Bồ tát tu tập Tứ vô lượng tâm từ, bi, hỷ, xả, một trong những phúc báo của việc đó chính là được làm bậc lãnh tụ của thế gian và cõi trời, nay lấy Thế Tôn làm ví dụ, trong Tạp A hàm kinh (kinh số 264), Thế Tôn nói:
“Ta nhớ lại đời trước, tu phúc lâu dài, đạt được quả báo thù thắng vi diệu, khả ái. Ta từng tu tập tâm từ trong bảy năm nên trải qua bảy kiếp thành hoại mà không bị tái sinh vào thế gian này. Trong bảy kiếp hoại ta sinh lên cõi trời Quang Âm, trong bảy kiếp thành ta lại sinh vào trong cung điện trống không trong cõi Phạm1 làm Đại Phạm Vương, thống lĩnh ngàn thế giới, không ai hơn, không ai ở trên. Từ đó trở về sau, 36 lần ta lại làm Thiên Đế Thích.
1 Câu này nghĩa là tiền thân của Đức Phật từng sinh vào cung điện của Phạm Thiên, lúc này không có ai ở đó cả vì chưa ai đủ công đức để sinh vào cung điện đó. Như vua là người đầu tiên bước vào triều, thì Đức Phật là người đầu tiên sinh vào cung điện của Phạm Thiên.
Rồi lại trăm ngàn lần làm Chuyển Luân Thánh Vương, thống lĩnh bốn thiên hạ, dùng chính pháp để cai trị và giáo hóa; có đầy đủ bảy báu, đó là xe báu, voi báu, ngựa báu, Ma ni báu, ngọc nữ báu, đại thần chủ kho tàng báu, đại thần chủ binh báu. Ta có đầy đủ ngàn người con, tất cả đều dũng mãnh. Ở trong bốn biển, đất đai bằng phẳng, không có những thứ gai độc, không uy quyền, không bức bách, chỉ dùng chính pháp để điều phục2...
1 Chuyển Luân Thánh Vương không dùng uy quyền để thống trị mà dùng chính pháp để giáo hoá.
Này Tỳ kheo! Ở đây nhờ những nghiệp báo gì mà có được những oai đức tự tại như vậy? Ở đây nhờ vào ba loại nghiệp báo. Những gì là ba? Một là bố thí, hai là điều phục, ba là tu đạo”.
Bảy kiếp nói ở đây là chỉ cho bảy đại kiếp. Một đại kiếp là do bốn kiếp gồm “thành kiếp”, “trụ kiếp”, “hoại kiếp” và “không kiếp” hợp thành, ước chừng một triệu hai trăm ngàn năm. Thọ mạng của cõi trời Quang Âm là hai đại kiếp. Ba loại nghiệp báo chỗ này chính là Tam phúc nghiệp sự, Tập dị môn túc luận viết:
“Tam phúc nghiệp sự: một là Thí loại phúc nghiệp sự, hai là Giới loại phúc nghiệp sự, ba là Tu loại phúc nghiệp sự”.
“Thí loại là thí chủ cúng dường bố thí cho các vị Sa môn, Bà la môn, người bần cùng, khổ hạnh, hành đạo, hành khất bằng đồ ăn uống, thuốc men, y phục, vòng hoa, các loại hương xoa, hương bột, phòng ốc, ngọa cụ (giường, chiếu, gối, nệm, v.v.), đèn đuốc, v.v.”.
“Giới loại là viễn ly sự tổn hại sinh mạng, viễn ly sự trộm cắp, viễn ly dục lạc tà hạnh, viễn ly vọng ngữ, viễn ly các loại rượu Tốt la, Mễ lệ da, Mạt đà, quán rượu phóng dật, v.v.”.
“Tu loại là Tứ vô lượng tâm từ, bi, hỷ, xả”.
