Tịnh độ của Bồ tát Di Lặc vốn ở tại cõi nhân gian.
4.1 - Ý nghĩa đầu tiên của Tịnh độ Di Lặc là mong cầu Ngài Di Lặc sớm hạ sinh, cũng là mong ước Tịnh độ nhân gian có thể mau chóng trở thành hiện thực.
Sau này, Bồ tát Di Lặc sẽ hạ sinh và tu hành thành Phật. Đây là vấn đề đã được đề cập rõ ràng trong kinh điển cũng như được cộng đồng Phật giáo công nhận. Di Lặc tiếng Phạn là “Maitreya”, người Trung Quốc dịch là “Từ”. Bởi vì Ngài có lòng từ bi, thương xót chúng sinh mà phát tâm tu hành nên lấy tên họ là Từ.
Mọi người đều biết Bồ tát Di Lặc ở cung trời Đâu Suất và có Tịnh độ Đâu Suất, nhưng ít ai biết cõi Tịnh độ của Bồ tát Di Lặc vốn ở ngay tại cõi nhân gian chúng ta. Trước khi thành Phật, Bồ tát Di Lặc ở trong nội viện Đâu Suất - một cõi trời thanh tịnh. Phật thuyết quán Di Lặc Bồ tát thượng sinh Đâu Suất đà Thiên kinh có trình bày rõ về vấn đề này: Người muốn được sinh về cõi Tịnh độ Đâu Suất phải phát tâm mong muốn được thân cận Bồ tát Di Lặc. Sau này có thể theo Ngài trở lại nhân gian, cùng đưa xã hội loài người trở thành một thế giới thanh tịnh. Đồng thời người ấy phải phát tâm mong có thể thành tựu tất cả các việc lành và đạt đến giải thoát, chứ không phải vì ưa thích đời sống ở cõi trời Đâu Suất hạnh phúc và an lạc mà muốn sinh về cõi Tịnh độ này.
Tư tưởng Tịnh độ của Bồ tát Di Lặc, ngay lúc ban sơ đã chú trọng thực hiện Tịnh độ ngay tại nhân gian, chứ không phải ở cõi trời, vấn đề này trong Di Lặc hạ sinh kinh có nói. Người Trung Quốc cũng đã năm lần tiến hành phiên dịch Di Lặc hạ sinh kinh. Kinh này nói rằng: Khi Ngài Di Lặc hạ sinh thì ở cõi nhân gian có Chuyển Luân Thánh Vương cai quản. Ngài thành Phật dưới tán cây Long Hoa, thuyết pháp ba hội, giáo hóa chúng sinh, để thực hiện việc xây dựng Tịnh độ tại nhân gian và thanh tịnh thân tâm. Do đó, việc tịnh hóa hai phương diện chân đế và tục đế, y báo và chính báo cùng lúc được thành tựu. Các tín đồ Phật tử đều mong ước cầu nguyện Bồ tát Di Lặc mau chóng hạ sinh, vì đó sẽ là thời đại mà nhân gian Tịnh độ trở thành hiện thực.
Tư tưởng “Tịnh độ nhân gian” của Bồ tát Di Lặc vốn xuất hiện trong A hàm kinh. Ban đầu bao gồm hai phương diện, nhưng người Phật tử sau này dường như chỉ chú trọng việc sinh lên Tịnh độ trên cung trời Đâu Suất mà lãng quên mất rằng, cõi Tịnh độ tại nhân gian sẽ được thực hiện khi Đức Di Lặc hạ sinh. Nét đặc trưng về Tịnh độ của Phật giáo nguyên thủy bị lãng quên, cho nên mới chỉ chú trọng vào việc phát triển Tịnh độ ở cõi trời và Tịnh độ ở các thế giới khác. Vì thế trong tác phẩm Phật học khái luận tôi đưa ra nhận định: “Việc xây dựng Tịnh độ ở cõi trời hay Tịnh độ ở các thế giới khác không bằng xây dựng Tịnh độ ngay ở cõi nhân gian này”.
