Trong A hàm kinh, đâu đâu cũng đều nói về quan điểm “trung đạo”, nay xin nêu ra để tìm hiểu.
1) Sinh và Diệt
Tạp A hàm kinh, kinh số 262 viết:
“Người đời điên đảo nương chấp vào hai biên: hoặc là hữu, hoặc là vô. Người đời chấp giữ các cảnh giới, tâm liền phân biệt chấp trước. Này Ca Chiên Diên, nếu không thọ, không thủ, không trụ, không phân biệt chấp trước ngã thì khổ này khi sinh thì sinh, khi diệt thì diệt. Này Ca Chiên Diên, đối với điều đó không nghi ngờ, không mê hoặc, không do ai khác mà tự mình biết, đó gọi là chính kiến mà Đức Như Lai đã giảng nói. Vì sao? Này Ca Chiên Diên, vì nếu quán sát như thật về sự tập khởi của thế gian, sẽ không sinh ra kiến chấp thế gian là không (vô). Quán sát như thật về sự diệt tận của thế gian, sẽ không sinh ra kiến chấp thế gian là có (hữu). Này Ca Chiên Diên, Như Lai đã xa lìa hai biên, thuyết về trung đạo, rằng: Cái gọi là cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh, chính là duyên vô minh nên có hành, cho đến sự tập khởi của sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não. Và cái gọi là cái này không nên cái kia không, cái này diệt nên cái kia diệt, chính là vô minh diệt thì hành diệt, cho đến sự diệt tận của sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não”.
Trong kinh số 301 cũng có cách nói tương đồng, về hiện tượng sinh diệt của 12 duyên khởi, đối với sự sinh khởi của khổ (tập) và sự diệt tận của khổ, lấy sự quán chiếu chân chính để xa lìa hai biên “có, không”, đây chính là cái thấy của trung đạo.
2) Thường và Đoạn
Tạp A hàm kinh, kinh số 300 viết:
“Phật bảo một vị Bà la môn: Nếu tự mình làm và tự mình cảm thọ (tự tác tự giác) thì sẽ rơi vào thường kiến. Nếu người khác làm và người khác cảm thọ (tha tác tha giác) thì sẽ rơi vào đoạn kiến. Như Lai thấu rõ giá trị của thuyết pháp và pháp tướng của nó nên thuyết pháp ở nơi trung đạo. Tức là nói rằng: Cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi, duyên vô minh nên có hành… cho đến thuần một khối khổ lớn tụ tập. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, cho đến thuần một khối khổ lớn bị diệt”.
Trong đây cũng nương vào quan điểm “cái này có nên cái kia có, cái này diệt nên cái kia diệt” của duyên khởi trung đạo, để thoát ly thường kiến và đoạn kiến.
“Tự”, “tha” trong “tự tác tự giác (thọ)” và “tha tác tha giác (thọ)” là chỉ cho “tự dĩ tự tính hữu” (tự từ tự tính mà có), “tha dĩ tự tĩnh hữu” (tha từ tự tính mà có), thực ra cái “tự”, “tha” tồn tại riêng rẽ độc lập này đều là “không” nhưng ngoại đạo lại chấp là “có” nên rơi vào biên kiến.
3) Nhất và Dị (Một và Khác)
Tạp A hàm kinh, kinh số 272 viết:
“Người thiện nam, người thiện nữ có lòng tin vui xuất gia, tu tập vô tướng Tam muội; tu tập, tu tập nhiều, sẽ trụ trong cửa cam lộ, cho đến cứu cánh cam lộ Niết bàn. Ta không nói cam lộ Niết bàn này y cứ vào ba kiến. Những gì là ba? Có một chủ trương như sau: Mạng tức là thân. Lại có chủ trương: Mạng khác thân khác. Lại nói: Sắc là ngã, không hai không khác, tồn tại mãi mãi, không biến đổi”.
Tạp A hàm kinh, kinh số 297 viết:
“Vì duyên vô minh nên có hành, nếu có người lại hỏi: Ai là hành, hành thuộc về ai? Người kia sẽ đáp: Hành chính là ngã, hành là ngã sở. Điều ấy cũng như: Mạng tức là thân, hoặc nói, mạng khác thân khác. Nếu thấy rằng mạng tức là thân, với người tu Phạm hạnh, điều này không có. Hoặc lại thấy rằng mạng khác thân khác, với người tu Phạm hạnh, điều này cũng không có. Xa lìa hai biên này, chân chính hướng trung đạo. Hiền thánh xuất thế, như thật, chẳng điên đảo, chính kiến, chính là duyên vô minh nên có hành... Nếu Tỳ kheo nào nhờ ly dục mà từ vô minh mà sinh minh, vô minh kia diệt nên hành cũng diệt, cho đến việc thuần một khối khổ lớn cũng bị diệt. Đó gọi là Đại không pháp kinh”.
Hai đoạn kinh này, nương vào 12 duyên khởi để nói rõ “mạng” và “thân” không phải một cũng không phải khác. Từ đó, hiển thị ra trung đạo.
4) Lai và Xuất (Đến và Đi)
Tạp A hàm kinh, kinh số 335 nói:
“Thế nào là Đệ nhất nghĩa không kinh? Này các Tỳ kheo, khi mắt sinh thì nó không có chỗ đến; lúc diệt thì nó không có chỗ đi. Như vậy mắt chẳng thật sinh, sinh rồi diệt mất; có nghiệp báo mà không rõ chủ thể khởi lên tác dụng. Ấm này diệt rồi, ấm khác tương tục, trừ tục số pháp. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng nói như vậy, trừ tục số pháp. Tục số pháp, tức là nói, cái này có thì cái kia có, cái này khởi thì cái kia khởi, như vô minh duyên hành, hành duyên thức, nói chi tiết đầy đủ cho đến thuần một khối khổ lớn tập khởi. Lại nữa, cái này không thì cái kia không, cái này diệt thì cái kia diệt, vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt. Như vậy, nói rộng cho đến thuần một khối khổ lớn tụ diệt. Này các Tỳ kheo, đó gọi là Đệ nhất nghĩa không kinh”.
Đoạn kinh văn này nói rõ, sự sinh diệt của mắt không có chỗ đến, không có chỗ đi (“khứ” tức là “xuất” trong Bát bất), còn nói “mắt không thực sinh”, ý chỉ cho “mắt không từ tự tính mà sinh ra”). Đoạn Tạp A hàm kinh này là Đệ nhất nghĩa không pháp kinh thực sự đã đánh dấu quan điểm của phái Ứng thành. Quan điểm của Trung quán tông phái Ứng thành thời kỳ sau, cho rằng “mắt không từ tự tính mà sinh ra” chính là Đệ nhất nghĩa đế. Tục số pháp tức là duyên khởi, so với quan điểm duyên khởi của phái Ứng thành thì không chút khác biệt.