Tôi từng viết nhiều trang văn về người lính.
Viết về lính, như là một cái nghiệp của tôi. Khởi đầu từ những việc xung quanh, mình nhìn thấy, mình tiếp cận, nhiều lúc là dằn vặt, ngẫm ngợi. Rồi thành đam mê, những day dứt khôn khuây. Không biết người khác thế nào, chứ riêng tôi, không thể giấu mình trước những người lính, càng không thể lặng im trước đời sống mọi mặt của họ. Trong những cuốn sách đã viết, dù tiểu thuyết dài hoặc những bài ngắn vẫn cứ thấp thoáng bóng những người lính. Những người lính như chờ đợi, khuyến khích, biết những gì tôi nghĩ, việc tôi làm, cả những thất bại và đau đớn đời thường dường như họ cũng biết.
Công việc của nhà văn, ngay từ những dòng đầu tiên tôi đã viết về những người lính. Tôi chưa bao giờ có một chút băn khoăn rằng tại sao tôi lại viết về họ. Khi cầm bút, tôi rất ít lựa chọn. Chính những người lính đã dắt ngòi bút của tôi đi. Tôi cũng ý thức được, những người lính theo dõi tôi kỹ càng nhất. Không riêng ở bề mặt câu chữ, các sự việc mà tôi động bút đến, mà quan trọng là sự trung thực có được ngòi bút của tôi thể hiện mạch lạc và chín muồi không. Mọi hành vi, mọi ý nghĩ lúc nào cũng trở đi trở lại trước trang giấy trắng.
Những trang viết của tôi, tôi dành tất cả để phác họa cuộc sống người lính như nó vốn có, không thêm thắt, không tước bớt vẻ đẹp hay những xù xì góc cạnh. Tôi không bị sức ép nào khi viết về cuộc sống người lính. Tôi không thích sự làm dáng trước những mảnh đời trung thực. Tôi hiểu thế giới những người lính một cách rõ ràng và trong sáng nhất, và miêu tả cặn kẽ, ở các khía cạnh, các cung bậc khác nhau của cảm xúc với vốn từ ngữ của mình.
Do đặc thù công việc có thể hiểu như một định mệnh, hầu như tôi chưa bao giờ phải đi tìm các nhân vật của mình. Họ tự đến với tôi. Khi thì chủ động khách quan khi thì tình cờ như những món quà. Tôi luôn trân trọng và khâm phục các nhân vật của mình. Họ bao gồm nhiều lứa tuổi, công việc khác nhau, tâm tư khác nhau. Cả cái vẻ bên ngoài cả suy nghĩ bên trong chả ai giống ai cả. Họ giống nhau ở một điểm là cuộc đời họ gần như ngay lập tức ngấm sang cuộc đời tôi. Có những người tôi và họ trò chuyện với nhau ít lắm. Thậm chí chỉ dăm ba câu không đầu không cuối rồi thì biệt tăm sao tôi vẫn nhớ về họ, vẫn thể hiện họ với những gì thật nhất. Điều này nhiều khi tôi không giải thích nổi. Chỉ thấy rằng, khi viết về những người lính, tôi đã hứng khởi và đắm say một cách kỳ lạ.
Những trang văn tôi viết về người lính thường là những thôi thúc từ trái tim. Trái tim con người có lý lẽ riêng mà đôi khi chúng ta không dễ gì thể hiện ra mạch lạc trên trang giấy. Tôi miệt mài đưa những thôi thúc ấy lên. Nhìn những dòng chữ hiện dần, hiện dần, một niềm tin đến mê đắm cứ trào lên. Những nhân vật hiện hình trên trang giấy. Những nhân vật thương yêu đến nỗi tôi không thể dứt được ra.
Họ như là tôi, từ tôi bước ra vậy.
Trong những nhà văn quân đội đồng thời, tôi là người thường xuyên đi đơn vị. Đi do yêu cầu nhiệm vụ đã đành, nhưng không ít lúc là tự tìm xuống với bộ đội. Ăn ở có khi hàng tháng, có chuyến đi xuyên Việt mười mấy tỉnh thì đa phần vẫn là ở các đơn vị quân đội, viết về người chiến sĩ.
Cũng không ai ép tôi phải viết về người lính. Cấp trên chỉ gợi ý, động viên chứ tuyệt nhiên không phân công phải viết thế này, thế khác. Lắm lúc nghĩ mình thật tự do tự tại. Đi đâu thì đi. Viết gì thì viết. Có chặp dài không viết hoặc có lúc viết đăng tù tì phải viện dẫn cả bút danh (điều tôi vốn không ưa thích) để ký khỏi trùng cũng là tự mình tổ chức ngòi bút của mình. Tự do là ở đấy chứ ở đâu.
Nhưng đi thì không như thế. Cứ dăm bữa nửa tháng không trà trộn xuống đơn vị thấy bứt rứt thế nào. Nhiều khi chỉ ới nhau cái là hành quân, nhảy xe nhảy tàu, thậm chí xe ôm với chiếc túi tàng tàng đựng vài thứ đồ lặt vặt ào xuống các đơn vị với bộ đội.
Cái mặt tôi cũng lạ. Cán bộ nhân viên các nhà khách quân khu, quân đoàn chẳng mấy khi hỏi giấy tờ do quen mặt một nhẽ, nhưng khi cả vệ binh các đơn vị cơ sở cũng rất ít khi hỏi giấy tờ công tác này kia thì quả khác thường. Nếu được đón khỏi bàn, nhưng khi tự xuống hoặc dẫn đoàn xuống, cứ mặt tôi ló ra, cười cười, nói mấy câu lính tráng là các cậu vệ binh mời chào ríu rít lắm.
