Trước mặt tôi là dãy di ảnh những liệt sĩ thuộc biên chế trong lực lượng Điện ảnh Quân đội nhân dân hy sinh trong các cuộc chiến tranh và cả những ngày tháng hòa bình. Các anh còn trẻ lắm. Những khuôn mặt rắn rỏi, trong sáng, cặp mắt nhìn thẳng như đọc được suy nghĩ của người đối diện khiến tim tôi càng nhói lên. Nơi sinh ra các anh là các vùng quê Thái Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Nghệ An, Cần Thơ, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Mỹ Tho, Hà Nội, Thái Nguyên, Thanh Hóa… Nơi các anh ngã xuống là Hà Nội, Vinh, Quảng Trị, Đức Huệ, Lộc Ninh, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ, Tây Nguyên, Sài Gòn, Lạng Sơn, Lai Châu… trong tư thế của người nghệ sĩ cầm máy quay phim. Đất nước chiến tranh dằng dặc. Trong kháng chiến chống Mỹ, hai mươi chín liệt sĩ Điện ảnh Quân đội nhân dân đã nằm xuống ở các chiến trường, nơi những trọng điểm ác liệt nhất. Hàng triệu mét phim tài liệu quý giá về chiến tranh đã phải trả bằng xương máu của những người nghệ sĩ - chiến sĩ khi họ mới ngoài hai mươi tuổi. Năm tháng thời gian trôi qua, Việt Nam đã có một vị thế trang trọng, đường hoàng trên trường quốc tế. Hình ảnh nhân dân Việt Nam, hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ đã là một biểu tượng quật cường, dung dị, gần gũi với toàn thế giới mà trong ấy những thước phim tư liệu phải trả bằng máu đã góp phần không nhỏ tô thắm biểu tượng anh hùng của người chiến thắng. Tôi nhìn thẳng vào các anh. Những khuôn mặt chất chứa nhiều khát vọng. Những cặp mắt như nuối tiếc điều còn dang dở. Chắc chắn chúng tôi sẽ mãi mãi chung một con đường, chung một trái tim với các anh trong bước đường đời, đường nghề vinh quang nhưng vô cùng gian khổ ở phía trước.
Không thể hình dung cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta thiếu đi những người lính của Điện ảnh Quân đội nhân dân. Càng không thể hình dung nền Điện ảnh cách mạng Việt Nam hơn nửa thế kỷ vắng bóng những người nghệ sĩ - chiến sĩ. Từ hàng triệu thước phim đã phải trả bằng máu, nối nhau hiện ra những năm tháng hào hùng, chiến đấu và hy sinh, suy tư và day dứt, những trăn trở, những bước ngoặt, những khát khao hòa bình, độc lập - tự do - thống nhất của một dân tộc luôn ở trên tuyến đầu đấu tranh giữ gìn phẩm chất tốt đẹp nhất, tiến bộ nhất của loài người. Từ những thước phim ấy, người xem trong nước và nước ngoài nhận ra vẻ đẹp của con người Việt Nam. Từ những thước phim ấy, vẻ đẹp của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đụng đầu lịch sử đã hiện lên chân thực, sinh động và xúc động đã đánh thức hàng triệu trái tim khắp toàn cầu. Đó là những thước phim được sinh ra trong lòng cuộc chiến đấu, được ghi lại bởi những người vừa cầm súng vừa cầm máy ngay tại chiến hào. Đó là những thước phim của lòng quả cảm của những người con Việt Nam vừa rũ bùn đứng dậy. Chính những người lãnh đạo cao nhất trong đó có Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn chăm lo, tạo mọi điều kiện cho người chiến sĩ làm điện ảnh. Từ cơ sở vật chất vô cùng khó khăn, Thủ trưởng Tổng cục Chính trị đã sớm chỉ đạo phải bằng mọi cách làm phim về những người lính, về cuộc chiến đấu hào hùng của quân và dân ta do chính những người lính đảm nhiệm. Năm 1959, bộ phim “Dưới cờ Quyết thắng ra đời” trong bối cảnh đó. Phim được dư luận đánh giá rất cao. Điều đặc biệt, ngay sau khi phim làm xong, Bác Hồ đã cho phép đoàn mang vào chiếu để Bác xem. Người đã lặng đi rất lâu trước những hình ảnh xúc động của “Dưới cờ Quyết thắng”. Bác Hồ chậm rãi nói: “Sau này cần có nhiều bộ phim khác nữa để động viên, giáo dục bộ đội xây dựng lớn mạnh, chiến đấu thắng lợi”. Những lời động viên của Bác đã theo sát bước chân người chiến sĩ của Điện ảnh Quân đội nhân dân trên các chặng đường hơn nửa thế kỷ của mình.
