Trong hơn hai mươi năm làm báo, viết văn trong môi trường quân đội, tôi luôn được tiếp cận với sự hy sinh quả cảm của đồng chí đồng đội mình ngay trong thời bình hôm nay.
Điều đó luôn ám ảnh tôi, day dứt và tiếc nuối, trăn trở và ngẫm ngợi về những tấm gương liệt sĩ, những người mẹ, người vợ liệt sĩ thời bình. Cả những suy tư về lẽ sống, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong cuộc sống ngày càng sôi động và phức tạp. Những cống hiến máu xương ấy, ở ngay trong thời bình hôm nay phải được trân trọng và gìn giữ. Chúng ta phải sống xứng đáng hơn với máu xương của các chị, các anh liệt sĩ. Có người còn trẻ lắm, vừa tròn hai mươi tuổi. Có người còn chưa biết mặt đứa con sắp sinh của mình. Có người đang xây dở ngôi nhà cho mẹ cha tuổi tám, chín mươi. Có người thậm chí còn chưa lập gia đình đã sớm lấy thân mình hy sinh trong bão lốc, lũ xoáy, đá lở, lửa bỏng nơi biên giới hải đảo. Họ là những thanh âm không thể thiếu của chúng ta. Họ âm thầm nhưng quyết liệt trong mỗi hành vi đã thuộc về bản chất của mình. Nhiều người đã được phong Anh hùng ngay sau khi hy sinh như Liệt sĩ Lê Văn Phượng, Liệt sĩ Lù Công Thắng… Phẩm chất anh hùng của người lính thời bình hoá ra rất đỗi bình dị và gần gũi, luôn ở ngay bên cạnh chúng ta, là chính đồng đội ta. Điều này để người chiến sĩ ngày càng tự tin vững bước trong chặng đường phía trước của mình. Các anh hy sinh giản dị bao nhiêu thì những người đang sống càng tiếc thương vô hạn bấy nhiêu. Những mạch nguồn sáng trong ấy đã và đang thắp sáng những chặng đường mà người lính vai kề vai bước tiếp. Có người hy sinh ngay ở cơ quan tôi. Trong một chuyến công tác mà chỉ hôm qua thôi anh còn điện thoại dặn tôi điều này điều khác về nghề. Vậy mà chỉ mấy ngày sau. Anh nằm đó, xương cốt cũng chẳng còn được bao nhiêu trong chiếc quan tài kẽm phủ lá cờ đỏ sao vàng. Nước mắt dường như đã là vô nghĩa lý với chúng tôi, những người lính, những đồng đội của anh. Đã tròn hai mươi năm, tôi còn như thấy rõ mồn một chiếc quan tài phủ lá cờ đỏ sao vàng ấy.
Anh là Liệt sĩ - Thượng tá Nguyễn Duy Thanh.
Khi tôi về mái nhà Truyền hình Quân đội1 anh đã có hàng chục năm tuổi nghề, hàng trăm phóng sự từ chiến trường nóng bỏng đến những cuộc tháp tùng cờ hoa lộng lẫy nơi trời Âu, trời Phi cùng các đoàn quân sự cấp cao. Người con quê Yên Thắng - Yên Mô - Ninh Bình lịch lãm mà vô cùng gần gũi. Cơ quan báo chí truyền hình mỗi người mỗi nết nhưng vẹn nguyên ở trong ấy là những tấm lòng chan chứa yêu thương. Có thể tranh luận với nhau kịch liệt về nghề, phê phán những điểm yếu, quyết liệt những khuôn hình chưa chuẩn, gay gắt những lời bình hời hợt, dễ dãi nhưng rời phòng họp là yêu thương quấn túm lấy nhau. Người Việt Nam luôn đùm đậu lá lành lá rách, thế hệ trước gương mẫu chỉ bảo thế hệ sau, thế hệ sau lắng nghe, thực hành những gì các anh các chị răn dạy. Quý là quý ở chỗ đó. Nguyễn Duy Thanh là người như vậy. Tôi về Truyền hình Quân đội trong tâm thế mặc cảm của một người trẻ tuổi, chưa từng học nghề, càng chưa từng làm nghề, cái nghề truyền hình vốn đào thải khốc liệt. Thế thì tôi sẽ làm sao đây ở nơi cạnh tranh đó. Các chị các anh, nhiều người đã thành danh, đã là những tên tuổi truyền hình. Những chị những anh khác đều là những gương mặt trẻ nổi trội, có tiếng vang trên toàn quốc. Chính các chị, các anh rộng mở bàn tay đón người em út là tôi. Nguyễn Duy Thanh bảo:
- Hãy đi xuống đơn vị cùng anh. Nơi đó là nơi những người trẻ như em rèn luyện trưởng thành.
