Sự sai khác giữa định, chỉ và tĩnh lự, có thể dùng định nghĩa để hiểu rõ: “Định” trong Phạn văn là “Tam ma địa”, Tập luận quyển 1 viết: “Thế nào là Tam ma địa? Chính là ở nơi sự quán mà khiến cho tâm trụ ở một cảnh làm thể”. Du già sư địa luận quyển 30 viết: “Tam ma địa, cũng gọi là thiện tâm nhất cảnh tính”.
“Chỉ” trong Phạn văn là “Xa ma tha”, một trong những điểm đặc sắc của nó là có đầy đủ tâm khinh an và thân khinh an. Giải thâm mật kinh phẩm 6 viết: “Chính là khéo léo tư duy về pháp như vậy, ngồi một mình nơi tịch tĩnh, tác ý tư duy. Lại chính là tâm tư duy, nội tâm tương tục, tác ý tư duy. Vì chính hạnh luôn được an trụ như vậy nên sinh khởi sự khinh an của thân và khinh an của tâm thì gọi là Xa ma tha”.
“Tĩnh lự” theo Phạn văn là “Thiền na”, thời kỳ đầu dịch là “thiền định”. Du già sư địa luận quyển 33 viết: “Gọi là Tĩnh lự, chính là đối với một sở duyên nào có thể buộc chặt niệm lại, làm cho tịch tĩnh, hiểu biết và tư duy chân chính, rõ ràng, thì được gọi là Tĩnh lự”.
Trong Phạn ngữ, các thuật ngữ liên quan đến sự tập trung tinh thần còn có “Tam ma hy đa”, Hán dịch là “đẳng dẫn”, là chỉ cho lúc tu định nhắm vào vô ngã khiến tâm nhất cảnh, bình đẳng an trụ. “Tam ma địa” có lúc cũng dịch là “đẳng trì”. Ngoài ra còn có “Tam ma bát để”, Hán dịch là “đẳng chí”, như Tứ vô sắc đẳng chí, Diệt tận đẳng chí. “Đẳng chí” có lúc cũng dịch thành “định”. “Đẳng chí” là: Ở địa vị tĩnh lự sẽ nhiếp phục thân đại chủng hoặc tâm tâm sở, được duyên vào cảnh bình đẳng của tâm nhất cảnh tính.
Như trên đã định nghĩa, chúng ta có thể thấy được “định” và “đẳng trì” nhằm chỉ cho sự tập trung tinh thần lên một đối tượng, “chỉ” thì nhất định sẽ có thân tâm khinh an. “Tĩnh lự”, “đẳng chí” và “đẳng dẫn” cả ba trước khi tập trung tinh thần lên đối tượng, còn phải trải qua hoạt động suy xét, cũng chính là nói, phải trải qua sự vận dụng của cả “chỉ” và “quán”, sau đó mới có thể đạt thành.
Nay đem những thuật ngữ Hán, Phạn, Tạng, Anh có liên quan đến “định” đối chiếu như sau: