Muốn gặp những người lính
Gặp những người lính thường
Hãy tìm trong dáng đá
Vọng phu qua gió sương.
Lời thơ của nhà thơ Nguyễn Thành Tuấn đâu cứ như thầm thì ngấm vào tôi khi hình ảnh Liệt sĩ Lù Công Thắng - Chiến sĩ Biên phòng Sơn La hy sinh khi thực hiện chuyên án đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy tại khu vực biên giới xã Chiềng Tương, huyện Yên Sơn, tỉnh Sơn La trong những ngày nắng nóng tháng bảy.
Tháng bảy, tháng cô hồn. Mọi đi đứng dường như đều dè dặt. Đất trời âm u vần vũ. Thỉnh thoảng, tiếng ùng oàng phát ra giữa không trung từ những mảng mây xám xịt, hình thù kì quái càng gia tăng vào không khí căng thẳng, tang tóc. Ma túy là một cái gì đó khiến con người mỗi khi nhắc đến đều cảm thấy chờn chợn. Một lo sợ mơ hồ cứ ám ảnh, bám riết lấy con người. Con người với biết bao nhiêu lo lắng trong công cuộc mưu sinh thì nỗi lo về ma túy là một nỗi lo tưởng chừng phi lý nhất. Ma túy đã cướp đi mạng sống của những người dân thường vô tội, những người hiền đức, những người cha, người chồng, người con hiếu thuận như Đại úy Biên phòng Lù Công Thắng thì nó đã là một cái gì đó thật quá gớm ghiếc. Tại sao chỉ vì lợi ích của một số người mà rất nhiều người chẳng liên quan lại rơi vào vòng hệ luỵ. Thời gian trôi không ngừng nghỉ và dường như câu hỏi này vẫn chưa có lời đáp thấu lí đạt tình.
*
Không nỗi đau nào giống nỗi đau nào.
Không nỗi đau nào lớn bằng nỗi đau cha mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất bố.
Nỗi đau như vón cục, như những tảng đá khổng lồ vây chặt bốn bề bản Pó Phứa.
Nỗi đau như không có thật.
Đôi mắt hoang hoải của ông Lù Văn Phanh - Bí thư chi bộ bản Pó Phứa cứ bạc phếch đi, tròng mắt vô hồn nhìn vào những tảng mây sẫm sáng trôi dật dờ trong đám tang người chiến sĩ Biên phòng Lù Công Thắng. Ông nói nhỏ lắm, thỉnh thoảng lời ông như nghẹn lại: “Nó là một trong những người con ưu tú của bản làng chúng tôi. Pó Phứa luôn coi nó là đứa con của cả bản. Nó là tấm gương sáng đấy. Nó đã dũng cảm hy sinh vì sự bình yên biên giới nhưng trong lòng thôn bản sẽ nhớ mãi hình ảnh nó, hình ảnh của một người lính Biên phòng gần gũi với nhân dân. Bà con ở đây không thể thiếu bộ đội Biên phòng được đâu. Nó hy sinh nhưng chắc chắn bản Pó Phứa này sẽ còn nhiều Lù Công Thắng nữa”.
Lù Công Thắng hy sinh ở tư thế tiến công.
Cuối tháng 7 năm 2010, chuyên án đặc biệt đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy của Cục Phòng, chống tội phạm ma túy phối hợp với Bộ đội Biên phòng Sơn La và Đồn Biên phòng Pả Khôm đi vào giai đoạn quyết định. Từ tháng 6 năm 2010, lực lượng đặc nhiệm Phòng Phòng, chống tội phạm ma túy - Bộ đội Biên phòng Sơn La đã phát hiện có một đường dây ma túy rất lớn từ Lào tổ chức đưa về Việt Nam. Những trùm buôn lậu ma túy thường xuyên vận chuyển “hàng” với số lượng lớn từ Sầm Nưa về khu vực biên giới tiếp giáp Việt Nam, đặc biệt ở Phiềng Xa, Huổi Ngậm thuộc huyện Xiềng Khọ, bản Tám Nhà thuộc Pa Khôm Nọi, tỉnh Hủa Phăn nước bạn Lào tiếp giáp với các tuyến đường biên giới Sơn La.
Ngày 30 tháng 7, sau nhiều ngày tháng trinh sát vất vả, lăn lộn với cơ sở, tổ chuyên án do Đại tá Lò Quý Dân - Trưởng phòng Phòng, chống tội phạm ma túy chỉ huy nhận được lệnh đánh án tại khu vực biên giới xã Chiềng Tương, huyện Yên Sơn. Tổ mật phục trong đó có Thượng úy Lù Công Thắng - Trợ lý trinh sát Phòng Phòng, chống tội phạm ma túy Bộ đội Biên phòng Sơn La đã ở vị trí sẵn sàng chiến đấu. Thời gian đi qua căng thẳng. Những người lính trinh sát dày dạn kinh nghiệm không khỏi có lúc bồn chồn. Chúng không xuất hiện thì sao? Chúng nghi binh theo hướng này nhưng lại tuồn hàng theo hướng khác thì sao? Bọn tội phạm ma túy vốn vô cùng gian ngoan, xảo quyệt. Chúng đã từng nhiều lần ngang nhiên và hung hãn, trắng trợn đến bất chấp cả tính mạng trước đồng tiền bẩn thỉu kếch xù nên tối mắt tối mũi, kể cả trước án tử hình. Sự bồn chồn chỉ một thoáng thôi nhưng là sự bồn chồn có thực trước lúc bước vào trận đánh sinh tử. Đang mải nghĩ thì đối tượng xuất hiện. Chúng có ba tên. Điệu bộ đúng như nguồn tin mật báo. Máu các chiến sĩ tổ mật phục chạy rần rật khắp người. Lập tức, mệnh lệnh người chỉ huy vang lên cũng là lúc Thượng úy Lù Công Thắng cùng đồng đội vọt tới triển khai đội hình bao vây và nhanh như chớp khống chế được một đối tượng. Ngay lập tức, hai tên trong nhóm rút ngay súng giấu sẵn trong người bắn xối xả vào các chiến sĩ để giải vây cho đồng bọn cũng là để thủ tiêu tang vật.
Thượng úy Lù Công Thắng và các đồng đội hét lên dưới làn đạn đồng thời bất chấp nguy hiểm lao thẳng vào hai tên tội phạm đang điên cuồng nhả đạn. Hốt hoảng trước sự quả cảm của các chiến sĩ Biên phòng Phòng Phòng chống ma tuý, hai tên tội phạm vừa tìm cách tháo chạy vừa tiếp tục nhả đạn. Lù Công Thắng lao thẳng đến một tên với mục đích bắt sống hắn. Đồng đội lao theo anh. Tên tội phạm điên cuồng bất ngờ quay lại hướng nòng súng vào đội hình đuổi bắt để nổ súng. Nhanh như cắt, người lính trinh sát Lù Công Thắng bay người về phía tên tội phạm đẩy nòng súng sang một bên để giữ an toàn cho đồng đội. Trong khoảng khắc ấy, anh đã hứng trọn luồng đạn và bị thương nặng, máu ra rất nhiều. Khi đồng đội xông lên đến sát bên anh thì anh đã lịm đi.
Lù Công Thắng hy sinh ngay chiều hôm đó…
Chuyên án đã thắng lợi với sáu bánh heroin bắt được tại hiện trường.
Đó là chiều ngày 31 tháng 7 năm 2010.
Những giọt mưa tháng 7 hay nước mắt đồng đội im lặng nhỏ xuống tiếc thương người chiến sĩ Biên phòng đã anh dũng hy sinh.
Liệt sĩ - Đại úy Lù Công Thắng sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Bố Lù Công Thắng là cán bộ quân đội nghỉ hưu, mẹ là giáo viên. Bố mất sớm, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nhưng Thắng vẫn quyết tâm theo đuổi ước mơ nối nghiệp người cha. Chính người cha, người lính Cụ Hồ mà Thắng kính trọng nhất đã cho Thắng nghị lực và niềm tin để anh nối tiếp sự nghiệp của người đã khuất. Bằng sự tự học tự rèn không biết mệt mỏi, Thắng đã được vào học tại Học viện Biên phòng. Khi ra trường, Lù Công Thắng được cấp trên điều động về công tác tại tỉnh Sơn La, nơi anh mơ ước được cống hiến cho mảnh đất đã nuôi dưỡng người con họ Lù. Ở vị trí công tác nào anh cũng luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Với nghiệp vụ trinh sát, Lù Công Thắng đã cùng với đồng đội tổ chức phá nhiều chuyên án, nhiều lần được cấp trên khen ngợi.
Cũng phải nói thêm rằng, Sơn La là một trong những địa bàn trọng điểm về ma túy. Có những thời điểm, con đường vận chuyển buôn bán ma túy từ Sốp Bâu - Hủa Phăn nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào qua biên giới vào Mộc Châu, Sơn La rồi xuyên xuống Mai Châu, Hoà Bình được giới tội phạm ví là Con đường tơ lụa. Đã có những vụ án rúng động về số lượng và cả độ tinh quái mà các lực lượng phòng, chống ma túy trong đó nòng cốt là Bộ đội Biên phòng Sơn La đã triệt phá gây nức lòng nhân dân và sự chùn tay của bọn buôn lậu ma túy. Có thời điểm, điện thoại của các trinh sát Đội phòng, chống ma túy Biên phòng Sơn La luôn bị đe doạ, tin nhắn với lời lẽ của bọn xã hội đen. Thậm chí người thân, cha mẹ, vợ con các anh cũng hàng ngày hàng giờ bị bọn chúng doạ dẫm, mua chuộc. Nhưng không vì thế mà bộ đội Biên phòng Sơn La chùn bước. Theo số liệu cung cấp của Biên phòng tỉnh, những con số không khỏi khiến chúng ta giật mình.
Và cũng chính từ những con số khô khan ấy, đã không còn là nguy hiểm tiềm ẩn nữa mà đã là máu xương của bộ đội Biên phòng đổ xuống vì bình yên của cuộc sống hôm nay.
Trong số những người chiến sĩ Biên phòng đã ngã xuống trên mặt trận đấu tranh chống tội phạm ma tuý, có Đại úy, Liệt sĩ Lù Công Thắng, người con ưu tú của bản Pó Phứa, phường Chiềng An, thành phố Sơn La.
Liệt sĩ, Đại úy Lù Công Thắng đã được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
*
Đêm ấy chúng tôi ngồi với các chiến sĩ Biên phòng đồng đội của anh tại bản Pó Phứa.
Đêm buông. Sương giăng dưới những tàn lá lúp xúp. Đêm âm u, bất tận. Xa xa, thoảng tiếng khóc hờ trong những đợt gió Lào càng lúc càng thổi mạnh khiến mọi vật càng khô khốc. Gió Lào luôn là nỗi kinh hoàng của cây cối và con người. Ai đó lẩm nhẩm đọc những câu thơ về anh em bộ đội Biên phòng: “Chốt biên phòng/ Đường lên trời thì gần/ Đường xuống chợ thì xa/ Mỗi lần tuần tra/ Lính gỡ mây giăng đầy tiếng mõ/ Chốt Biên phòng/ Tiếng gió hú thì gần/ Tiếng suối reo thì xa/ Đồng đội chia nhau từng lon nước nhỏ/ Chốt Biên phòng/ Cánh chim bay thì gần/ Vó ngựa thì xa... tất cả chợt lặng đi, bâng khuâng nhìn đêm thẳm. Và trên trời là sao đêm, muộn nhưng vẫn rất dày, dõi xuống sẻ chia với người lính Biên phòng. Cũng không biết là ai nghĩ gì nữa. Tất cả đang như hòa mình với đất trời cây cỏ, mà miên man với những suy nghĩ của riêng mình.