Tóm lại, ý nghĩa trước nhất của Tịnh độ Di Lặc là mong cầu Ngài Di Lặc sớm hạ sinh, cũng là mong ước Tịnh độ nhân gian có thể mau chóng được trở thành hiện thực. Ngay cả việc phát nguyện sinh lên cung trời Đâu Suất, cũng chỉ vì để được cùng với Ngài Di Lặc trở lại thế giới này, cho nên trọng tâm cuối cùng vẫn là vì Tịnh độ nhân gian vậy.
4.2 - Sự liên quan giữa Bồ tát Di Lặc và ánh trăng: Những nỗi khổ niềm đau nơi đời ác năm trược này chỉ có lòng từ bi giống như ánh sáng được thắp lên trong đêm tối của Bồ tát Di Lặc mới cứu giúp được.
Ý nghĩa chân chính của Tịnh độ Di Lặc đang dần bị lãng quên, nhưng Tịnh độ nhân gian vẫn mãi là ước nguyện chung của tất cả mọi người và luôn sống trong trái tim tràn đầy nhiệt huyết của mỗi người con Phật. Từ trên sự phát triển này, trước tiên sẽ giải thích rõ mối liên hệ giữa Bồ tát Di Lặc và ánh trăng. Ánh trăng là ánh sáng trong đêm tối, không giống như ánh sáng của mặt trời. Có được một nguồn ánh sáng đem theo sự mát mẻ, trong lành là ước mơ của người đệ tử Phật.
Trong Di Lặc đại thành Phật kinh khen ngợi Bồ tát Di Lặc là: “Một người có công đức không ai sánh bằng, có ánh sáng của đại định”, tiếp đó lại ca tụng “Nam mô Mãn Nguyệt... Nhất Thiết Trí Nhân”. Đây là một minh chứng rõ ràng cho việc dùng ánh sáng trăng rằm làm biểu tượng cho hình ảnh Bồ tát Di Lặc. Trong Di Lặc Bồ tát sở vấn kinh cũng nhắc tới “Biến Chiếu Minh Tam muội, Phổ Quang Minh Tam muội, Phổ Biến Chiếu Tam muội, Bảo Nguyệt Tam muội, Nguyệt Đăng Tam muội”. Từ các dẫn chứng trên có thể chứng minh được mối liên hệ giữa Bồ tát Di Lặc và ánh sáng của mặt trăng.
Điều này thể hiện cho lòng từ bi cứu giúp của Bồ tát Di Lặc đối với thế giới đầy phiền não khổ đau này của chúng ta, cũng giống như là ánh sáng được thắp lên trong màn đêm tăm tối. Có lẽ vì vậy mà người đệ tử Phật đều mong muốn việc xây dựng cõi Tịnh độ nhân gian của Bồ tát Di Lặc mau chóng được thực hiện.
Như vậy tiếp theo có thể trình bày về Đồng tử Nguyệt Quang hay Bồ tát Đồng tử Nguyệt Quang. Bản dịch đầu tiên của Nguyệt Quang Đồng tử kinh là do Ngài Trúc Pháp Hộ phiên dịch. Theo kinh điển có ghi chép, Đồng tử Nguyệt Quang là con trai của trưởng giả Đức Hộ - người đã cố tình muốn hãm hại Đức Phật bằng cách bày ra hầm lửa và chuẩn bị thức ăn có độc. Tư tưởng của Đồng tử Nguyệt Quang (hay Bồ tát Nguyệt Quang) dung hòa với tư tưởng của Bồ tát Di Lặc, do đó xuất hiện truyền thuyết cho rằng khi Bồ tát Đồng tử Nguyệt Quang ra đời thì thiên hạ khắp nơi đều an lạc, thái bình.
