Trong khi tu định sẽ xuất hiện rất nhiều trạng thái tâm lý, những tâm thái này khi xuất hiện, phải chọn lấy hoặc bỏ một cách thích đáng, cũng chính là nói, tâm thái nên có thì duy trì, tâm thái không nên có thì phải nên trừ bỏ. Lấy bỏ không thích hợp, lúc nghiêm trọng sẽ dẫn đến phát sinh cái gọi là “nhập ma”. Lúc tu định, có năm loại tâm thái nhất định nên bỏ đi, được gọi là “năm lỗi lầm”. Biện trung biên luận phẩm 4 viết:
Giải đãi (lười biếng), vong thánh ngôn (quên lời thánh hiền)
Và hôn trầm trạo cử (buồn ngủ xáo động)
Bất tác hành, tác hành
Là ngũ thất (năm lỗi) nên biết.
Hôn trầm và trạo cử hợp lại thành một lỗi. A tỳ đạt ma tập luận quyển 1 viết:
Giải đãi, chính là ngu si phần, nương theo ngủ nghỉ, nằm dựa làm niềm vui; tâm không siêng năng làm thể. Vong niệm, chính là các phiền não tương ưng với niệm làm thể. Hôn trầm, chính là ngu si phần, tâm không có khả năng chịu đựng làm thể. Trạo cử, chính là tham dục phần, tùy niệm tịnh tướng, tâm không tịch tĩnh làm thể.
“Vong thánh ngôn” do phiền não hiện tiền, làm quên đi lời giáo huấn liên quan đến sự tu định của kinh luận hoặc sư phụ. “Bất tác hành” chỉ cho lúc tu định, khởi lên hôn trầm trạo cử mà không có gia hành đối trị. “Tác hành” chính là đã không còn hôn trầm trạo cử mà lại vẫn khởi tâm tác ý đối trị. “Bất tác hành” giống như lúc sinh bệnh thì không chữa trị, “Tác hành” giống như đã hết bệnh mà vẫn còn uống thuốc, cho nên đều là sai lầm.
Muốn đối trị năm lỗi lầm, phải dùng “Bát đoạn hành”. Biện trung biên luận phẩm 4 viết:
Vì đoạn trừ giải đãi
Tu dục, cần, tín, an.
Vì đoạn trừ bốn lỗi
Tu niệm, trí, tư, xả.
“Bát đoạn hành” chính là: dục, cần (tinh tấn), tín, an (khinh an), niệm, trí (chỉ cho chính tri), tư và xả.
Tập luận quyển 1 viết:
Dục, chính là những việc yêu thích, những thứ đó dẫn phát tạo ra ước muốn làm thể. Cần, chính là tâm dũng mãnh làm thể. Tín, chính là có “thể”, có “đức”, có “năng”, làm thanh tịnh mong muốn làm thể. An, chính là dừng nghỉ sự nặng nề thô kệch của thân tâm, thân và tâm được điều phục thư thái làm thể. Niệm, chính là xâu kết những sự việc, khiến cho tâm nhớ rõ không quên làm thể.
(Trí chỗ này chỉ cho chính tri, mà mặt trái là bất chính tri). Bất chính tri, chính là phiền não tương ưng với trí tuệ làm thể. Tư, chính là tâm tạo tác ý nghiệp làm thể. Xả, chính là y vào chính cần, vô tham, vô si mà trái với tạp nhiễm, tâm bình đẳng tính, tâm chính trực tính, tâm vô công dụng trụ tính làm thể.
Ở đây ta dùng bốn loại tâm lý trước (dục, cần, tín, an) để đối trị giải đãi, dùng niệm để đối trị vong thánh ngôn, dùng chính tri để đối trị hôn trầm trạo cử, dùng tư để đối trị bất tác hành, dùng xả để đối trị tác hành.
Các tâm lý quan trọng khác liên quan đến định, theo Tập luận quyển 1 như sau:
Tác ý, chính là pháp động tâm làm thể. Thắng giải, chính là việc được quyết định, có thể đạt được sự nắm bắt chắc chắn làm thể. Tầm, chính là hoặc nương vào tư hoặc nương vào trí tuệ, tầm cầu ý ngôn (lời nói trong tâm) khiến tâm thô được chuyển làm thể. Tứ, chính là hoặc nương vào tư hoặc nương vào trí tuệ, quan sát ý ngôn khiến tâm tế được chuyển làm thể. Lĩnh nạp tướng là thọ tướng, chính là do thọ nên lĩnh nạp tất cả các quả dị thục của tịnh nghiệp và bất tịnh nghiệp. Phóng dật, chính là y vào giải đãi và tham sân si nên không tu thiện pháp, đối với các pháp hữu lậu tâm không phòng hộ làm thể.
Trong quá trình tu định, cần phải tránh để “ngũ cái” hiện diện. Tạp tập luận quyển 7 viết:
“Cái có năm loại, là Tham dục cái, Sân khuể cái, Hôn trầm thụy miên cái, Trạo cử ác tác cái, Nghi cái. Có thể khiến cho thiện phẩm không được hiển lộ nghĩa là “cái”, vì nó che lấp tâm mình, chướng ngại các thiện phẩm, khiến không thể chuyển hóa được vậy”.
Ý nghĩa của Ác tác và Nghi, theo Tập luận quyển 1 như sau:
“Thế nào là Ác tác? Chính là việc an vui thì không thích làm, việc nên làm thì không muốn làm, là ngu si phần, tâm hối hận làm thể”.
“Thế nào là Nghi? Đối với Tứ đế nghi ngờ hoặc do dự làm thể”.
Do vậy, trong lúc tu định phải thời thời nắm bắt được tâm thái của chính mình, để tác ý một cách chính xác, lìa xa hôn trầm và trạo cử. Hơn nữa đối với các loại cảm giác cảm thọ phát sinh, có thể giữ và bỏ một cách chính xác. Trong lộ trình tu tâm này, một mặt phải nương vào kinh luận, một mặt phải nương vào sự chỉ dẫn của sư phụ.