Đội ngũ những người làm phim của Điện ảnh Quân đội nhân dân luôn có những cuộc lên đường vào thẳng chiến trường, đến trực tiếp với các cuộc chiến đấu ác liệt. Làm phim về chiến tranh, luôn là nhiệm vụ hàng đầu của đội ngũ những người chiến sĩ làm điện ảnh. Giai đoạn 1965 - 1975 là chặng đường oanh liệt, vẻ vang của Điện ảnh Quân đội nhân dân. Đội ngũ được kiện toàn, bổ sung, cơ sở vật chất được đầu tư mạnh mẽ. Với phương thức làm phim xung kích, tinh thần bám sát trực tiếp ở các mặt trận, những thước phim quý giá ghi nhận trực tiếp cuộc chiến đấu của quân và dân ta là lời tố cáo đanh thép nhất tội ác chiến tranh. Trên nóc trường Dân tộc khu vực Mễ Trì ngày 12 tháng 5 năm 1967, khi quay phim “Cuộc chiến đấu bảo vệ khu công nghiệp Thượng Đình”, Chuẩn úy quay phim Nguyễn Kôn đã anh dũng hy sinh. Trên trận địa pháo cao xạ thành phố Vinh năm 1971, trước khi hy sinh, Hạ sĩ quay phim Nông Văn Tư đã nói một câu nổi tiếng: “Chỗ đứng của chúng tôi là ở đây. Dù có phải hy sinh, chúng tôi cũng hy sinh ngay trên vị trí chiến đấu của mình!”. Ngay trong chảo lửa Quảng Trị, các anh Lê Văn Bằng, Lê Viết Thế, Nguyễn Như Dũng đã anh dũng hy sinh trong tư thế hiên ngang của người nghệ sĩ - chiến sĩ. Hình ảnh đạo diễn kiêm quay phim Ngô Đặng Tuất ôm máy băng lên giữa một trời máy bay quần đảo ghi cảnh đoàn xe ta bị cháy, hình ảnh quay phim Hoa Đạt kiên quyết đứng sau bụi tre chờ những chiếc xe bọc thép của Mỹ vào tầm bấm máy để có những thước phim chân thực nhất là những hình ảnh của người anh hùng. Trong lòng cuộc chiến, những phim mang đậm tính thời sự làm nức lòng quân dân cả nước như: “Kẻ cướp Mỹ bị trừng trị đích đáng”; “Quyết không cho chúng nó thoát; “Mỹ không chừa, Mỹ còn chết”; “Giặc đến là đánh, đánh là phải thắng”; “Chúng tôi đã sẵn sàng” và đặc biệt là phim tài liệu: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” đã gây tiếng vang lớn, khẳng định bước trưởng thành mới của đội ngũ những người làm Điện ảnh Quân đội nhân dân.
Trong hơn nửa thế kỷ, đội ngũ những người làm điện ảnh Quân đội nhân dân đã xác lập những cột mốc bằng phim ấn tượng, đã đoạt nhiều giải thưởng trong nước và thế giới. Đó là “Dưới cờ Quyết thắng”; “Trên hải phận Tổ quốc”; “Ngọn lửa Nghệ Tĩnh”; “Chiến đấu giữ đảo quê hương”; “Người Hàm Rồng”; “Một ngày Hà Nội”; “Dòng thác bạc”; “Chúng con nhớ Bác”; “Trận địa mặt đường”; “Ghi chép trên đồng bằng Quảng Ngãi”; “Hà Nội bản hùng ca”; “Cuộc đụng đầu lịch sử”; “Chiến thắng lịch sử Xuân 1975”; “Đi tìm đồng đội”; “Đường mòn trên biển Đông…”. Trong đội hình chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam, đội ngũ những người làm điện ảnh quân đội luôn bám sát chiến trường, bám sát mặt trận luôn ở nơi đầu sóng ngọn gió hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình.