Người con của bản Pó Phứa đã dành trọn cuộc đời trẻ trung của mình vì sự bình yên của cuộc sống. Ước mơ của chàng trai họ Lù chắc chắn không đơn giản như những gì mọi người nhìn thấy và chứng kiến. Một cuộc đời không thể đơn giản vậy nhưng sự dừng lại đã diễn ra nên tất cả những gì chúng ta nói về anh, dành cho anh, xét cho cùng cũng chỉ là một sự tương đối. Rồi thì con anh sẽ trưởng thành. Có thể lắm chứ, nó sẽ bước tiếp con đường của anh, của cha anh, của các thế hệ những người lính Cụ Hồ. Nhiều đêm trắng, không hiểu sao tôi hay nghĩ về thân phận những người vợ lính, đặc biệt là những người vợ lính có chồng đã hy sinh. Cuộc sống của họ sẽ ra sao? Cuộc sống vốn dằng dặc, vốn không dễ dàng gì ngay cả đối với những người đủ đầy nhất, viên mãn nhất. Suy nghĩ thì dằn vặt như thế. Năm tháng thời gian miên man trôi chảy, ở trong tôi, ở trong các chị các anh không biết có ngân lên một suy nghĩ nào khác nữa không. Suy nghĩ về những lá chắn nơi biên cương cột mốc chẳng hạn? Suy nghĩ về những lá chắn trước tham tàn bạo ngược chẳng hạn? Và nhiều phía khác nữa, những lá chắn để bớt đi, chậm lại, khoanh vùng những thoái hoá biến chất, những sa đoạ dật lạc, những băng hoại bốn phía chân trời đang ập xuống mảnh đất chữ S thân yêu của chúng ta?
Những suy nghĩ ấy cứ luôn len lỏi, bám riết lấy tôi, ngày lại đêm, nhiều năm tháng.
Và tôi bỗng như bừng tỉnh. Đúng rồi! Chính những hy sinh của các anh, máu của các anh nơi biên cương hải đảo, như máu của Liệt sĩ Lù Công Thắng đã góp phần làm nên những lá chắn cho cuộc đời.
Và chính từ đấy, lời thơ giản dị ngân lên:
Muốn tìm những người lính
Tìm những người lính thường
Hãy tìm trong dáng đá
Vọng phu qua gió sương.
*
Thắp cho Liệt sĩ Lù Công Thắng nén hương, hôm sau chúng tôi cùng đồng đội của anh lại lên đường.
Nói đến biên phòng là nói đến xa xôi. Những địa danh Ka Lăng, Mường Tè, Ma Li Chài (Lai Châu); A Pa Chải, Mường Nhé (Điện Biên); Púng Báng, Chiềng Khương, Sốp Cộp, Sông Mã (Sơn La); Sín Mần, Lũng Cú (Hà Giang); Cốc Pàng, Trùng Khánh (Cao Bằng); Đồng Đăng, Lộc Bình (Lạng Sơn); Mường Lát, La Mèo (Thanh Hóa); Nậm Cắn, Mường Típ (Nghệ An)... những phần nhô ra của đất đai Tổ quốc chỉ nghe thôi đã thấy xa xôi hiểm trở nghìn trùng mà hàng ngày hàng giờ bộ đội Biên phòng đang có mặt ở nơi tận cùng biên giới ấy. Ở nơi ấy, bàn tay người lính Biên phòng, đôi bàn tay: “Mảnh mai, gân guốc/ cầm cày, cầm cuốc/ cầm bút vẽ rừng núi non xanh...”.
Mỗi khi nhắc đến những người lính Biên phòng, người cầm bút chúng tôi luôn cảm thấy bồn chồn, bứt rứt. Một cái gì từ sâu thẳm cứ dội lên, thôi thúc. Với tâm tư ấy, trong những ngày nắng nóng, đoàn nhà văn quân đội đã có chuyến ngược nguồn sông Mã, có mặt ở Đồn Biên phòng Nậm Lạnh (tức Đồn Biên phòng 449) thuộc huyện Sốp Cộp, một huyện mới thành lập, huyện miền núi xa nhất của tỉnh Sơn La.
Ngồi trước mặt tôi là Thiếu úy Mùa Láo Sông, một trong những đồng đội của Lù Công Thắng ở Sơn La. Mùa Láo Sông người dân tộc Mông, quê ở Yên Châu. Chàng trai Mông vạm vỡ, nhanh nhẹn, ăn nói chất phác nhưng ẩn chứa đằng sau cặp mắt sáng có phần sắc lẹm là một trái tim nóng. Trực cảm của người viết đã nói cho tôi điều đó. Mùa Láo Sông đang đảm đương cương vị Đội trưởng Đội phòng, chống ma túy và tội phạm của Đồn Nậm Lạnh, một cương vị không dễ dàng gì. Sơn La là địa bàn trọng điểm về ma túy thì các chiến sĩ Biên phòng Sơn La, nhất là những người trực tiếp làm công tác này luôn luôn ở trong tư thế đấu tranh và tiến công tội phạm không ngừng nghỉ. Gia đình Mùa Láo Sông gắn bó mật thiết với biên phòng. Bố anh, Đại tá Mùa Láo Lù nguyên là Chỉ huy phó nghiệp vụ Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng Sơn La từng nổi danh với các thành tích đấu tranh với tội phạm ma túy. Ông còn nổi danh hơn về sự thẳng thắn, liêm khiết của mình. Người Mông vốn vậy. Chiến sĩ Biên phòng người dân tộc càng như vậy. Có nhiều lúc, có thể là suốt đời luôn phải là một tấm gương sáng. Chao ôi, điều này ở ngày hôm nay thật không dễ dàng gì. Trên có chủ trương cấp đất ở, cấp xe cho Đại tá Mùa Láo Lù, ông không nhận. Còn biết bao nhiêu đồng đội cần hơn, cho dù họ là cấp dưới, cho dù thâm niên và thành tích ít hơn ông. Ở đời có những điều thật không dễ dàng lý giải. Nghỉ hưu, ông về thẳng Yên Châu, nơi từng sinh ra mình đồng thời cống hiến hai con trai vào Bộ đội Biên phòng. Tôi cay cay sống mũi nhìn Mùa Láo Sông. Sông bảo:
- Em có người anh trai là Thiếu úy Mùa Láo Táy đang là Đội trưởng Đội vận động quần chúng của Đồn 453. Hai anh em cùng ra trường, mỗi người về một đồn, xung phong về đồn khó khăn nhất.
Mùa Láo Sông lấy cô gái người Mông cùng xã ở Yên Châu đang là giáo viên cấp hai mới sinh một con gái nhỏ. Hạnh phúc đôi khi giản dị đến bất ngờ. Hạnh phúc của người ông Mùa Láo Lù làm sao có thể nói hết bằng lời khi thấy đứa con mình với đôi quân hàm xanh rắn rỏi, chững chạc bên người con dâu ngày ngày đến trường, tối tối ríu rít cùng con nhỏ. Hạnh phúc của người cha Mùa Láo Sông mỗi khi về Yên Châu với gia đình trong cái nhìn ấm áp trầm tĩnh của người sinh thành ra mình, bên bếp lửa hồng với người vợ trẻ, với cái mầm mới nhú líu lô, dù thực ra, có khi, vài tháng người lính này mới được nghỉ tranh thủ vài ngày. Hạnh phúc của cô giáo viên cấp hai đứng trên bục giảng, phía dưới là những cặp mắt mở tròn háo hức thì những xa xôi, cách trở, thậm chí hiểm nguy của người lính Biên phòng trên mặt trận đấu tranh chống ma túy chỉ là thoáng một cái gợn nhỏ thôi. Cặp trai gái Mông yêu nhau ròng rã bốn năm khi Giàng Thị Căng là sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I. Rồi cả hai cùng ra trường. Rồi cả hai cùng trở về mảnh đất Sơn La nơi họ được sinh ra. Thực ra cả hai đều có thể có những lựa chọn khác đầy đủ hơn về vật chất nhưng họ đã không chọn. Họ đã có hạnh phúc vì họ đã biết hy sinh.
Mùa Láo Sông ít nói lắm. Ngồi với tôi suốt buổi chiều nói mấy câu cũng chỉ chủ yếu về nghiệp vụ. Đấu tranh chống tội phạm ma túy là vô cùng căng thẳng. Có những chuyên án phải theo đuổi hàng năm trời, lặn lội, bám nắm cơ sở để có những thông tin hữu ích, kịp thời cho việc đánh án. Chiến công nào chả thấm đẫm mồ hôi nước mắt, thậm chí máu xương của người lính Biên phòng. Ở đây, tôi muốn tìm về phần con người, phần bản chất nhất của các chiến sĩ Biên phòng Đồn Nậm Lạnh, hay như bất kỳ đồn biên phòng nào trên dải đất hình chữ S này. Ngoài trời mây mưa vần vũ. Bóng các chiến sĩ Biên phòng gầy nhỏ, đanh chắc bước vào màn trời xám xịt càng như gia tăng những suy nghĩ về sự vất vả mà họ phải gánh vác.
Đồn Biên phòng 449 quản lý hai xã Nậm Lạnh, Mường Và với năm mươi tư bản. Địa bàn thì rộng, quân số thì thưa, tình hình trật tự trị an diễn biến phức tạp đang là những khó khăn thách thức không nhỏ đối với các chiến sĩ ở đây. Khu vực biên giới tiếp tục được sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước, cơ sở hạ tầng ngày càng phát triển, công tác xoá đói giảm nghèo đạt được những thành tựu đáng kể. Trong khi đó, đơn vị luôn được sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ của Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh; Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Sốp Cộp; sự giúp đỡ nhiệt tình của cấp ủy, chính quyền địa phương và các đơn vị bạn. Bên cạnh những thuận lợi, đơn vị cũng gặp những khó khăn. Quân số đơn vị phân tán nhiều nơi, đội ngũ cán bộ có nhiều thay đổi, nhiều cán bộ mới về đơn vị công tác. Tình hình an ninh trật tự trên một số địa bàn còn tồn tại nhiều vấn đề phức tạp. Hiện tượng truyền đạo chưa được cấp phép, di cư tự do, tranh chấp đất đai, tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội nhất là tội phạm và tệ nạn ma túy còn diễn biến phức tạp.
Không phải ngẫu nhiên Trung tướng, Chính ủy Bộ đội Biên phòng Võ Trọng Việt2 giới thiệu đoàn nhà văn quân đội chúng tôi đến với Biên phòng Sơn La. Cũng không phải ngẫu nhiên Đại tá, Tiến sĩ Trần Đức Uẩn giới thiệu chúng tôi đến với Sốp Cộp, nơi có những đồn biên phòng khó khăn gian khổ nhất. Đồn Nậm Lạnh là đồn tiêu biểu về thực hiện có hiệu quả công tác vận động quần chúng. Duy trì củng cố phong trào quần chúng tự chủ, tự quản đường biên mốc giới, phong trào quần chúng nhân dân bảo vệ an ninh biên giới là một trong những thế mạnh của cán bộ, chiến sĩ ở đây. Sự gắn bó với nhân dân nơi biên giới đã từ lâu trở thành máu thịt.
Nhưng nếu đến với nhân dân chỉ để tiếp cận những thông tin về tệ nạn và buôn bán, tàng trữ ma túy thì không thể hình dung hết những mảng công tác như bận con mọn của người chiến sĩ Biên phòng nơi biên giới.
Nguyễn Tiến Hoàng quê gốc ở Hà Tĩnh, lấy vợ và lập nghiệp ở Sơn La. Chàng trai có dáng người nhỏ nhắn, nước da đen sạm, một đặc trưng của người ở lâu nơi biên giới nhỏn nhẻn nở nụ cười. Tôi thấy nhà thơ Nguyễn Hữu Quý ánh nhìn như thắt lại. Nơi biên cương xa xôi, những người lính Biên phòng dường như còn nhiều khó khăn quá. Nhiệm vụ chồng lên nhiệm vụ. Hoàng hiện đang phụ trách hai đội nghiệp vụ của đồn. Có những việc, tôi biết anh không thể cung cấp cho chúng tôi. Có những vụ tham gia bắt lớn đến vài ki-lô-gam thuốc phiện, Hoàng cũng chỉ nhắc thoáng qua. Anh có nỗi niềm riêng, nỗi niềm chỉ những ai từng nhiều năm làm cán bộ trinh sát mới thấm thía. Người đi buôn, đối tượng tàng trữ xét cho cùng họ cũng là con người. Có kẻ vì tham lam nhưng cũng không ít người vì miếng cơm manh áo. Đó là điều các anh luôn day dứt, mà không chỉ riêng các anh.
Đại úy Đỗ Minh Thái, cán bộ chính trị của đồn luôn tươi tắn như một giảng viên trước những nữ sinh viên mùa tựu trường. Chàng trai quê Cẩm La, Kim Thành, Hải Dương đã có vợ và cô con gái bảy tuổi. Vợ đang dạy tiếng Việt cho người Lào tại trường Hữu Nghị ở Sơn Tây, còn chồng lại đi học tiếng Lào để quản lý biên giới Việt - Lào. Chuyện tình duyên của họ cũng giống như sự kết nghĩa huyền thoại Việt - Lào. Bác Hồ từng có câu thơ: “Việt - Lào hai nước chúng ta/ Tình sâu hơn nước Hồng Hà - Cửu Long”. Con gái Sơn Tây duyên thầm và cũng thuỷ chung lắm. Bộ đội ở Sơn Tây đông thì những người vợ lính cũng đông là chuyện bình thường. Bộ đội Cụ Hồ đôi khi hậu phương chỉ đơn giản vậy. Sá gì sông ngăn biển cách. Sá gì núi thẳm rừng sâu. Hôm nào Thái cũng gọi điện về chuyện trò với cô con gái nhỏ. Vợ chồng xa nhau, đứa con như một cây cầu. Với người lính Biên phòng, có những cây cầu dài đến hàng nghìn ki-lô-mét. Thái bỗng lặng đi khi bất chợt nhắc một câu:
- Em hứa đưa con đi biển mà ba năm rồi không thực hiện được anh ạ. Hè con được nghỉ thì bố bận. Đến khi về phép nửa chừng đơn vị lại gọi lên vì có nhiệm vụ đột xuất. Không biết sang năm có thực hiện được lời hứa với con gái không. Em mồ côi cha mẹ nên rất hiểu con cũng thèm tình cha mẹ.
Tôi như thấy nước mắt mình lại muốn rơi ra. Cha mẹ Thái đã mất. Thái dành mọi tình cảm cho bà nội gần trăm tuổi. Ở cái tuổi trời cho ấy, bà vẫn khuyên Thái phải có tâm có đức với nhiệm vụ của mình. Người già thường hay khuyên nhắc người trẻ về tâm về đức. Họ là những người đã trải qua các cuộc chiến tranh.
Đang chuyện trò với Thái thì Binh nhất Tòng Văn Niệm, người dân tộc Thái thập thò nơi cửa phòng. Chàng lính trẻ buổi trưa khi đoàn lên xe bị sa lầy đã mưu trí rải cành cây rồi dùng thừng cùng anh em kéo xe lên. Nhà Tòng Văn Niệm đông con lắm. Có những mười anh chị em mà Niệm là áp út nên phảng phất trong ánh nhìn như hiện lên nỗi nhớ về cha mẹ. Nguyện vọng của Niệm là được đi học Trung cấp Biên phòng. Chàng trai Thái tình cảm lắm. Mới dành dụm được trên hai triệu đồng gửi về cho bố mẹ. Hẳn khi nhận những đồng tiền của người con đang là bộ đội, cha mẹ Niệm sẽ xúc động lắm. Khi hỏi chuyện riêng tư, Niệm cười bẽn lẽn:
- Em mới có người nhận lời đấy. Cũng là người Thái cùng quê với em đang học Cao đẳng Sư phạm Sơn La.
Chúng tôi mỉm cười nhìn Niệm, chàng trai mới hơn hai mươi tuổi. Phía trước họ là cả một bầu trời rộng lớn. Rồi ô cửa xanh của họ cũng sẽ sáng lên nơi núi rừng sông Mã này. Họ như cây trong rừng, như nước không ngừng tuôn chảy của dòng sông Mã. Cũng như cây rừng, nước sông, những người lính đang bám chắc nơi địa đầu Tổ quốc. Và, chính họ chứ không phải ai khác, mới là những cột mốc vững chắc nhất.
Đêm xuống. Một đêm mưa rừng đầu nguồn sông Mã. Nước trời tuôn đổ tưởng như không ngừng nghỉ. Điện mất. Sấm chớp ì ùng vạch ngang bầu trời vần vũ như chiếc chảo đen kịt khổng lồ úp sùm sụp xuống núi rừng. Những lo lắng rộn lên mỗi khi các chiến sĩ Biên phòng tốp này tốp khác thoắt ẩn vào màn đêm mưa gió. Ở đây thường có nhiều mưa to gió lớn. Có khi mưa đến hàng tuần, địa bàn bị chia cắt là chuyện bình thường. Khi ấy đồn Biên phòng chia thành nhiều tốp lội bộ đến với bà con địa bàn. Càng khi mưa gió, tình quân dân càng được thể hiện. Có thời điểm khó khăn, lũ quét, đường sạt lở, phải mất hàng tháng mới khai thông thì những người bám trụ kiên cường nhất, thuỷ chung với nhân dân nhất, vẫn là những người lính. Mưa lạnh như ngấm vào tâm can chúng tôi, như cho chúng tôi một cái nhìn gần nhất, chất chứa nhất và cũng thật nhất về người lính nơi biên ải.