Thân Nhật kinh (một bản dịch khác của Nguyệt Quang Đồng tử kinh) được dịch vào khoảng thời đại nhà Phù Tần hoặc Diêu Tần có đoạn ghi rõ: “Nguyệt Quang Đồng tử được sinh ở nước Tần, là một vị vua tài giỏi đức độ, Ngài quy y Tam Bảo, thực hành và truyền bá lời Phật dạy, khiến cho đất nước thanh bình, Phật pháp hưng thịnh”. Bản dịch Phật thuyết pháp diệt tận kinh thời Lưu Tống (không rõ tên người dịch) cũng có đoạn ghi rõ: “Sau này khi Bồ tát Nguyệt Quang ra đời, gặp được hàng Tam thừa, cùng nhau xiển dương Phật pháp hưng thịnh trong suốt 52 năm”.
Lời dự báo về Đồng tử Nguyệt Quang đó được truyền bá rộng rãi ở Trung Quốc. Như cuốn Xuất Tam tạng ký tập nghi ngụy lục của Ngài Tăng Hựu thời nhà Lương có tổng hợp các bản kinh như: Quán Nguyệt Quang Bồ tát ký, Phật bát ký, Di Lặc hạ giáo, v.v. Ngài Pháp Kinh thời Tùy trong cuốn Chúng kinh mục lục ghi thêm cuốn: Thủ La Tỳ kheo kiến Nguyệt Quang Bồ tát kinh, v.v. Trong các bản kinh này đều nói rõ, ngay lúc đất nước Trung Quốc rơi vào cảnh vô cùng hỗn loạn, rồi gặp hỏa hoạn lớn thì Đồng tử Nguyệt Quang ra đời, dạy mọi người đều thực hành Phật pháp mà thế giới được thái bình. Dù có thuyết cho rằng bộ kinh này không phải kinh điển của Phật giáo, nhưng nguồn gốc ban đầu của truyền thuyết này vốn xuất hiện trong các bản dịch từ hướng Ấn Độ truyền đến. Hơn nữa, điều này đã nói rõ, vì sao tư tưởng Tịnh độ nhân gian của Bồ tát Di Lặc có thể phát triển rộng rãi trong Phật giáo của Trung Quốc và khơi dậy một niềm khát khao mãnh liệt như thế.
Đến thời nhà Tùy, bản Đức Hộ trưởng giả kinh do Tỳ kheo Na Liên Đề Lê Da Xá dịch (một bản dịch khác của Nguyệt Quang Đồng tử kinh) cũng nói: “Vị Đồng tử này ở nước Đại Tùy thuộc cõi Diêm Phù Đề là bậc đại quốc vương”. Trong cảm nhận của hàng đệ tử Phật thì Tùy Văn Đế là một vị vua có thể thực hiện được Tịnh độ trong nhân gian, còn Dượng Đế thì hoàn toàn thất bại trong việc này. Bảo Vũ kinh do Ngài Bồ Đề Lưu Chí, thời nhà Đường dịch cũng có đoạn: “Này Nguyệt Quang... trong khoảng năm thứ 400 đến 500, khi chính pháp sắp bị hoại diệt, ông sẽ là Tự Tại Vương ở nước Ma Ha Chi Na thuộc phía Đông Bắc của Thiệm Bội châu”. Ở đây là ám chỉ cho vua Võ Tắc Thiên, nhưng cũng chưa thể phát triển một cách hoàn thiện.
Những tư tưởng như vậy vẫn luôn tồn tại trong tâm khảm của người đệ tử Phật ở Trung Quốc. Sau thời kỳ hưng thịnh của nhà Đường, tư tưởng này kết hợp với Mani giáo, thai nghén thành tư tưởng: “Minh Vương ra đời, thiên hạ thái bình” (thời bấy giờ Bản tôn của Mật tông cũng đều được gọi là Minh Vương). Đến cuối thời nhà Nguyên lại phát triển thành Bạch Liên giáo, một tổ chức bí mật và nổi tiếng trong lịch sử. Minh Vương trong trí tưởng tượng của họ cùng với tư tưởng xuất thế của Đồng tử Nguyệt Quang và Bồ tát Di Lặc gần như giống nhau. Vì thế Bạch Liên giáo cũng lấy sự việc, trong lúc thiên hạ loạn lạc thì Bồ tát Di Lặc sẽ ra đời để làm tiêu chí cho việc truyền bá.