Tôi nhớ như in lời anh. Cái ngày ấy vất vả lắm. Bốn giờ sáng tự mình báo thức, khẽ khàng chui khỏi chăn ấm nhóm lửa ăn bát cơm cà muối rau dưa rồi lọc cọc đạp xe ra bến đi xe tuyến sang cơ quan 84 Lý Thường Kiệt. Nhà tôi ở một huyện nhỏ tỉnh Hưng Yên, đến cơ quan hơn hai mươi cây số mất già một tiếng. Hôm nào trước sáu giờ sáng tôi đều có mặt ở cơ quan. Tôi vốn con nhà nông dân nên xác định phải lấy cần cù chăm chỉ bù những thiếu hụt về học hành, về nghề nghiệp. Nhà văn Chi Phan khi ấy phụ trách Truyền hình Quân đội ở căn phòng riêng trên gác hai cũng đã sáng đèn. Hai chú cháu không chào hỏi nhau nhưng đều biết một ngày mới đã bắt đầu từ hai tiếng trước. Chính đức tính chăm chỉ của ông đã rèn tôi không phải bằng lời nói mà là hành động thường trực của mình. Tôi soạn các tờ báo đóng theo khuôn khổ đặt ngay ngắn trên bàn rồi mau chóng đun nước sôi, chuẩn bị trà, đánh ấm chén để các chú các anh bắt đầu buổi giao ban sớm. Công việc ngày này qua ngày khác. Tôi mặc nhiên kiêm quản vai trò liên lạc của cơ quan. Cần bài vở đưa vào thành đánh máy: sẵn sàng. Cần sang Đài Truyền hình Việt Nam đưa công văn: sẵn sàng. Cần gác cổng sắp xếp xe máy xe đạp của cộng tác viên tới làm việc: sẵn sàng. Những hôm làm việc khuya, đi mua cơm mua cháo cho các anh, tôi đều nhất nhất xung phong. Tôi nhập “gia đình truyền hình” tự nhiên và có phần an nhiên như vậy. Mọi người cũng tận tình chỉ bảo nghề nghiệp cho tôi. Từng câu từng chữ, từng khuôn hình, từng vệt sáng, cả những đường ăn nết ở ở đời, các chú các anh đều chân thành truyền lại cho tôi. Anh Duy Thanh là người truyền nghề nhiều và tinh. Anh ít nói nhưng khi trò chuyện riêng với tôi anh đều chỉ bảo nghề nghiệp. Anh khẳng định tôi sẽ theo được nghề. Anh luôn rủ tôi đi làm những phóng sự dài về văn hoá thể thao. Anh bảo: “Chú phải phát huy thế mạnh văn học trong làm truyền hình mới có nét riêng và mới định danh nghề nghiệp được”. Buổi chúng tôi chào anh lên đường theo đoàn cấp cao thăm nước bạn Lào mùa hè năm 1998 định mệnh, cũng là khi anh đang giao tôi thực hiện một phóng sự dài về Đội bóng đá Thể Công. Đội đang trên đà vô địch nhưng Duy Thanh đã sớm nhìn thấy những điểm yếu, những hụt hẫng chiến lược của đội bóng quân đội. Duy Thanh rất yêu bóng đá. Anh là bạn thân của huấn luyện viên trưởng Vương Tiến Dũng khi ấy đang cầm trịch đội bóng. Cái ngày Thể Công không còn tên nữa, nước mắt tôi đã rơi ra không riêng vì tiếc nuối thương hiệu đội bóng quân đội mà phần lớn là nhớ đến anh. Hẳn còn sống, chắc chắn Duy Thanh sẽ không chịu để mất tên Thể Công dễ dàng như thế.