Cuộc sống luôn diễn ra như những dòng sông lớn tung mình ra biển. Theo cùng năm tháng, thế hệ gạo cội của Điện ảnh Quân đội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Thế hệ kế cận đang nối bước gánh vác trọng trách người đi trước để lại. Gia tài là thế. Những trái tim chung một con đường. Đời sống của nhân dân ta, bộ đội ta đang từng ngày thay đổi. Thế hệ mới trẻ trung, sung sức, xum xuê trong ngôi nhà ấm cúng. Với sự đam mê nghề nghiệp, những người trẻ luôn tự học, tự rèn, tự nâng mình lên trong tìm tòi, sáng tạo để có những tác phẩm tốt nhất phục vụ bộ đội, phục vụ nhân dân. Những tác phẩm ấn tượng từ những người lính làm điện ảnh khi nào cũng có. Những bộ phim truyện, tài liệu nối nhau, tiếp tục dựng xây thương hiệu. Đó là các phim: “Hoa ban đỏ”; “Tiếng cồng định mệnh”; “Mười ba bến nước”; “Hoàng Sa trong lòng Tổ quốc”; “Sóng nhà giàn”; “Gươm đàn Thăng Long”; “Bốn mươi năm Điện Biên Phủ trên không”; “Những người chốt giữ Thành Cổ…”. tiếp tục là những cột mốc mới của một thế hệ mới.
Hình tượng, vẻ đẹp người chiến sĩ được chưng cất, soi chiếu bằng cái nhìn từ bên trong của chính những người chiến sĩ. Những cảm thông chia sẻ, những xù xì góc cạnh được soi rọi, trăn trở, lí giải đã hiện lên dung dị và cảm động. Những nỗi đau từ chiến tranh luôn được đặt ra và xử lý với trái tim dung dị, nhạy cảm của người trong cuộc. Không né tránh, không đơn giản xuôi chiều, hời hợt mà riết róng tận cùng luôn là bản sắc cũng là bản lĩnh của đội ngũ những người làm phim của Điện ảnh Quân đội nhân dân.
Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, những nghệ sĩ Điện ảnh Quân đội đã có mặt ở hầu khắp các chiến trường. Ở đâu mà tình hình chiến sự nóng bỏng, quân dân ta đang anh dũng chiến đấu, giành giật với quân thù từng thước đất của Tổ quốc là ở đó các anh có mặt. Nhiều người trong số họ đã ngã xuống khi đang cầm máy quay với những thước phim còn dang dở. Nhiều tấm gương liệt sĩ hy sinh của Điện ảnh Quân đội đã gây xúc động đồng bào, chiến sĩ ta. Trong thời bình, thật ít ai ngờ Nguyễn Xuân Nghiệp - Thế hệ quay phim thứ năm của Điện ảnh Quân đội nhân dân đã hy sinh cũng trong tư thế cầm máy. Khi còn sống, Nguyễn Xuân Nghiệp được bạn bè và đồng nghiệp quý mến, trân trọng không chỉ vì tài năng mà còn từ sự chia sẻ, giản dị và hòa đồng trong công việc. Nhưng thật tiếc thương, anh đã hy sinh tại thượng nguồn sông Đà khi đang làm bộ phim “Điểm tựa Ka Lăng” cùng đồng đội.
Tốt nghiệp Trường Nghiệp vụ Phát thanh - Truyền hình (1978 - 1980), Đại học Sân khấu Điện ảnh, khoa Quay phim (1981 - 1985), chàng thanh niên quay phim trẻ Nguyễn Xuân Nghiệp về công tác tại Điện ảnh Quân đội nhân dân trong thời gian kinh tế đất nước cực kỳ khó khăn, thiếu thốn.
