ tu đạo mà đoạn trừ không còn dư sót. Tiếp theo đi vào “Giải thoát đạo”, lúc này chứng đắc được quả vị A la hán. Tác ý thuộc về quả A la hán1 được gọi là Gia hành cứu cánh tác ý.
1 Nguyên văn 阿羅漢果所攝的作意: Loại tác ý được thu nhiếp bởi quả A la hán.
Trong quá trình này, có ba loại đẳng trì (cũng gọi là ba loại Tam ma địa): Không Tam ma địa: Đẳng trì tương ưng với “Không hành tướng và Vô ngã hành tướng” của Khổ đế. Vô tướng Tam ma địa: Đẳng trì tương ưng với bốn hành tướng của Diệt đế (Diệt, Tĩnh, Diệu, Ly). Vô nguyện Tam ma địa: Đẳng trì tương ưng với mười hành tướng còn lại (Vô thường, Khổ, Nhân, Tập, Sinh, Duyên, Đạo, Như, Hành, Xuất).
Lại có ba giải thoát môn: Không Tam ma địa của Vô lậu, được gọi là “Không giải thoát môn”; Vô tướng Tam ma địa của Vô lậu, được gọi là “Vô tướng giải thoát môn”; Vô nguyện Tam ma địa của Vô lậu, được gọi là “Vô nguyện giải thoát môn”.
Ở trên là quá trình tu Xuất thế gian đạo đạt được giải thoát của hành giả Thanh văn sau khi đã đạt được “chỉ”. Cho đến Tam ma địa của hành giả Bồ tát, trong Đại Bát nhã kinh quyển 414 được kể ra rất nhiều, có thể quy thành bốn loại Tam ma địa: Kiện hành Tam ma địa, Hư không khố Tam ma địa, Vô cấu Tam ma địa và Sư tử phấn tấn Tam ma địa.