Có thể biết, Thí loại chính là dùng tài vật bố thí. Giới loại chính là giữ gìn ngũ giới. Pháp uẩn túc luận giải thích rằng, rượu Tốt la là loại rượu do hấp nấu đúng cách từ lúa gạo ủ lên men mà thành; rượu Mễ lệ da là loại rượu do các loại thân rễ lá, nước hoa quả lên men mà thành; rượu Mạt đà là rượu nho. Tu loại chính là bốn tâm từ, bi, hỷ, xả. Tam phúc nghiệp sự của Bồ tát ở trên chính là nhằm tích lũy tư lương phúc đức rộng lớn, một trong các quả báo đó là sẽ trở thành bậc lãnh tụ thế gian và thiên giới.
Sau cùng, căn cứ vào Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ nại da dược sự quyển 15 do Pháp sư Nghĩa Tịnh dịch, vẫn lấy Thế Tôn làm ví dụ thực tế, để nói rõ quá trình từ phát tâm cho đến thành Phật:
1) Quang Minh Vương: Sơ phát Vô thượng Bồ đề
Lúc đó, Thắng Quang đại vương bạch với Phật rằng: “Thưa Đức Thế Tôn! Lúc nào mới bắt đầu phát nguyện Vô thượng Bồ đề?”
Phật trả lời đại vương: “Vào thời lâu xa vô lượng kiếp về trước, có vị vua tên là Quang Minh, vị vua Quang Minh này có một con voi quý, thân sắc tươi trắng, như hoa Ưu bát, bảy chi1 viên mãn, vẻ ngoài đoan nghiêm, người người xem thấy đều hoan hỷ.
1 Bảy chi là hai chân trước, hai chân sau, hai ngà và vòi.
Một hôm, vua lệnh cho thầy luyện voi, điều phục và đưa con voi đến gặp vua. Thầy luyện voi nhận lệnh vua, sau khi huấn luyện và điều phục con voi, liền đến chỗ vua.
Vua liền cưỡi lên voi, ngồi phía sau thầy luyện voi. Đột nhiên voi đánh hơi thấy voi cái, liền theo mùi hương đó mà chạy tìm.
Vua thấy voi chạy nhanh như gió vậy, liền nói với thầy luyện voi rằng: “Ta thấy hư không chuyển, bốn phương trên dưới như xoay vòng, núi đất như đảo lộn, cây cũng bay lên không, chân voi như vọt lên trên không trung, thấy núi phía trước đang chạy đến, núi sau lưng đang di chuyển, phải khiến voi dừng lại, đánh mạnh cho voi sợ, voi vua chưa điều phục, sinh tử nay tới gần”.
Lúc này, thầy luyện voi tâu với vua rằng: “Thần tụng bài chú của đại tiên đã nói, còn dùng móc đâm mạnh, tụng chú đánh móc càng nhanh, những biện pháp đã dùng đều vô ích, không dây không móc nào có thể cấm chế, vua biết không có vật gì có thể khiến nó dừng lại, người để tham dục vào tâm không điều phục, dục ở trong tâm như chôn đinh (trong lòng), dục này lúc phát khởi rất mạnh mẽ, không ai có thể dừng nghỉ được”.
Lúc này, thầy luyện voi dùng mọi cách cũng không thể khiến voi dừng nghỉ mà quay về, lại tâu với vua rằng: “Voi này chạy mệt rồi, mong đức vua cầm lấy cành cây, để voi tùy ý chạy”.
Liền gặp một cái cây, vua và thầy luyện voi bám vào một cành cây mà dừng lại được, dụ như từ cõi chết được tái sinh trở lại.
Vua nói với thầy luyện voi rằng: “Ông chưa huấn luyện thành thục con voi này mà đã dẫn đến cho ta cưỡi”.
Thầy luyện voi tâu với vua: “Thần đã điều phục thành thục rồi, nhưng vì con voi ngửi thấy mùi voi cái, say mê tham dục, nên không còn nghe theo lời dạy. Con voi đó tuy đi rồi, nhưng còn nhớ nhà mình, đến ngày thứ bảy nhất định sẽ quay về, vì sao như vậy? Vì thấy voi cái, hành dục đã xong, thì nó sẽ nhớ lại nhà của mình”.