*
Hôm sau chúng tôi có cuộc hành quân xuôi dọc sông Mã đến Đồn Chiềng Khương - Đơn vị Anh hùng cũng là đồn cửa khẩu của Bộ Chỉ huy Biên phòng Sơn La, địa điểm đang chuẩn bị dựng Quốc Môn nơi biên giới Việt - Lào.
Mấy ngày mưa dầm, nước dồn ứ từ thượng nguồn, từ những cánh rừng, vạt đồi, thung khe dồn ra sông Mã. Sông Mã biến đổi một cách dữ dằn. Không còn là dòng nước hiền từ, ngoan ngoãn chảy xuôi lau ngàn soi bóng mà đã trở về đúng với bản chất của con ngựa bất kham tung bờm bay thẳng xuống vùng hạ bạn. Những luồng nước đục ngầu tuôn thẳng vào ghềnh đá hắt bọt nước rào rào lên vách đá hai bên bờ. Có những khúc quanh, dòng nước cuộn tung, hung hăng như vị thần sông xua quân hỗn chiến quăng quật nghiền nát tất cả cây cỏ, sỏi đá mà nó vớ được. Ngay dưới chân con đường mỏng manh, uốn lượn như sợi chỉ bám chắc vào thắt lưng những quả núi dọc triền sông, dòng sông Mã ì ầm, tuôn thốc tháo, chốc chốc lại gầm lên, buông phóng từng luồng đục ngầu, sôi sùng sục như thách thức những xe cộ đang thận trọng đổ đèo. Ai đi sông Mã mùa này mới thấy sự hùng vĩ, ghê gớm của thiên nhiên mà bỗng cảm thấy con người thật nhỏ bé, chẳng thấm tháp gì, chẳng thể so được với sự cuồng nộ của dòng sông mùa lũ. Ngược lên hay xuôi xuống, âm thầm, lặng lẽ, kiên cường vẫn là những người lính Biên phòng. Bất chấp nắng mưa, dông bão, đường sạt lở, cầu đứt gãy, các anh vẫn hành quân thực hiện mọi nhiệm vụ của mình.
Sau hàng tiếng đánh vật, xe mới đến được bến phà Bản Cún. Dòng sông Mã vẫn hung hãn, cuồn cuộn truy đuổi ở phía sau. Còn nhớ chuyến đi trước, khi chúng tôi đến bến phà Bản Cún, xã Chiềng Cang, huyện Sông Mã trời đã sẩm chiều. Con phà dã chiến thuộc Đoàn Công binh vượt sông H.49 đang ở phía bên kia. Phà lừ lừ giữa thượng nguồn sông Mã. Sông Mã lúc ấy sao hiền hoà đến thế. Không có tiếng máy nổ. Không hiểu bằng cách gì mà chỉ lát sau phà cập bến trong sự ngạc nhiên của mọi người. Mãi sau mới biết đây là sáng kiến mượn sức nước đẩy phà qua sông của chiến sĩ. Các chiến sĩ trẻ măng ùa lên bắt tay chúng tôi. Câu chuyện của những người lính vượt sông trạm tiền tiêu khai mở vận chuyển máy móc thiết bị làm đường tuần tra biên giới vùng Tây Bắc tiếp giáp nước bạn Lào.
Vừa bắt tay, Binh nhất Hoàng Văn Phú trước cái nhìn đầy ý nhị của tôi khi thấy những bông hoa rừng đang xuống bến tủm tỉm bảo:
- Anh ạ, trông thế thôi chứ ở đây chị em qua sông luôn cách một tầm tay.
Thoạt tiên tưởng Binh nhất Phú đùa cho vui nhưng chỉ giây lát, khi bóng những cô gái dân tộc quẩy gùi, dắt xe, dắt ngựa xuống con dốc sát phà, đột nhiên rẽ sang bên phải lộp cộp đi trên chiếc cầu phao làm bằng tre, gỗ bập bềnh trên mặt nước, chúng tôi mới vỡ lẽ rằng anh em vẫn còn cách một tầm tay thật. Lính vượt sông, anh nào anh nấy to cao vâm váp suốt ngày bì bõm sông nước người chắc nịch như những chú voi tơ đất Lào hẳn là bứt rứt lắm đây. Chàng trai quê lúa Hiệp Hòa, Kinh Môn, Hải Dương sinh năm chín mươi mặt lún phún lông tơ lóng ngóng gãi gãi mái đầu sực mùi dầu mỡ. Tổ công tác ở đây ngày vận hành hàng chục chuyến phà đưa xe kéo, xe ủi, ô tô, thiết bị kỹ thuật vượt sông an toàn. Đợt mùa lũ năm 2008, ngay trong đêm tối, phía bên kia sông í ới tiếng người gọi. Bất chấp nguy hiểm, các chiến sĩ dong phà sang. Đến giữa dòng, nước chảy xiết, dây néo căng rung bần bật tưởng chừng muốn đứt. Con phà nhích từng cen-ti-mét giữa dòng nước xiết trong sự lo lắng, chờ đợi căng thẳng của hai bên bờ. Sau hàng tiếng đồng hồ vật lộn, ông cụ Bản Cún đau ruột thừa cũng được đưa đi cấp cứu kịp thời. Câu chuyện kết nghĩa tiếp đó chắc là vui lắm. Chàng trai đất lúa vừa cười vừa chỉ ra chiếc cầu phao dân sinh bắc song song đang xuất hiện toán chị em ăn mặc rất đẹp phóng xe máy sầm sập như lướt trên mặt sông nói đùa:
- Đấy các anh xem, bọn em chỉ toàn được ngắm. Thấy các em qua sông mà nao hết cả lòng. Chỉ khi có lũ chị em mới đi phà. Mà trong lúc bão tố ấy còn làm ăn gì nữa.