Trước hôm anh đi Lào, buổi chiều anh mời mấy phóng viên trẻ đi bia hơi gần sân Cột Cờ. Bên cốc bia sủi bọt trắng phau, anh dặn tôi những phỏng vấn với người yêu đội Thể Công. Anh bảo phải để họ cho roi cho vọt mới mong đội bóng trưởng thành bền vững. Đã có dấu hiệu “ngôi sao” ở đội bóng là bắt đầu dốc xuống đấy. Tôi bảo hay chờ anh về vì với những bậc đa đề làng bóng đá tôi chưa chắc đã tiếp cận được. Anh bảo tôi hãy mạnh dạn lên. Mình làm vì nghề, vì đội bóng chứ đâu phải tên tuổi danh dự cá nhân ai đó. Anh đã điện thoại cho các vị ấy cả rồi. Phần lời bình, anh hoàn toàn tin tưởng ở tôi. Anh bảo: “Nếu chú viết bớt ôi a đi thì sẽ sắc hơn. Chú vẫn còn làm văn trong lời bình. Lời bình cần chất văn học nhưng tuyệt đối tránh làm văn ở trong đó”. Những lời dặn của anh, cả sau này khi anh đã mất, ở những lời bình phim xuất sắc nhất được các giải thưởng của tôi, đều có không ít trí tuệ từ những căn dặn của anh.
Ngay chiều hôm sau, cả cơ quan lặng đi khi nghe thông tin: Máy bay đoàn công tác bị rơi ở Xiêng Khoảng.
Buổi tối, thời sự đưa tin.
Chúng tôi bị sốc nặng. Không ai nói với ai một điều gì. Tất cả lầm lũi, ngơ ngác, đau đớn nhưng vẫn mong chờ một màu nhiệm nào đó.
Căng thẳng nhất có lẽ là vợ anh.
Chị đến cơ quan với một tâm thế rằng anh chưa hy sinh. Cơ quan không được phát tin hay có động thái gì. Anh vẫn còn sống. Cái sự máy bay rơi kia chưa chắc đã phải sự thật. Mà máy bay có rơi thật đi nữa thì anh vẫn còn sống trong một cánh rừng ở nước bạn Lào. Một ngày chị khẳng định như thế. Nhiều ngày chị khẳng định như thế. Tất cả cơ quan căng thẳng. Không riêng gì cơ quan truyền hình mà cả các cơ quan cấp trên, cấp rất cao đều đang tất bật, dốc hết sức vào việc tìm kiếm, nhưng ở thời điểm đó việc này là rất khó khăn. Việc tiếp cận khu vực máy bay rơi trên đỉnh núi cao hơn hai nghìn mét là vô cùng phức tạp trong mùa mưa âm u ngày cũng như đêm. Những tiểu đoàn Đặc công hai nước vạch đá xuyên rừng tiếp cận mục tiêu để xác định rõ ràng người mất người còn liên tiếp báo về những thông tin xấu. Ngay cả Đại tướng Chu Huy Mân, một vị tướng dày dạn chiến trường qua mấy cuộc chiến tranh cũng vô cùng bồn chồn, bởi con ông, Thượng tá Chu Tấn Sơn cũng có ở trong đoàn công tác.
Nhưng sự thực đau lòng vẫn diễn ra.