Hai mươi tám năm phục vụ quân đội, Nguyễn Xuân Nghiệp luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần tích cực chủ động khắc phục khó khăn, kỷ luật nghiêm, đoàn kết tốt, say mê nghề nghiệp, chịu khó học tập, tu dưỡng rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Anh tham gia quay trên năm mươi bộ phim, kiêm đạo diễn nhiều bộ phim cùng hàng nghìn mét phim tư liệu quý giá về huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng địa bàn… của quân và dân ta, đặc biệt là những thước phim về vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo, những địa bàn khó khăn gian khổ. Các tác phẩm điện ảnh của anh luôn giữ vững định hướng chính trị, có tính chiến đấu, có nhiều tìm tòi sáng tạo về nghệ thuật, chân thực và xúc động. Tác phẩm: “Người anh cả của quân đội” (Đồng quay phim chính) đoạt Giải Bông sen Bạc tại Liên hoan phim Việt Nam toàn quốc lần thứ 13 (năm 2001); các bộ phim “Mặt trận mới”, “Hội thao vận tải chiến thuật”, “Tổ quốc đón anh về” trong các kỳ Liên hoan phim toàn quốc năm 1996, 1999, 2004 đều được tặng bằng khen. Nguyễn Xuân Nghiệp cũng đã được tặng Huy chương vì sự nghiệp Điện ảnh Việt Nam, Huy chương vì sự nghiệp báo chí Việt Nam, cùng nhiều bằng khen, giấy khen vì có thành tích tốt trong học tập, công tác. Điện ảnh Quân đội nhân dân đang đề nghị trên phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú thì anh đột ngột hy sinh trên thượng nguồn sông Đà khi trên vai vẫn ghì chắc chiếc máy quay phim quen thuộc.
Thực hiện kế hoạch làm phim năm 2005, Ban giám đốc Điện ảnh Quân đội nhân dân cử Trung tá Nguyễn Xuân Nghiệp, biên kịch Nguyễn Anh Nông cùng tổ làm phim lên Lai Châu thực hiện bộ phim tài liệu “Điểm tựa Ka Lăng”, đây cũng là nguyện vọng của anh muốn làm đạo diễn kiêm quay phim trong bộ phim này. Được sự giúp đỡ của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng Lai Châu, đồng chí đã quay được nhiều hình ảnh có giá trị. Chiều ngày 26 tháng 8 năm 2005, anh và tổ làm phim cùng một số cán bộ của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng Lai Châu và Đồn Biên phòng 311 xuống xuồng máy ngược sông Đà. Đang quay những cảnh phản ánh tinh thần chịu đựng gian khổ khắc phục khó khăn, ý chí kiên cường và lòng dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ Biên phòng trên một vùng biên giới cực kỳ hiểm trở để bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc thì bất thần anh bị dòng nước lũ vít xuống.
Lúc ấy là 16 giờ 30 phút, khi chiếc xuồng máy đang chạy trên khu vực đầu nguồn sông Đà, thuộc địa phận xã Ka Lăng thì một con nước xoáy bất ngờ dội vào mũi xuồng. Do đang tập trung vào ống kính quay phim nên Nguyễn Xuân Nghiệp bị bất ngờ hất xuống dòng nước cùng chiếc máy quay phim (khi ấy, anh đang đeo ắc quy nặng khoảng bảy ki-lô-gam và máy quay nặng hơn mười ki-lô-gam). Những người ngồi trên xuồng chỉ kịp nhìn theo người đồng đội ngã xuống mặt nước và chìm hút trong xoáy nước một lúc lâu không thấy nổi lên, càng không thấy động tĩnh gì. Tất cả từ bần thần, bàng hoàng chuyển sang hoảng hốt hoang mang như không tin những gì vừa xảy ra trước mắt mình. Sau khi trấn tĩnh, Đại tá Lê Duy Luyến - Phó Chỉ huy trưởng về Chính trị, Bí thư Đảng ủy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu lúc đó và tổ công tác cùng đi lập tức dùng xuồng và mọi điều kiện có thể để tìm kiếm, cứu nạn liên tục trong nhiều giờ. Nhưng do lũ đầu nguồn mỗi lúc một dâng cao, nước chảy xiết, cuộc tìm kiếm cứu nạn không có kết quả. Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu và Điện ảnh Quân đội nhân dân có sự hỗ trợ của chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương dọc sông Đà, sau nhiều ngày tìm kiếm mới thấy thi thể Nguyễn Xuân Nghiệp. Suốt một tuần liền, người thân, đồng đội, đặc biệt là vợ và các con anh vẫn còn bàng hoàng trước sự ra đi đột ngột của anh.