Không biết các chiến sĩ công binh giúp chúng tôi qua phà năm trước bây giờ công tác ở đâu. Dòng sông Mã, cuồn cuộn tung bọt đỏ ngầu lao phóng về xuôi. Nhìn mãi chỉ một màu nước đục. Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý, người có mặt ở bến phà Bản Cún chuyến đi trước chợt buông một tiếng thở dài. Đời người lính là thế. Nơi nào khó khăn gian khổ nhất là có mặt họ. Khi những cung đường biên giới hiện ra, hoàn thiện cũng là lúc các anh lại lên đường. Chỉ dòng sông như một chứng nhân là ở lại.
Sau nhiều tiếng đồng hồ vật lộn, khuôn mặt ai nấy mới giãn ra đôi chút khi phía trước chúng tôi là cổng Đồn Biên phòng Chiềng Khương.
Đồn Chiềng Khương được phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân từ năm 1973. Với bề dày thành tích, đồn từ lâu đã được biết đến như một lá chắn thép vững chắc của Biên phòng Sơn La. Trung tá Trần Thái Sơn - Chính trị viên của đồn sau khi khái quát những nét tiêu biểu về truyền thống đơn vị anh hùng, hào hứng nói:
- Hiện nay, mỗi cán bộ, chiến sĩ của đồn đang tự vượt lên chính mình để hoàn thành nhiệm vụ. Là đồn cửa khẩu, phải đảm bảo quản lý con người và hàng hoá xuất nhập khẩu. Đồn đã duy trì chặt chẽ công tác kiểm tra, kiểm soát tại cửa khẩu, bằng các biện pháp nghiệp vụ đấu tranh ngăn chặn không để xảy ra các vụ việc lợi dụng xuất nhập cảnh tiến hành các hoạt động phá hoại an ninh trật tự. Tiến hành làm thủ tục xuất nhập cảnh vùng biên giới cho các đối tượng lưu thông biên giới nhanh chóng, thuận tiện, tạo điều kiện cho chính quyền và nhân dân hai bên sang làm việc, thăm thân và trao đổi hàng hoá.
Biên giới Việt - Lào từ xưa đến nay vốn ổn định và phát triển nhờ sự bắt nguồn từ tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt. Với mỗi người lính Biên phòng, ai cũng thấm nhuần tinh thần ấy. Cán bộ, chiến sĩ Biên phòng Đồn Chiềng Khương trong những nét son truyền thống của mình thì tinh thần gắn bó đặc biệt với cán bộ và chiến sĩ nhân dân Lào anh em luôn là những nét tiêu biểu nhất. Với mỗi người lính, cho dù là ở một đồn cửa khẩu chăng nữa thì sự gắn bó, gần gũi với người dân bên này, bên kia cột mốc ở đâu cũng được các anh nâng niu, bồi đắp hằng ngày. Đôi bàn tay người lính Biên phòng dường như đã trở thành máu thịt với người dân biên giới. Đâu đó văng vẳng những câu thơ về đôi bàn tay người lính Biên phòng: “Cái chữ theo bàn tay anh/ Hạt gạo theo bàn tay anh/ Ngọn lửa ấm bàn tay men rượu/ Người khỏe ơn cái tay người ốm nhớ cái tay/ Noọng, Sao rúc rích/ Rủ rà rủ rỉ/ Bàn tay anh lính Biên phòng.../ Làm ra ngô ra bông/ Làm ra sắn ra bắp/ Nắm bò lang dắt ngựa tía/ Ồ lạ nhỉ?/ Bàn tay ngẫm nghĩ/ Bàn tay có mắt có lòng/ Nghe người già nâng bát rượu/ Dắt con trẻ đến trường/ À ơi thương đến là thương...”.
Những câu thơ bình dị cứ ứa lên như tấm lòng người dân đối với bộ đội Biên phòng.
Ở đồn Chiềng Khương, nhiều cán bộ, chiến sĩ đã là một cái gạch nối, là những bậc đá tiếp bước thế hệ đi trước. Đại úy Nguyễn Đình Huân - Đồn phó cửa khẩu hiện đang làm nhiệm vụ với đội cắm mốc biên giới chính là con của Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Đình Thử. Từng một thời, Nguyễn Đình Thử nổi danh là người anh hùng tiễu phỉ ở vùng rừng núi sông Mã. Sông Mã khi ấy hoang vu, hiểm trở, là địa bàn hoạt động rầm rộ của những tên phỉ đầu sỏ. Khi ấy, bọn phỉ ngang nhiên tổ chức những trận đánh úp táo tợn giết hại rất nhiều cán bộ của ta. Có những lúc, phỉ tụ tập xâm nhập vùng Huội Ca, Huội Miêng sát biên giới Việt - Lào, cưỡng ép đồng bào di cư sang bên kia biên giới. Vấn đề cộm lên. Không lẽ bỏ mặc dân để lũ phỉ lừa phỉnh, giết chóc. Không lẽ để chúng mãi lộng hành nơi biên giới. Nguyễn Đình Thử bằng sự lăn lộn, mưu trí, gan góc tuyệt vời đã vào tận hang ổ chúng, tiêu diệt và bắt sống nhiều tên phỉ. Đặc biệt, ông đã cùng đồng đội bắt sống Sào Adơ - một trùm phỉ khét tiếng cùng mười hai tên khác đang chuẩn bị vũ trang bạo loạn ở vùng biên giới Việt - Lào. Ông được phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1967.
“Lớp cha trước lớp con sau/ Đã thành đồng chí chung câu quân hành...”. Như nước nguồn sông Mã gối nhau mang phù sa về xuôi nuôi mầm cây, thế hệ những người lính Biên phòng như Mùa Láo Sông, Mùa Láo Táy, Trần Thái Sơn, Nguyễn Đình Huân, Lê Quý Bôn, Lò Chính Phương, Nguyễn Xuân Thuya... đang vững vàng tiếp bước các thế hệ cha anh. Mùa nối mùa đơm hoa kết trái. Người nối người bảo vệ biên cương. Vẫn những người lính biên phòng, vẫn đôi bàn tay vững chãi, thảo thơm đêm ngày: “Nhổ cỏ trên nương/ Trồng cây, ủ lửa/ Mở ra cánh cửa/ Mở ra cuộc đời...”.