Đoàn công tác gồm các tướng lĩnh sĩ quan trên chuyến bay, toàn bộ đã hy sinh…
Cái thông tin ghê gớm ấy giáng xuống đầu những người lính thời bình chúng tôi như những đòn trí mạng giáng vào thân thể mỗi người. Trong lễ tang kéo dài ấy, có những lúc chúng tôi tưởng như không chịu đựng nổi. Nhìn dãy quan tài kẽm phủ cờ Tổ quốc nằm im lặng trong hội trường sân bay Gia Lâm không một ai cầm lòng được. Ngoài kia, trời mưa như trút nước. Sấm nổ đì đoành không dứt. Những vệt sét nhoáng lên trong vòm trời xám xịt nước mưa. Từ tờ mờ sáng, trong hội trường vắng ngắt, tôi thấy rờn rợn khi nhìn vào đôi cầu vai Đại tướng rung rung cùng mái đầu bạc trắng của bác Chu Huy Mân đang ôm chiếc quan tài kẽm có phủ lá cờ của đồng đội ông, của con ông. Hy sinh này vị tướng trận làm sao có thể ngờ được. Mấy chục năm đằng đẵng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, biên giới Tây Nam, phía Bắc ở đâu có súng nổ, ở đó có mặt vị tướng trận vốn là một trong những vị tướng hàng đầu của quân đội ta. Bây giờ ông ngồi kia, bên lá cờ đỏ sao vàng bọc thi thể con ông. Điều đó là quá sức chịu đựng với một người cha như ông. Tôi đứng như trời trồng, không bước được cũng không quay ra được khỏi hội trường mà nước mắt cứ thế rơi ra.
Cha mẹ anh Nguyễn Duy Thanh không ngờ là người đứng vững nhất. Cha anh, mái đầu bạc nâng cô con dâu và các cháu đã như tàu lá héo bên ngôi mộ đang lấp đất. Trên trời sấm vẫn nổ đì đoành như thêm thử thách lòng dạ người đang sống. Tôi chưa từng chứng kiến đám tang nào đông người và nhiều nước mắt đến vậy. Em trai Liệt sĩ Nguyễn Duy Thanh, anh Việt - khi đó là sĩ quan công tác ở Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng nén nỗi đau cùng cơ quan đoàn thể thu xếp công việc trong tang lễ. Sau này tôi khá thân với anh và ý thức được mỗi khi người thân mình hy sinh, những người bên cạnh đều có những sự trưởng thành vượt bậc dù không nói nên lời.
Lần đầu tiên tôi chứng kiến một liệt sĩ thời bình là như thế.
Sau này, tưởng nhớ anh, nhớ lời căn dặn của anh, tôi thường lăn mình xuống với bộ đội, đặc biệt nơi nào có chiến sĩ ta hy sinh, tôi thường sớm có mặt. Đi vì được phân công đã đành. Tôi đi vì còn là sự thôi thúc của trái tim mình. Gia đình dòng họ tôi rất nhiều liệt sĩ. Hôm công tác Điện Biên, vào nghĩa trang liệt sĩ, tôi lặng người trước những liệt sĩ trong đó có nhiều liệt sĩ mang dòng họ Phùng. Thắp những nén hương thơm mà lòng day dứt dưới trời xanh mây trắng. Đã hơn nửa thế kỷ sao những người hy sinh tuổi mười tám đôi mươi vẫn trẻ trung thế này. Dưới đất là xương cốt người đã khuất. Có những người không vẹn nguyên thi thể. Có cả những ngôi mộ gió chỉ đất và đất. Nhưng chính họ đã làm nên lá cờ Tổ quốc tung bay, đã làm nên non sông đàng hoàng to đẹp của ngày hôm nay mà chúng ta đang sống. Những buổi đi Nghĩa trang Thành Cổ, Nghĩa trang Đường Chín, Nghĩa trang Trường Sơn, trước trùng trùng mộ trắng, hàng vạn ngôi sao vàng nhấp nháy trên mộ các chị, các anh. Gió thổi miên man. Cỏ xanh. Trời xanh. Những dòng sông xanh nơi Đất Mẹ. Và xa kia là biển xanh vạn dặm mà tổ tiên từng vùi xương trắng máu đào. Năm nào trở lại các nghĩa trang dâng hương cho các chị, các anh, chúng tôi đều vẹn nguyên một cảm xúc thương tiếc khôn khuây. Hình hài nào chả do cha mẹ sinh thành. Nào ai ước muốn chiến tranh để những chàng trai, cô gái mười tám đôi mươi phải lấy thân mình hiến dâng cho Tổ quốc. Tổ quốc của chúng ta, vẻ đẹp đầu tiên phải là vẻ đẹp những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh.
