Biển có đảo, biển đỡ lặp lại mình
Đảo có lính, cát non thành Tổ quốc
Đảo nhỏ quá, nói một câu là hết
Có gì đâu, chỉ cát với chim thôi
Cát và chim và thêm nữa chúng tôi
Chúng tôi lên với áo quần ướt át
Với nắng nôi muối xát thân tàu
Đảo hiện ra thử thách bạc màu
Bàn chân lính đánh vần trên đất đai Tổ quốc.
(Hữu Thỉnh - Trường ca biển)
Tôi đã nhiều lần đến với Trường Sa. Lần nào cũng vẹn nguyên một cảm xúc đó là bồn chồn khi chưa đặt chân lên các đảo nổi đảo chìm và day dứt khi trở về đất liền, ngay cả lúc bộn bề công việc nhất.
Ngày trước là những day dứt về khó khăn thiếu thốn, phần nhiều là những thiếu thốn về vật chất, cái mà bây giờ đã đến được đủ đầy. Ngay như yếu tố tinh thần cũng dần dần đầy đặn. Từ một lá thư nhà mong mỏi ngày trước dập dềnh vài tháng trời sóng gió mới tới tay bộ đội nay đã ti vi, điện thoại, Internet, trực tuyến thoải mái hai tư giờ. Ngày trước mòn mỏi chờ văn công văn nghệ nay mùa nào tháng nào, thậm chí hằng tuần đều có các đoàn đất liền ríu rít tay bắt mặt mừng với người trên đảo, cả chiến sĩ cả nhân dân, cả những bạn nhỏ lẫm chẫm tới lớp một lớp hai. Ngay như tiếng chuông chùa và bóng dáng vị sư đều đặn tuần rằm sóc vọng đọc kinh kệ nơi Trường Sa thực là gần gũi và kỳ diệu lắm.
Những điều kỳ diệu ở Trường Sa nhiều lắm. Người khắp các vùng quê góp mặt ở Trường Sa. Từ Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình, Hải Dương, Hưng Yên… nơi đồng bằng Bắc Bộ đến Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế… các tỉnh miền Nam.
Nhưng có lẽ đặc biệt nhất là những người Hà Nội ở Trường Sa.
Càng đặc biệt hơn khi có người là liệt sĩ.
Tôi nhớ, năm 1997, khi mới về nhận công tác tại Ban Biên tập Truyền hình Quân đội, tôi được gặp gỡ và làm việc với nhà báo Duy Thanh, anh quê ở Yên Thắng - Yên Mô - Ninh Bình, một người rất cá tính và luôn sôi nổi trong công việc. Anh mới đi Trường Sa về và đang hoàn tất bộ phim “Người Hà Nội ở Trường Sa”. Tôi đang ở thời kỳ học việc nên không ngại ngần hỏi anh điều này điều khác. Trong những câu chuyện xúc động anh kể về những người lính, xúc động nhất là những người lính ở Trường Sa và đặc biệt xúc động là những người lính Hà Nội ở Trường Sa.
Trong số những liệt sĩ đã hy sinh trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền trên Quần đảo Trường Sa, có một người Hà Nội. Người liệt sĩ ấy là Kiều Văn Lập quê ở huyện Phúc Thọ. Những ngày tấm bé, ở các cấp học tiểu học đến phổ thông, Kiều Văn Lập đều học rất giỏi nhất là các môn khoa học tự nhiên. Kiều Văn Lập thi đỗ và học Đại học Hàng Hải trong những năm tám mươi. Với sức học và lý lịch chính trị tốt, Kiều Văn Lập được chọn đi học chuyên ngành đóng tàu tại Ba Lan, một ao ước của những học viên giỏi thời đó nhưng anh đã tình nguyện viết đơn xin vào bộ đội. Trong những năm quân ngũ, Kiều Văn Lập luôn là một tấm gương với đồng chí đồng đội. Thời điểm ấy, kinh tế rất khó khăn. Những người lính trong đó có những chiến sĩ giữ đảo đã phải chịu không ít thiệt thòi, gian khổ.
Phim tài liệu “Người Hà Nội ở Trường Sa” của Truyền hình Quân đội khi ấy đã gây một tiếng vang lớn. Với riêng cá nhân tôi, một người con Hưng Yên, một chiến sĩ, một nhà báo ở tuổi hai mươi lăm đã luôn ám ảnh và day dứt mỗi khi nghĩ tới Trường Sa.
Sau này, trong các chuyến công tác tới Trường Sa, tôi đều ghi nhận thật nhiều, từ phim ảnh, ghi chép, chụp lại tài liệu ở Trường Sa, về Trường Sa, nhưng cái cơ bản nhất, là cố gắng cảm nhận bằng trái tim mình mỗi nhịp đập, dù nhỏ nhất đang diễn ra trên quần đảo thiêng liêng.