Sơn La là một tỉnh khá đặc biệt, và những người lính Biên phòng Sơn La luôn cho chúng tôi một cảm giác đặc biệt. Với 250 ki-lô-mét đường biên giáp với nước bạn Lào trong tổng số 2.067 ki-lô-mét toàn tuyến biên giới Việt - Lào thì Sơn La đã từ lâu được biết đến như một tỉnh có đường biên vừa dài vừa thuộc diện xa xôi nhất. Biên giới Sơn La có đoạn vắt qua đỉnh Pu Xam Xẩu cao 1.896 mét. Vách đá tai mèo dựng đứng. Có nhiều nơi cả đời không có dấu chân người. Sơn La còn biết đến với những vùng trồng cây thuốc phiện nơi đỉnh giời của dân tộc Mông hai bên biên giới đã lừng danh một con đường thuốc phiện với các vua Mông ngự trị hàng trăm năm. Quốc lộ 43 từ thảo nguyên Mộc Châu xuyên thẳng lên cửa khẩu Loóng Sập sang Sầm Nưa và quốc lộ 22 từ Chiềng Khương qua Mường Ét cũng xuyên sang Sầm Nưa đã nói lên tính phức tạp của vùng đất nơi biên viễn. Sơn La tiếp giáp với hai tỉnh Hủa Phăn và Luông Pha Băng nước bạn Lào từ thời các chúa đất mà tiêu biểu là Pha Nhọt Chom Căm cai quản cao nguyên Mộc Châu. Khi thực dân Pháp hoàn tất công cuộc cai trị Đông Dương thì các chúa đất nơi đây vì quyền lợi cá nhân và dòng tộc mình đã nhanh chóng bắt tay vào việc phân chia sự ảnh hưởng trong đó có vấn đề cương vực. Trong các xứ bảo hộ thì Ai Lao và Cao Miên đã được Pháp chú trọng vào việc phân chia cương giới dựa vào luật tục của các dòng tộc nên thực tế cương giới giữa các chúa đất Ai Lao và Việt Nam là rất sơ khai. Trong trăm năm trở lại đây, bằng nhiều nỗ lực trong đó có sự đóng góp của người Pháp, đường biên đã dần dần hình thành, phân giới ngày một minh định hơn. Hiện nay, ở bản Pom Khóc vẫn còn một hòn đá lớn mà tương truyền nó là cột mốc từ thời các chúa đất cách đây đã hàng trăm năm và trên đỉnh Pu Xam Xẩu vẫn còn hai hàng đá vôi dựng sừng sững nơi đỉnh giời. Nói như vậy để thấy rằng, những người lính Biên phòng Sơn La trong công việc bảo vệ chủ quyền biên giới đã phải tìm hiểu ngọn nguồn lịch sử các vùng đất và các dân tộc sinh sống ở nơi đây.
Những người lính Biên phòng nơi ngọn nguồn sông Mã giản dị, thân thuộc nhưng những hiểu biết tiềm tàng của họ về văn hoá, tập tục, lịch sử khiến chúng tôi, những người ưa sách vở cũng phải nhiều khi thán phục vậy.
*
Tôi nắm bàn tay anh lần đầu tiên. Bàn tay đủ đầy, ấm nóng. Những mạch máu nhỏ luân chuyển rì rầm trong đôi bàn tay của người thầy từng nhiều năm đứng trên bục giảng và hiện đảm đương cương vị Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng Sơn La. Đại tá, Tiến sĩ Trần Đức Uẩn, người con đất Nam Định từng ra Bắc vào Nam, từng nằm đồn cắm bản, và bây giờ đây đang ăn cơm tập thể nằm giường cá nhân tại mảnh đất Sơn La. Ngay khi Lù Công Thắng hy sinh, anh đã điện cho tôi. Chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với anh về nhiều vấn đề. Có những vấn đề lời nói hay văn bản đều không thể thể hiện hết được. Có những điều chỉ có thể cảm nhận từ trái tim mình. Điều ấy chỉ có người lính hiểu. Điều ấy chỉ nhân dân và Tổ quốc vốn bao dung hiền từ như biển cả là nhận biết, ôm vào lòng, sẻ chia và tiếp sức cho người lính ở những chặng đường phía trước.
Những người lính ít lời nhất với tôi bao giờ cũng là những người lính đáng tin cậy hơn. Ở nơi biên giới, không có đất cho những lời lẽ văn hoa. Chúng không thật cần thiết. Những thứ phù phiếm dường như xa lạ với những người lính Biên phòng nơi đầu nguồn sông Mã, như với liệt sĩ tuổi đôi mươi Lù Công Thắng, như với anh - người Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng Sơn La. Bàn tay nóng ấm đang nằm trong bàn tay tôi đây, khi mới gặp, khi chia tay, và cả khi tôi đang thức viết những dòng cho bài bút ký này.
Không hiểu sao, đêm đêm tôi như thấy anh, thật rõ ràng, ngồi vào bàn làm việc, lặng lẽ khiêm nhường như những chiếc đèn ngoài xa kia, như những chấm sáng li ti trên vòm trời biên ải, để mai đây, góp phần tỏa sáng trong cuộc đời mỗi người chiến sĩ biên phòng.
Ngoài xa kia, những chiếc đèn đường vẫn âm thầm, lặng lẽ, kiên nhẫn sáng.
Ánh sáng hắt xuống đường thâm thẫm, mênh mông.
2 Nay là Ủy viên Trung ương Đảng, Thượng tướng, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng - An ninh của Quốc hội (Khóa XIV).