*
Chúng ta có rất nhiều những tấm gương liệt sĩ hy sinh trong thời bình.
Không một ai mong muốn điều đó. Thế mà những điều đó vẫn diễn ra. Đó là nỗi đau, trăn trở lớn nhất của chúng ta trong cuộc sống hôm nay.
Khi đối diện người vợ trẻ của Liệt sĩ Đặng Đình Hào ở Ninh Bình, tôi đã không dám nói với người vợ một điều gì về lẽ sống. Nhìn đàn gà con lích rích ngoài sân bên cạnh cậu bé con của Liệt sĩ Hào lẫm chẫm, tôi thấy mọi lời nói là thừa thãi. Hôm cùng nhà văn Nguyễn Thế Hùng đến thăm gia đình Liệt sĩ Lê Văn Phượng ở Nghệ An, tôi còn bàng hoàng hơn khi trong căn nhà tềnh toàng người mẹ già gần chín mươi tuổi đã không dậy được nằm trên chiếc chõng tre, bên dưới là chậu than hồng nghi ngút khói ở cái lạnh bảy, tám độ. Hôm ở Lạng Sơn, trước những vành khăn trắng của vợ Liệt sĩ Ngô Văn Vinh, tôi và nhà báo Hàn Viết Hoan - Báo Biên phòng cũng chỉ biết ngồi im như tượng. Một hôm, trong căn nhà nhỏ đi thuê ở một đơn vị xăng dầu, người vợ liệt sĩ vừa tròn hai mươi tuổi ru con ngủ khi chúng tôi quay những cảnh phim càng như cứa vào tâm can mình, đồng đội của các anh những vết cứa không thể liền được. Những nỗi đau quá lớn với một gia đình, mỗi người cha, người mẹ, người vợ, người con. Họ đâu có lỗi gì. Họ càng không đáng phải chịu thiệt thòi như vậy. Vậy mà sự thật vẫn cứ là sự thật.
Liệt sĩ Nguyễn Tuấn Ngãi, hy sinh ngày 22 tháng 4 năm 2013 tại đèo La Hi, xã Hương Phú, huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là vùng dân tộc ít người. Nơi đây thường xuyên xảy ra cháy rừng rất khủng khiếp. Nguyễn Tuấn Ngãi quê ở Văn Thành, Yên Thành, Nghệ An. Cha anh là người lính chiến đấu ở mặt trận Bình Trị Thiên những ngày khói lửa đã như một động cơ thôi thúc người con nhập ngũ. Có ai ngờ anh lại hy sinh đúng nơi vùng đất ngày xưa cha mình từng mưa bom bão đạn. Chiến đấu với giặc lửa cứu dân nơi đồng đội và cha mình từng hy sinh xương máu thì người lính Nguyễn Tuấn Ngãi đã ngã xuống. Người cha - ông Nguyễn Tuấn Đức nghẹn ngào nhắc nhớ con trai:
- Mấy tháng trước, hai vợ chồng tui vô thăm con trong đó, thấy đồng đội và con trưởng thành mà mừng. Dọc bản, ai họ cũng bảo ông có người con đúng là Bộ đội Cụ Hồ. Người Nghệ An quê Bác Hồ tốt quá. Bộ đội Ngãi giúp đỡ bà con nhân dân nhiều lắm.