Lúc nào cũng có người Hà Nội ở Trường Sa. Mồ hôi, xương máu của người Hà Nội đã thấm xuống đất chủ quyền nơi ngàn khơi sóng gió. Gia đình tôi có rất nhiều liệt sĩ. Sao các gia đình người Việt Nam ta luôn nhiều liệt sĩ đến thế trong các cuộc chiến tranh? Hôm chúng tôi ở Nghĩa trang Điện Biên, ai nấy đều ngơ ngẩn dưới chiều chạng vạng bên hàng hàng bia mộ trong đó có nhiều người con Hà Nội, đất trời chập chờn sương khói. Đất nước ta trải dài tươi đẹp quá nhưng cũng quá ken dày nỗi đau xương máu chồng nhau. Lớp này lớp khác, người trước kế tiếp người sau cầm súng và ngã xuống để chúng ta có được độc lập, tự do, hòa bình, hạnh phúc. Những yên hàn thanh thản là mơ ước không riêng của người Việt Nam, mà là của cả nhân loại tiến bộ. Nào ai muốn vùi thân dưới sóng mặn giữa khơi xa. Trong bài thơ tưởng nhớ các anh, tôi đã viết:
Những gạch đá đền đài đã cũ
Mây trắng bay ngang cũng cũ rồi
Duy máu đỏ của người trung nghĩa
Mãi tươi màu trong sắc sóng trùng khơi
Tim nhói buốt những đường đạn đỏ
Đã gầm lên vang động biển trời
Xác đã trả về nơi biển mặn
Hồn trăm năm còn ngậm hoa cười
Trăng vằng vặc trên đầu chi lắm
Sao cuối trời ngẫm nghĩ canh khuya
Hương cháy đỏ từng bông sóng trắng
Đang rạng dần trong sắc biển xanh kia
Ta quỳ xuống trước mộ người tuấn kiệt
Quỳ trước biển trời Tổ quốc giữa sương khuya
Quỳ trước máu xương của sáu tư chiến sĩ
Đã một đi không hẹn buổi quay về
Trăng vẫn sáng trên đầu vằng vặc
Hoa vẫn thơm ngan ngát bên trời
Máu vẫn đỏ trong tim từng nhịp đập
Tổ quốc hẹn về ấm sáng mỗi vành nôi.
Hiện nay đang có hàng trăm người con Hà Nội làm nhiệm vụ tại các điểm đảo, nhà giàn Trường Sa. Tháng rồi năm, mưa rồi nắng, thời gian nát đá tan vàng, những người con Hà Nội vẫn nối nhau đến với, ở lại, tham gia mọi công việc được phân công ở Trường Sa. Ở vị trí công tác nào, các chiến sĩ người Hà Nội đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Chính trị viên đảo Đá Lớn - Nguyễn Văn Hợi quê ở Cầu Giẽ - Phú Xuyên đã có mười ba năm công tác trên các đảo nổi đảo chìm ở Trường Sa. Nguyễn Văn Hợi cưới vợ được mười lăm ngày, khi ấy anh chưa đầy hai mươi tuổi đã lập tức nhận nhiệm vụ lên đường ra thẳng Trường Sa. Nguyễn Văn Hợi đi một mạch ba năm mới về phép với gia đình. Những ngày ấy, thông tin còn hạn chế nên hẳn sự phấp phỏng, có cả sự hờn giận, trách móc cũng là chuyện bình thường. Đời người lính vốn thường biền biệt thế. Có người lính cưới vợ xong đi một mạch vào chiến trường lúc trở về chỉ là một tấm giấy báo tử đã ố vàng. Chiến tranh, có những mất mát không thể nói hết được bằng lời lẽ và giấy mực. Nguyễn Văn Hợi bây giờ đã là chính trị viên của đảo. Anh đã đảm đương nhiều vị trí công tác ở các đảo Nam Yết, Song Tử và bây giờ là đảo Đá Lớn. Thời gian đã rèn luyện người lính trưởng thành cùng với sự trưởng thành của quân đội ta mà trong ấy người Hà Nội ở đâu đều giữ được nền nếp kinh kỳ văn hiến.