Đến ngày thứ bảy, con voi đó quay về, lúc đó thầy luyện voi nhanh chóng đến tâu vua.
Vua nói: “Ông dạy con voi này chưa được thuần thục”.
Người ấy tâu vua: “Thần đã điều phục được voi”.
Vua trách rằng: “Điều phục như thế nào?”
Thầy luyện voi lại tâu rằng: “Xin bệ hạ hãy kiểm tra liền biết thực hư”.
Thầy luyện voi liền đốt một hòn sắt to, khi sắt đỏ như lửa, đã lệnh cho voi ăn, voi liền đến trước, chuẩn bị nuốt lấy hòn sắt ấy.
Thầy luyện voi ấy lại tâu vua rằng: “Nếu ăn hòn sắt nóng đó, thì voi chắc chắn sẽ chết”.
Thời vua liền nói với thầy luyện voi: “Voi được điều phục như vậy, sao lúc đó lại làm ta hoảng loạn?”
Tâu rằng: “Thần chỉ điều phục thân, không thể điều phục được tâm”.
Vua nói: “Ông từng thấy người nào điều phục được tâm chưa?”
Thầy luyện voi tâu vua rằng: “Có! Chỉ có Phật Thế Tôn mới có thể điều phục được thân tâm. Tất cả hữu tình muốn điều phục tâm mình, do không thể điều phục, mà đều bỏ cuộc. Có các vị ngoại đạo, tu hành khổ hạnh, nhưng rừng rậm tham dục trong tâm, lại không thể nhổ bỏ được. Cũng có người xa lìa hoàn cảnh, bỏ nơi tham dục, nhưng không kiên trì, lại trở lại thoái thất. Chúng A tu la và chư thiên, sư tử, các loại thú, rồng, rắn, bồ câu, cho đến thiên nga và các loại khác, v.v. tất cả hàm thức (chúng sinh), đều bị dục trói buộc, từ vô thủy đến nay, như lưu chuyển trong luân hồi, từ dung mạo thuở thiếu niên đến lúc già, điều phục tâm ấy, với muôn vàn khổ hạnh. Hoặc có tiên nhân, dùng gió dùng hoa làm thức ăn, đều không điều phục được tâm. Tâm tuy không hình tướng, nhưng thiên nhân nào có thể được tự tại? Như đại vương đây, có oai lực lớn, trong chiến tranh là người thù thắng nhất cũng không điều phục được tâm. Duy chỉ có Phật Thế Tôn không có tham dục, tâm đạt được tự tại”.
Lúc đó, đại vương nghe đến Phật Thế Tôn có sức tinh tấn, quảng hạnh huệ thí, tu các phúc nghiệp, liền phát nguyện Vô thượng Bồ đề và nói bài kệ rằng:
Tu vô lượng phúc cầu Phật quả,
Đắc thành Thiện Thệ Tự Tại Tôn,
Nếu người chưa được lên bờ giác,
Ta sẽ thệ độ đến bờ giác,
Nghe Phật ly dục phát Bồ đề,
Lại hành huệ thí ban chính pháp,
Nguyện ta tương lai đắc thành Phật,
Lợi ích hữu tình diệt tham dục”.
Phật nói với đại vương: “Ý ngài nghĩ sao? Vị vua tên Quang Minh lúc đó, đâu phải ai khác, chính là tiền thân của ta. Ta vào lúc đó sơ phát tâm Vô thượng Bồ đề”.
2) Thợ gốm: Sự bố thí đầu tiên
Lúc đó, Thắng Quang đại vương lại bạch Phật rằng: “Ban đầu hành bố thí với ai để chứng đắc Vô thượng Bồ đề?”
Đức Phật nói với vua: “Vô lượng kiếp xa xưa về thời quá khứ, có thành tên là Tỳ Ha Bỉ Địa, trong thành đó có một người thợ gốm, có Phật xuất thế, hiệu là: Thích Ca Mâu Ni, chứng Vô thượng Chính đẳng Chính giác, đầy đủ mười hiệu, cũng có đệ tử Thanh văn, tên là Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên và thị giả A Nan Đà.
Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Chính đẳng Chính giác cùng vô lượng chúng Tỳ kheo, đi du hóa nhân gian, vào trong thành ấy.
Lúc này, Đức Phật bỗng nhiên bị trúng gió, liền nói với A Nan Đà rằng: “Ông hãy đi đến nhà thợ gốm để xin bơ và mật ong”.
A Nan Đà nghe lời Phật, liền đi đến nhà thợ gốm, A Nan Đà đứng ở ngoài cửa mà nói rằng: “Trưởng giả! Thế Tôn đang trúng gió nặng, đang rất cần bơ và mật ong”.
Khi ấy thợ gốm nghe A Nan Đà nói xong, liền đem ra bơ, mật ong, v.v. Trưởng giả còn cùng A Nan Đà về chỗ của Phật, dùng các loại bơ, mật ong thoa lên thân Phật, dùng nước ấm cho Phật tắm, lấy nước đường dâng lên Thế Tôn. Nhờ được trị liệu mà bệnh của Phật đã được khỏi.
Lúc này, thợ gốm quỳ xuống phát nguyện và nói bài tụng rằng:
Ta lấy bơ mật cúng Như Lai,
Nguyện được công đức lợi ích lớn,
Chủng tộc danh hiệu Thanh văn chúng,
Đều như đấng Thích Ca ngày nay,
Khéo léo điều phục các hữu tình,
Xa lìa các khổ về Niết bàn.
Con của thợ gốm cũng phát lời nguyện rằng: “Nguyện tôi tương lai, sẽ như thị giả Phật”.
Phật nói với đại vương: “Ta vào lúc đó là người đầu tiên cúng dường Thích Ca Như Lai, chứng đắc Vô thượng Bồ đề. Còn người con đó chính là A Nan Đà vậy”.
3) Cúng dường chư Phật
Đại vương lại hỏi Thế Tôn rằng: “Từ lúc sơ phát tâm cho đến thành Phật, phải cúng dường bao nhiêu vị Phật mới có thể chứng đắc Vô thượng Bồ đề?”
Phật trả lời rằng: “Ta từ Thích Ca Như Lai, trải qua A tăng kỳ kiếp đầu tiên, cho đến hộ trì chư Phật ra đời, dùng tâm thanh tịnh, cúng dường bảy vạn năm ngàn vị Phật như vậy. Trong những lần cúng dường đó, ta cũng chưa từng có tâm gì khác, duy chỉ cầu Vô thượng Chính đẳng Bồ đề.
Này đại vương! A tăng kỳ kiếp thứ hai, ta đầu tiên cúng dường Nhiên Đăng Phật, cho đến cúng dường Bảo Kế Phật, dùng tâm thanh tịnh, cúng dường bảy vạn sáu ngàn vị Phật như vậy. Ta tuy trải qua nhiều đời, tâm chưa hề có gì khác, luôn lấy thanh tịnh thuần tín cúng dường chư Phật.
Này đại vương! A tăng kỳ kiếp thứ ba, ta đầu tiên cúng dường Bảo Kế Phật, cho đến An Ẩn Phật, cúng dường bảy vạn bảy ngàn vị Phật như vậy, đến Ca Nhiếp Ba Phật (Đức Phật Ca Diếp), ta tuy cúng dường, không có tâm nào khác, luôn lấy tâm tịnh tín, cúng dường chư Phật. Lúc làm Bồ tát cúng dường như vậy, đều được chư Phật thọ ký cho ta, chứng được Vô thượng Chính đẳng Bồ đề, viên mãn được tâm nguyện của ta, vì cầu chính giác nên kiên cố hoan hỷ thọ trì và lấy tâm từ nhiếp hóa tất cả hữu tình”.
Lúc đó, Thắng Quang Vương nghe Phật nói xong, lòng đầy hoan hỷ, đảnh lễ dưới đôi chân Phật, kính xin từ giã mà đi.