Từ xưa đến nay, người nhờ vào niệm Phật mà đắc đạo vô cùng nhiều, không thể đếm hết được. Bây giờ tôi sẽ giới thiệu vài phương pháp niệm Phật để quý vị cùng tham khảo.
2.1 - Hoan hỷ niệm
Mục đích của niệm Phật là cầu sinh về Tây phương Cực Lạc. Chúng ta nên quán tưởng lần đi về Tây phương Cực Lạc này là từ hoa sen hóa sinh, không còn phải chịu đựng sự sinh, già, bệnh, chết nữa. Chỗ ở thì có vàng phủ trên đất, lầu các thì có bảy loại bảo ngọc làm trang sức. Ở nơi ấy, chúng ta được sống cùng với những bậc thượng thiện tri thức, có thể cùng nhau nghiên cứu học hỏi, đặc biệt là được nghe chính Phật A Di Đà thuyết pháp, thử hỏi trong đời có gì vui hơn như thế không?
Quán tưởng như vậy, niềm vui trong lòng ngày càng lớn, bất giác miệng liền niệm: “A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!…” Quý vị liên tục trì niệm danh hiệu Phật, phải niệm tới mức cảm thấy vui thích cực độ, niềm vui xuất phát từ tận đáy lòng, niệm đến độ tâm niệm thuần tịnh, tràn ngập sự nhiệt huyết, phấn khởi, thì nhất định sẽ đạt được kết quả lớn.
2.2 - Thống thiết niệm
Đau khổ của thế tục có gì lớn hơn sự đau khổ của tử biệt. Chúng ta niệm Phật cũng phải như vậy, giống như người thương yêu của mình ra đi mãi mãi, dùng âm điệu cực kỳ bi thương thê thảm mà xưng niệm: “A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!” Giống như đứa trẻ mồ côi mất đi chỗ nương tựa đang tìm kiếm nơi nương náu, bi thảm tha thiết mà xưng niệm danh hiệu Phật.
Thật vậy, nếu suy nghĩ cho thấu đáo thì từ vô thỉ kiếp cho đến nay, chúng ta trôi lăn, lặn hụp chìm nổi trong biển sinh tử không có thời hạn; nếm trải qua đủ các loại khổ của luân hồi; hoặc đầu thai làm trâu ngựa, hoặc mang lông đội sừng, hoặc làm quỷ đói trong địa ngục (địa ngục lửa đốt, địa ngục ao máu, địa ngục núi đao, địa ngục rừng kiếm); chịu đựng vô lượng thống khổ, không biết khi nào mới có thể thoát ra được. Nhớ tưởng như vậy, làm sao lại không đau lòng xót dạ được chứ?
Trong hố thẳm đau thương, chúng ta chỉ có cách nương nhờ vào lòng từ bi cứu vớt của Phật A Di Đà mới có thể thoát ly biển khổ, sinh về nước Cực Lạc, làm sao không cảm kích mà rơi lệ! Như vậy đó, bi thương thống thiết mà niệm Phật, tâm chúng ta sẽ dễ dàng tương ứng với tâm Phật A Di Đà.
2.3 - Hư vô niệm
Thế giới mà chúng ta đang sống là giả tạm không thật, ngay như thân thể của chúng ta cũng do bốn đại năm uẩn giả hợp mà thành. Chỉ có câu A Di Đà Phật mới là nơi quay về nương tựa tuyệt đối. Miệng niệm “A Di Đà Phật! A Di Đà Phật”, tâm phải không vướng bận bất cứ việc gì, một lòng xưng niệm danh hiệu Phật. Niệm đến chỗ quên luôn bản thân, trời đất hòa tan, thế giới không còn tồn tại, du dương phiêu lãng, thanh thoát nhẹ nhàng. Câu “A Di Đà Phật” giống như màng lưới bủa giăng đầy khắp hư không vũ trụ. Có thể mọi người sẽ nói: “Cảnh giới như vậy không dễ gì đạt được!” Kỳ thật thì không khó lắm đâu, bản thân tôi cũng từng có được kinh nghiệm đó rồi.
Năm 1954, tôi ở Nghi Lan chủ trì khóa tu niệm Phật 7 ngày. Trong 7 ngày đó, tôi cảm thấy mình bước đi mà nhẹ giống như là cưỡi mây đạp gió vậy. Sáng sớm thức dậy rửa mặt, đánh răng cũng giống như đang niệm “A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!” Khi ăn cháo cũng như đang niệm “A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!” Đi ngủ rồi mà mọi việc cũng tái hiện trong đầu một cách rất là rõ ràng. Thời gian 7 ngày mà giống như một sát na, thoáng chốc đã qua đi. Thật sự là niệm tới mức trời không còn, đất cũng không còn, chỉ còn lại câu “A Di Đà Phật”.
Cũng từ khóa tu niệm Phật đó, lòng tin của tôi đối với pháp môn niệm Phật tăng trưởng vô cùng. Phương pháp “Hư vô niệm Phật” khiến cho tôi có được cảm giác an lạc của việc quên lãng đi thời gian, không gian và cởi bỏ được mọi ràng buộc của thân tâm.