Đảo Sơn Ca có khá nhiều cán bộ, chiến sĩ người Hà Nội, cả thảy mười người. Thái Văn Cường là một trong số ấy. Thái Văn Cường đã có trên ba năm công tác tại các đảo Trường Sa Lớn và Sơn Ca. Cường có hai con nhỏ. Có những khi nhận thông tin con đau ốm nằm viện, Cường đều cố gắng tự mình vượt qua. Những đêm dằng dặc ấy đã rèn giũa bản lĩnh người lính, người cha người Hà Nội một cách lặng thầm. “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”. Chính những nét thanh lịch, tao nhã của người Hà Nội đã tạo nên bản lĩnh khác thường của các chiến sĩ nơi đầu sóng ngọn gió. Không phải chỉ các anh lớn tuổi, ngay các binh nhất binh nhì người Hà Nội ở Trường Sa cũng luôn tự tin và tự hào về nhiệm vụ và vinh dự của mình, được là người chiến sĩ Trường Sa. Binh nhất Khẩu đội trưởng Cao Văn Đồng quê Chương Mỹ mới tròn hai mươi tuổi đã rất chững chạc, tự tin khi nói về công việc. Là khẩu đội trưởng, Cao Văn Đồng luôn là tấm gương sáng trong khẩu đội. Gia đình Đồng có năm anh chị em. Bố Đồng cũng là bộ đội. Đồng mong muốn nối nghiệp bố và mơ ước được ra Trường Sa của Đồng đã thành sự thật. Điều đó chính là nền tảng tốt để Khẩu đội trưởng Cao Văn Đồng bước tiếp đường binh nghiệp của người cha.
Người Hà Nội ở Trường Sa cũng như các miền quê khác, luôn giản dị, hiền hòa, nhường nhịn trong sinh hoạt đời thường nhưng cũng vô cùng dũng cảm, cương quyết trong nhiệm vụ được giao. Qua các điểm đảo nổi, đảo chìm, chúng tôi đã gặp rất nhiều chiến sĩ người Hà Nội: Trần Trung Hiến đảo Sơn Ca quê Phúc Hòa - Ứng Hòa, luôn lễ phép, trang nghiêm; Đỗ Việt Hòa đảo Sơn Ca quê Hạ Bằng - Thạch Thất luôn tươi cười, hóm hỉnh; Nguyễn Văn Tạo đảo Phan Vinh quê Phú Châu - Ba Vì cùng năm cán bộ, chiến sĩ người Hà Nội trên đảo luôn là tấm gương nêu cao tinh thần đùm bọc, giúp đỡ đồng đội. Mà không riêng gì người Hà Nội, với các đồng đội quê mọi vùng miền trên đảo Phan Vinh đều coi nhau như anh em một nhà… Còn rất nhiều những tấm gương người Hà Nội trên các đảo nổi, đảo chìm, Nhà giàn DK ngày đêm bám trụ luôn giữ những nét tài hoa của người Hà Nội, hòa trong bản sắc chung các vùng quê yêu dấu mọi miền của Tổ quốc.
Người Hà Nội ở Trường Sa luôn sáng rõ một tiếng lòng trong triệu triệu tiếng lòng dân nước Việt Nam. Tiếng lòng thiêng liêng, tiếng lòng chính nghĩa mang đậm hồn cốt Việt. Lời ăn tiếng nói ông bà ta, tổ tiên ta suốt một mạch ngầm mấy nghìn năm luôn nhu thuận, khiêm cung đến nghẹn ngào. Hồn cốt thiêng liêng ấy, bản sắc văn hiến ấy đã lặng lẽ nhưng mãnh liệt, âm thầm nhưng sẽ cuồn cuộn, ầm ầm cuốn phăng sự phi nghĩa ở những thời điểm lịch sử như đã từng viết trong những trang sử vẻ vang, chói lọi nhất không riêng ở Việt Nam mà ở toàn cầu.
Trong một bài thơ của mình, tôi đã viết:
Những người con Hà Nội đến Trường Sa
Mang hạt mướp, hạt dền, mùng tơi, rau sam, rau muống
Cát mặn san hô giọt mồ hôi lắng xuống
Thành cây thành làng ở Trường Sa
Những người con Hà Nội ở Trường Sa
Mặt trời mọc bình yên chân cột mốc
Cây cau mẹ trao anh trồng góc sân chùa Nam Yết
Hoa nở trắng thì thầm lá xanh giữa trời xanh
Những người con Hà Nội ở Trường Sa
Hương lúa hương cau thơm miếng trầu mẹ hái
Tiếng chuông chùa đêm trăng như tiếng người em gái
Sóng đỉnh Trường Sa sóng đỉnh trái tim mình
Những người con Hà Nội ở Trường Sa
Chim hạc tượng hình rợp trống đồng linh hiển
Văng vẳng tiếng thơ Thần những ngày động biển
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư...”
Những người con Hà Nội ở Trường Sa
Cúc thắm đào phai thêm ấm lòng súng thép
Mỗi người con một lá cờ Tổ quốc
Một ngôi sao mang máu thịt Tiên Rồng.
Bác Hồ đã từng nói: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển của ta dài, tươi đẹp. Ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Lời Người như đang vang trên đầu ngọn sóng trong ngày chiến thắng, đang ngấm vào trái tim, khối óc của mỗi người chiến sĩ Trường Sa trong đó có những người con Hà Nội.