Thế mà bây giờ đã là hai thế giới âm dương.
Châm nén hương trên bàn thờ con mình, ông Đức như người mất hồn mất vía. Xưa, mưa bom vãi đạn đã chừa ông ra; sao nay bão lửa cháy rừng nỡ cướp đi người con máu thịt của ông? Nước mắt người đàn ông bảy mươi tuổi như vón cục khiến chúng tôi nghẹn lại.
Có liệt sĩ hy sinh trong thời bình này khi vừa tròn hai mươi tuổi.
Anh là Hoàng Đặng Hùng, sinh năm 1984 tại quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
Hoàng Đặng Hùng nhập ngũ năm 2002 khi vừa tròn mười tám tuổi.
Anh hy sinh ngày 25 tháng 7 năm 2004 khi vừa tròn hai mươi tuổi.
Có định mệnh nào khủng khiếp hơn.
Liệt sĩ Hoàng Đặng Hùng là con trai duy nhất trong gia đình bố mẹ đều là bộ đội công tác tại Cục Kỹ thuật - Quân chủng Hải quân. Chàng trai mười tám tuổi chắc là hồn nhiên và vô tư lắm, cả những mộng mơ nữa khi cầm súng canh giữ biển trời Tổ quốc ở đảo chìm thuộc Quần đảo Trường Sa. Một năm ở đảo, chàng trai mười tám rắn rỏi, trưởng thành, nước da sạm màu cát biển luôn mong ngóng những cánh thư từ đất liền trong một lần cứu tàu giữa cơn lốc xoáy đã anh dũng hy sinh. Trong Lễ đón nhận thi thể Liệt sĩ Hùng từ Trường Sa về quê hương, Chuẩn Đô đốc Bùi Sỹ Trinh - Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng Hải quân lúc đó khẳng định: “Trong thời chiến và ngay cả thời bình vẫn có những người chiến sĩ ngã xuống vì sự bình yên của Tổ quốc. Máu của các chiến sĩ ngấm vào đất, tan vào biển để ngày ngày góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Sự hy sinh anh dũng của liệt sĩ Hoàng Đặng Hùng như tiếp thêm sức mạnh cùng quân và dân cả nước làm thất bại mọi ý đồ của các thế lực thù địch lăm le lấn chiếm, xâm phạm chủ quyền vùng biên hải thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam”.
Liệt sĩ Hoàng Đặng Hùng như bó đuốc sáng mãi tuổi hai mươi.
Những liệt sĩ hy sinh trong thời bình ở Trường Sa không ít người có hoàn cảnh rất đặc biệt. Đó là liệt sĩ Đinh Văn Nam, sinh năm 1982 thuộc Lữ đoàn Hải quân 125. Anh hy sinh khi đang làm nhiệm vụ. Chị Đinh Thị Xoa, vợ Liệt sĩ Nam cho biết, hai vợ chồng cưới nhau từ năm 2010. Vì nhiệm vụ công tác nên từ lúc cưới đến khi anh hy sinh chị mới được gặp chồng ba lần. Anh Nam cũng chỉ được gặp cô con gái đầu lòng của mình duy nhất một lần. Trong nước mắt, người vợ trẻ nói câu được câu mất:
- Hai vợ chồng dự tính sắp tới anh ấy xin chuyển công tác về Hải Phòng để được gần vợ gần con. Tôi cũng tính khi nào anh ấy ra thì cố đi xin việc làm rồi lo cho con. Buổi tối hôm trước khi hy sinh anh ấy vẫn gọi điện về nói chuyện với gia đình, vậy mà…
Liệt sĩ Nam hy sinh khi đang thực hiện nhiệm vụ cứu hộ một tàu Hải quân mắc cạn trên khu vực đảo Phan Vinh thuộc Quần đảo Trường Sa. Đảo Phan Vinh là khu vực luôn có sóng to gió lớn. Anh hùng Phan Vinh hy sinh lẫm liệt là một tấm gương liệt sĩ luôn được người chiến sĩ Hải quân học tập noi theo. Sóng to gió lớn, người chiến sĩ kiên quyết cứu tàu, Đinh Văn Nam đã anh dũng hy sinh khi bị cáp tàu gạt rơi xuống biển.