2.4 - Thành khẩn niệm
Nhớ nghĩ đến lòng từ bi của Phật A Di Đà, nguyện lực vô biên, nhiếp thụ mười phương tất cả chúng sinh của Ngài mà, bất giác sinh khởi tâm chân thành cung kính, xưng niệm danh hiệu Ngài, đỉnh lễ Ngài; Chỉ cầu mong dưới sự chiếu diệu vô lượng ánh sáng của Ngài, tất cả chúng sinh sớm ngày được độ thoát. Chúng ta phải lấy tâm kính cẩn kiền thành như vậy, chí thành khẩn thiết mà xưng niệm danh hiệu Phật, đỉnh lễ Thánh tượng, hầu mong nhanh chóng tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phúc tuệ. Chúng ta thường nói: “Lạy Phật một lạy, phúc tăng vô lượng. Niệm Phật một niệm, tội diệt hà sa”, điều đó hoàn toàn không sai. Khi nhắc đến lạy Phật, có người liền bảo: “Ôi trời! Cái đầu tôn quý của chúng ta làm sao có thể phủ phục dưới đất được”. Kỳ thật, người nói đó là không hiểu được việc lạy Phật có vô lượng công đức vi diệu như thế nào. Niệm Phật giúp cho chúng ta tiêu trừ được sự cống cao ngã mạn, tiêu trừ mọi tai chướng trong cuộc đời. Đối với việc lạy Phật, cá nhân tôi có được kinh nghiệm không thể nghĩ bàn.
Khi tôi mười lăm tuổi thọ giới tấn hương. Do lúc đó tuổi còn nhỏ, mà vết đốt khi tấn hương lại quá lớn nên làm cho chỗ đó lõm xuống, ảnh hưởng đến thần kinh não, mất đi trí nhớ. Bấy giờ, tôi đang học ở Phật học viện, bài tập rất nhiều. Do bị mất trí nhớ mà một bài quốc văn tôi phải đọc đi đọc lại mấy trăm lần nhưng vẫn không nhập tâm, cứ thuộc được câu thứ nhất đến khi học câu thứ hai thì lại quên mất. Trí nhớ của tôi giảm sút đến mức gần như mới nhìn đó đã quên ngay lập tức. Bởi vậy, tôi thường xuyên bị đánh đòn, chịu phạt. Tôi nhớ có một vị thầy giáo trong lúc phạt đòn tôi, vừa đánh vừa nói: “Cậu thật là ngốc. Bài văn đơn giản như vậy mà sao không thể thuộc được chứ? Cậu phải chăm chỉ lạy Bồ tát Quan Âm mà cầu cho trí tuệ sáng suốt!”
Nghe xong câu nói đó của thầy giáo, tôi không những không cảm thấy đau buồn, mà còn hạnh phúc giống như tìm thấy được hy vọng. Tôi thầm nghĩ: “Những tưởng đời này của mình coi như đã hết hy vọng rồi, không ngờ lạy Bồ tát Quan Âm thì có thể mở mang trí tuệ. Bắt đầu từ ngày hôm nay, mình sẽ chuyên cần lạy Phật”. Từ đó, tôi phát nguyện lễ lạy Bồ tát Quan Thế Âm.
Cuộc sống đoàn thể ở Tùng lâm quy luật nghiêm khắc, không được làm việc cá nhân, đến việc lễ lạy cũng không thể tự ý. Tôi luôn đợi đến lúc đêm khuya vắng vẻ, mọi người đi ngủ hết mới lén lén thức dậy đến Đại điện lạy Bồ tát. Chùa ở trong núi sâu, cảnh vật tĩnh lặng, chỉ có một ngọn đèn dầu mờ ảo làm bạn với cái bóng cô độc, nhỏ bé của tôi. Tôi lạy trước tượng Bồ tát, miệng đọc thầm: “Đều phát Bồ đề tâm, hoa sen mọc khắp nơi, đệ tử tâm mê mờ, lễ lạy Quan Thế Âm, cầu thông minh trí tuệ. Nam mô Đại từ Đại bi cứu khổ cứu nạn quảng đại linh cảm Quan Thế Âm Bồ tát Ma ha tát”.
Có người nói lễ lạy Bồ tát Quan Thế Âm, Ngài sẽ sờ đầu mình mà ban tặng sự thông minh, tôi chưa có được sự cảm ứng như vậy. Nhưng mà khoảng một tháng rưỡi sau, thật không thể nghĩ bàn, thần kinh não của tôi đột nhiên trở nên linh hoạt. Bất cứ sách gì dù đã học hay thậm chí chưa học, bất luận là nguyên văn hay chú giải thì chỉ cần xem qua là tôi thuộc làu làu, không hề quên lãng. Từ đó về sau, tôi không còn bị phạt quỳ gối cũng không bị phạt đòn nữa, liên tục nhiều năm ở Phật học viện, tôi luôn giữ thành tích ưu tú. Tục ngữ có câu: “Khi đạt đến sự tinh chuyên thành tâm thì không việc gì thất bại cả”. Niệm Phật, lạy Phật chỉ cần có lòng chí thành, chuyên tâm nhất ý thì tự nhiên sẽ có cảm ứng. Cho nên nói: “Người có lòng thành sẽ cảm ứng với Phật”, chúng ta phải đặc biệt thành khẩn khi lễ lạy và xưng niệm danh hiệu Phật.
Lạy Phật là ở điện Phật hay lễ lạy bậc trưởng thượng cũng đều có quy củ nhất định. Có một số Phật tử thành khẩn, cung kính, lễ lạy khắp nơi, gặp ai cũng lễ, cũng lạy, như vậy là không đúng pháp. Thông thường thì những nơi như trai đường, nhà hàng, hành lang, phòng khách, phòng hội nghị, trong xe, khi đi đường, v.v. thì không được lễ lạy. Nếu như muốn lễ lạy sư phụ, lễ lạy các bậc đạo cao đức trọng, nên thỉnh quý ngài đến trước tượng Phật rồi mới hành lễ, đây cũng là những phép tắc, quy củ của việc lễ lạy.