Vì sao có tên gọi Bạch Liên giáo? Bởi vì lúc bấy giờ là thời nhà Tống, Bạch Liên xã niệm Phật được thành lập và phát triển vô cùng rộng rãi ở khắp mọi nơi, thu hút mọi tầng lớp người dân trong xã hội, trên từ tể tướng, dưới đến quần chúng nhân dân đều hưởng ứng tham gia. Tuy nhiên, nếu như mục tiêu hoạt động của Bạch Liên xã là niệm Phật Di Đà cầu sinh Tây phương, thì Bạch Liên giáo trên danh nghĩa cũng lấy tên là Bạch Liên, nhưng mục tiêu lại là mong cầu Đức Di Lặc ra đời để Tịnh độ nhân gian được thực hiện.
Tư tưởng của Phật giáo ngày càng suy yếu đi và không còn chiếm vị trí chủ chốt nữa. Bên cạnh đó, Phật giáo lại bị đồng hóa bởi tư tưởng của ngoại đạo, do một tổ chức bí mật tạo dựng nên ngày càng trở nên thần bí kỳ lạ. Trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật, ở tỉnh Quý Châu còn có một người họ Cung tự xưng mình là Đức Phật Di Lặc. Bởi vậy có thể nói, Tịnh độ nhân gian của Đức Phật Di Lặc có sức ảnh hưởng vô cùng lớn đối với người dân Trung Quốc. Tuy nhiên với một quốc gia có truyền thống Nho giáo như Trung Quốc, thì Phật giáo khó có thể thực hiện việc tịnh hóa một cách toàn diện, đặc biệt trong hệ thống chính trị. Cho nên tư tưởng Tịnh độ cũng không thể phát triển một cách dễ dàng, thuận lợi khi được đưa vào đời sống của đông đảo quần chúng nhân dân.
Đến thời nhà Minh, Chu Nguyên Chương từng xuất gia và gia nhập Bạch Liên giáo. Vị vua này khi đó chỉ vì gặp nạn mà nương náu ở chùa và xuất gia, nhưng lại không có sự hiểu biết đúng đắn về Phật pháp. Chính vì vậy, sau khi lên ngôi vua, nắm quyền lực chính trị lớn mạnh trong tay, Chu Nguyên Chương đã kết hợp với tư tưởng Nho giáo, đi ngược lại với ước nguyện trong sáng, cao thượng của quảng đại quần chúng nhân dân và dần dần xa rời tư tưởng Tịnh độ của Bồ tát Di Lặc. Bộ máy chính quyền mà Chu Nguyên Chương xây dựng có thể nói là một chế độ xã hội độc tài và phong kiến hơn bất kỳ một hệ thống chính quyền nào trong lịch sử.
4.3 - Quên đi Tịnh độ nhân gian, chỉ còn cầu sinh về Tịnh độ Đâu Suất, cho rằng “cầu sinh về Đâu Suất dễ hơn về Tây phương” là lời dạy có phần thiếu sót và không thiết thực.
Tư tưởng Đồng tử Nguyệt Quang ra đời và Bồ tát Di Lặc hạ sinh trải qua hơn ngàn năm tồn tại, phát triển, đã cổ vũ và khích lệ mong ước xây dựng cõi Tịnh độ tại nhân gian của người dân Trung Quốc. Tuy nhiên, do gặp phải những trở ngại từ nền văn hóa bản địa nên điều đó vẫn chưa thể thực hiện. Vì vậy, nói tới cõi Tịnh độ của Bồ tát Di Lặc thì nhất định phải hiểu rõ, một trong những điểm đặc trưng của Tịnh độ này là thực hiện ngay tại cõi nhân gian. Có người đã quên đi nét đặc sắc đó, mà chỉ còn nhớ tới tư tưởng cầu sinh về Tịnh độ Đâu Suất, lại cho rằng “cầu sinh về Đâu Suất dễ dàng hơn là cầu sinh về Tịnh độ Tây phương”. Đây quả là nhận định có phần thiếu sót và không thiết thực.