Đã bao nhiêu chuyến đi, tôi thực không thể nhớ hết. Nhưng không ít những chuyến đi, chắc chắn là nhớ cho đến lúc nhắm mắt.
Điều khiến tôi day dứt nhất sau mỗi chuyến đi là cuộc sống của người chiến sĩ hôm nay vẫn còn quá nhiều khó khăn, vất vả. Làm văn, làm báo nói một câu tưởng thế là xong, coi như mình nói tiếng nói của anh em, cấp trên thể nào chả biết, có khi biết từ tám hoánh và rồi thời gian tới chắc chắn anh em sẽ bớt khó khăn, vất vả hơn. Chả nhẽ các thế hệ cán bộ, chiến sĩ phấn đấu và hy sinh nhiều như thế, thành tựu anh em hôm nay được hưởng lại ít ỏi đến mức phải kêu lên thì còn ra làm sao? Cuộc sống bừa bộn, sôi động hôm nay, đến bao giờ khó khăn, thách thức bớt dồn lên đôi vai người chiến sĩ? Những câu hỏi xô vào trí não sau mỗi chuyến đi, nhất là đi về các đồn biên phòng hút hắt, gặp những người lính trạc tuổi tôi, trên dưới bốn mươi, quê xa hàng ngàn cây số, bố mẹ đã già, vợ con chưa có, người yêu cũng chưa có, năm mới về phép một lần. Các anh cứ ngơ ngác thế nào. Tôi như thấy mình có lỗi? Tôi thấy dường như chúng ta còn phải làm nhiều lắm cho mỗi người lính, khi mà hằng ngày hằng giờ, trăm ngàn khó khăn vẫn bủa vây họ.
Một day dứt, thậm chí là dằn vặt luôn trở đi trở lại mỗi khi tôi đối diện với những người vợ lính có chồng hy sinh, nhất là hy sinh trong thời bình. Gia đình, dòng họ tôi không hiểu sao rất nhiều liệt sĩ. Đất nước rộng dài. Mấy cuộc chiến tranh dằng dặc. Có lẽ không đất nước nào nhiều nghĩa trang liệt sĩ như đất nước Việt Nam. Ngay thời bình, tôi đã chứng kiến không ít những đồng đội hy sinh, có người khá thầm lặng.
Những người vợ liệt sĩ, dù ở lứa tuổi nào chăng nữa cũng đều dội trực diện vào tâm tư, luôn ám ảnh, thúc giục ngòi bút của tôi. Có những cuộc, sau sáu, bảy năm các anh hy sinh, những người vợ hăm mốt hăm hai ngày nào, con thơ còn tơ tóc, giờ đây chúng lớn lên, được giải thích, được hưởng cái này cái khác nhưng riêng tôi vẫn thấy có cái gì đó không trọn vẹn. Đời những người phụ nữ góa chồng luôn dài khác thường. Những người vợ lính càng không ngoại lệ, có khi còn mông mênh dằng dặc hơn.
Tôi luôn ám ảnh và tìm xuống với các đơn vị vì có những lý do như thế.
Sau những bài viết về người chiến sĩ, tôi nhận được rất nhiều sẻ chia, động viên, biểu dương, thậm chí là hò hẹn. Hạnh phúc của người viết với tôi chỉ giản dị thế. Vẫn luôn nhắc mình phải viết khác đi, phải đổi mới, phải tân trang, phải lạ hóa ngòi bút mới hòng có chỗ đứng trên văn đàn? Nhưng một tiếng nói khác, nhỏ thôi, tha thiết nhắc hãy cứ là mình, cứ thể hiện những suy nghĩ thật của mình, của người chiến sĩ - những đồng đội xung quanh lên mặt giấy. Những điều người chiến sĩ cần thực ra không xa xôi diệu vợi, càng không to tát bổng lộc tiền tài gì, mà là những thứ rất nhỏ: một câu nói chân thành, một cái bắt tay ấm nóng, một chén rượu ngô đêm đông biên giới, một mẩu tin quê nhà giữa bão lụt, mẹ cha khỏe mạnh, con học giỏi, vợ tần tảo sớm hôm… Những điều ấy, các anh bảo vẫn tìm thấy trong trang viết của tôi. Người chiến sĩ vẫn chờ, lẽ nào tôi khác được.
Tôi nghĩ mình là người may mắn, tướng lĩnh cũng được gặp nhiều. Có lần vinh dự được gặp Bộ trưởng. Sau cuộc phỏng vấn theo nhiệm vụ chính trị là những câu chuyện hết sức đời thường. Tôi đã mạnh dạn báo cáo thẳng những suy nghĩ, tâm tư của người chiến sĩ ở cơ sở với ông. Người đứng đầu Bộ Quốc phòng trước hết cũng là một người lính. Tôi nhận ra một điều, đừng tưởng ở nơi cao kia, các tướng lĩnh, thủ trưởng không sát sườn với từng bữa ăn giấc ngủ của người lính. Và cũng xin nói thẳng rằng, các tướng lĩnh cũng không ít trăn trở, tâm tư. Ai cũng đêm ngày sáng tối cống hiến hết sức mình vì đời sống bộ đội.
Trong các trang sách, tôi cố gắng đưa những gì thật nhất, những điều mắt thấy tai nghe từ người lính, từ cuộc đời, đến với người lính, với cuộc đời.
Tôi luôn coi đó là nhiệm vụ, còn hơn thế, là lẽ sống.
Và thực tâm mong muốn đồng đội, các độc giả chia sẻ những trang viết của tôi.
Nhà văn PHÙNG VĂN KHAI