Sinh ra trong một gia đình hiếu học và có truyền thống cách mạng từ nhỏ, Nguyễn Xuân Nghiệp đã được người cha của mình là Nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Kha bồi đắp cho niềm say sưa hứng thú với nghệ thuật điện ảnh. Thời gian trước khi hy sinh, anh khao khát được tự mình thực hiện một ý tưởng phim mà anh đã ấp ủ từ rất lâu. Đó là đề tài về sự hy sinh thầm lặng của những chiến sĩ Biên phòng nơi núi rừng hiểm trở. Phim mang tên: “Điểm tựa Ka Lăng” do biên kịch Nguyễn Anh Nông viết kịch bản. Anh đã chọn cho bộ phim đạo diễn đầu tay của mình một địa bàn tác nghiệp rất khó khăn. Thời gian trong phim là quãng khắc nghiệt và gian khổ nhất: Mùa lũ, nước sông Đà lên cao. Nguyễn Xuân Nghiệp là như vậy, luôn muốn thử lửa, luôn muốn khám phá và ghi vào ống kính những khuôn hình tận cùng của cái đẹp và sự thử thách. Và cái ngày mà anh dùng bút đỏ đánh dấu khoanh tròn trên tờ lịch nơi anh làm việc đã trở thành một ngày định mệnh. Anh hy sinh khi đang cầm máy quay trên dòng sông Đà cuồn cuộn chảy. Dòng nước xiết đã ôm vào lòng vĩnh viễn người chiến sĩ đang thể hiện những thước phim về sự chiến đấu với giặc nước của những người lính trên thượng nguồn sông Đà. Vậy là bộ phim đầu tay mà anh kỳ vọng, bao dự định về những miền đất, về những số phận con người anh ấp ủ đã ngừng lại giữa chừng. Ngày đón anh về, đồng đội và người thân của anh vẫn chưa hết bàng hoàng. Anh vẫn gần gũi, thân thiết lắm như thể mới mấy ngày trước còn đùa tếu táo: “Mười ngày nữa tao về, tha hồ nghe kể chuyện”. Ka Lăng tuyệt lắm. Anh đã từng thực hiện bộ phim: “Tổ quốc đón anh về”. Xem những thước phim đó không ai cầm được nước mắt. Và hôm nay, đồng đội đón anh, đón người con trở về giữa vòng tay và những giọt nước mắt tiếc thương của bao đồng chí đồng đội. “Điểm tựa Ka Lăng” còn dang dở. Thương anh, quý trọng anh, các đồng nghiệp nén đau thương để tiếp tục lên đường, chinh phục dòng sông Đà, chinh phục đỉnh Ka Lăng hiểm trở. Nguyễn Xuân Nghiệp chính là điểm tựa tinh thần cho đồng đội tiếp bước. Mới đây, anh được Nhà nước truy phong danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú. Nhưng anh đã hy sinh giống như bao lớp thế hệ đi trước: Vinh quang trong những cống hiến thầm lặng.
Đau đớn thật không gì bù đắp, nhưng khi trò chuyện với chúng tôi, đồng nghiệp của anh, Đại tá Nguyễn Thành Lập, một bậc đàn anh trong nghề chia sẻ: Nguyễn Xuân Nghiệp đã đi tiếp con đường của những nghệ sĩ - chiến sĩ luôn theo sát bước chân chiến sĩ, bám trận địa, chiến hào chiến trường, bám những nơi heo hút, vùng sâu vùng xa gian khổ khó khăn mà đồng đội và nhân dân đang phấn đấu, đang vượt lên. Nghiệp ơi! Những gì vừa xảy ra trên vùng đất quanh điểm tựa Ka Lăng và trên dòng nước lũ con sông Đà, Nguyễn Xuân Nghiệp đã thực sự là một tấm gương về tinh thần dũng cảm quên mình của một chiến sĩ làm công tác văn hóa nghệ thuật. “Điểm tựa Ka Lăng”, bộ phim Nghiệp làm dở và những điểm tựa khác ở những nơi gian khổ, khó khăn trong dự kiến của Nghiệp và đơn vị, đồng đội, đồng nghiệp ở Điện ảnh Quân đội nhân dân sẽ quyết tâm làm được và làm thật tốt. Vĩnh biệt anh!
Cảm phục lòng dũng cảm và say mê nghề nghiệp của Liệt sĩ Nguyễn Xuân Nghiệp, Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu đã phát động đợt học tập tấm gương anh dũng hy sinh của Liệt sĩ Nguyễn Xuân Nghiệp trong toàn thể cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu.
Liệt sĩ Nguyễn Xuân Nghiệp, người đồng đội, đồng nghiệp của chúng tôi mãi cháy sáng và vững chắc như “Điểm tựa Ka Lăng”.