Đối diện trước những bức thư của chồng gửi về vẫn còn nguyên vẹn, người vợ liệt sĩ - chị Nguyễn Thuý Hạ tại xóm 14 xã Tòng Bạt, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội như vẫn bâng khuâng nhớ về anh. Nguyễn Hữu Hoà sinh năm 1971, anh vào bộ đội rồi được biên chế vào Lữ đoàn Công binh vượt sông 249 với những công việc thường trực của mình. Làm vợ lính công binh vất vả đã đành, còn tự hào nữa chứ. Những lá thư như những cánh én nối từ đơn vị về gia đình thân thương biết mấy đang còn nguyên vẹn trước người phụ nữ. Đã có hai mặt con mà mấy khi anh ấy ở nhà. Lần này anh hy sinh đã tám tháng không về. Khi về là một thông tin định mệnh. Người phụ nữ ôm đứa con thứ hai chưa đầy ba tuổi. Đứa bé nép vào mẹ. Cặp mắt ngơ ngác nhìn về phía mấy chú bộ đội sao mà giống bố đến thế. Sao các chú không nói gì chỉ nước mắt mẹ rịn ra. Những lá thư người lính viết chỉ là những dặn dò việc nội ngoại, việc gia đình nôm na mà thấm đẫm nghĩa tình chồng vợ. Chồng bộ đội, mọi công việc dồn lên đôi vai người vợ. Trong nước mắt, người phụ nữ sẻ chia những câu chuyện thật đến thắt lòng:
- Tôi vốn nhút nhát, mỗi ngày khi màn đêm đến, tôi thấy rất sợ. Nhà chỉ có ba mẹ con lại ở giữa khu cánh đồng hoang vắng nên chỉ cần một tiếng động nhỏ cũng thấy giật mình lo lắng. Trước đây, khi anh Hòa còn sống, mỗi lần tối đến anh còn tranh thủ về nhà thăm vợ con. Nhưng từ ngày anh mất đi tôi càng cảm thấy sợ và cô đơn hơn nhưng vì nghĩ đến hai đứa con trai nên cố gắng ở vậy nuôi các cháu ăn học nên người để anh có thể mỉm cười dưới suối vàng.
Mỗi người lính hy sinh ở thời bình, gia đình mỗi vẻ khác nhau.
Trong căn nhà nhỏ xã Yên Thọ, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, khi chúng tôi cùng đoàn công tác đến thăm gia đình Liệt sĩ Nguyễn Văn Đoàn hy sinh năm 2011 khi chở vũ khí gặp lũ quét bị lật xe. Chị Trần Thị Thạch vợ anh đang lầm rầm trước ban thờ chồng. Di ảnh liệt sĩ là một thiếu úy còn rất trẻ với đôi mắt rất sáng nhìn ra phía trước. Chúng tôi tiến tới ban thờ thắp nén hương thơm. Đôi mắt nhìn chúng tôi như nhắn nhủ điều gì. Điều anh còn đang dang dở. Điều đó chúng tôi biết. Đó không chỉ riêng là ước muốn của anh mà của hàng ngàn, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ đang ngày đêm không quản ngại sẵn sàng hy sinh bản thân mình vì sự bình yên của nhân dân, vì sự phát triển của đất nước. Anh nhìn chúng tôi, đôi mắt tin cậy và ấm sáng. Chúng tôi nhìn vào mắt anh, tự nhắc nhủ mình chặng đường phía trước còn thật nhiều trọng trách. Các anh, những liệt sĩ thời bình đã cho chúng tôi hiểu thêm giá trị của cuộc sống hôm nay.
1 Nay là Trung tâm Phát thanh - Truyền hình Quân đội thuộc Tổng cục Chính trị.