5.1 - Đức Phật A Di Đà
Lý do trong các bộ kinh điển Đức Thích Ca đều dành những lời ngợi khen cho Đức Phật Di Đà.
Người xưa từng nói: “Trong các bộ kinh điển Đức Thích Ca đều dành những lời ngợi khen cho Đức Phật Di Đà”, điều này hoàn toàn chính xác. Trong kinh điển Đại thừa đề cập rất nhiều đến các cõi Tịnh độ trong mười phương, nhưng thường đặc biệt chú trọng về cõi Tịnh độ Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà ở phương Tây. Có thể nói cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà bao trùm hết thảy tư tưởng Tịnh độ của Phật giáo Đại thừa. Phật giáo Trung Quốc cũng đặc biệt chú trọng hoằng dương Tịnh độ Tây phương, việc này không phải không có lý do.
Theo quan điểm của Phật giáo, Phật pháp vốn bình đẳng, phúc đức, trí tuệ, lòng đại bi, đại nguyện mà hết thảy chư Phật chứng ngộ đều bình đẳng. Bởi vậy khi nói Đức Phật A Di Đà lập 48 nguyện lớn, hoặc Đức Phật A Di Đà đặc biệt có nhân duyên với thế giới này, đây đều là dùng phương tiện mà nói. Như vậy, vì sao trong vô lượng các cõi Tịnh độ và trong vô biên các Đức Phật Thế Tôn, cũng như trong các kinh điển Đại thừa lại đặc biệt khen ngợi, tán thán cõi Tịnh độ Tây phương cùng Đức Phật Di Đà? Vấn đề này rất đáng để chúng ta nghiên cứu tìm hiểu.
5.1.1 - A Di Đà - Vô Lượng: Từ cách gọi chung của tất cả vô lượng vô số Đức Phật mà trở thành chuyên chỉ cho Đức Phật A Di Đà ở cõi Tây phương
“A Di Đà” tiếng Phạn là Amiti, dịch là Vô Lượng. Hàm ý trong danh từ A Di Đà Phật (Vô Lượng Phật) có ý nghĩa chung và ý nghĩa đặc biệt. Ý nghĩa chung là chỉ cho tất cả các Đức Phật, vô lượng vô số chư Phật. Trong việc truyền bá Phật pháp thì ý nghĩa đặc thù của từ Vô Lượng Phật đã có sự thay đổi. Vô Lượng Phật trở thành người đưa đường dẫn lối và ở đây là chỉ cho Đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc phương Tây.
Hai ý nghĩa chung và riêng này tuy không có văn bản để xác minh rõ ràng, nhưng vẫn có thể dễ dàng nhận biết. Chúng ta có thể lấy hai bộ kinh sau đây để chứng minh làm rõ.
Một là Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh, bộ kinh này chủ yếu giúp quán tưởng và làm sáng tỏ y báo, chính báo trang nghiêm ở thế giới Cực Lạc phương Tây. Pháp quán thứ chín là quán sát tướng đẹp nơi sắc thân của Đức Phật A Di Đà. Khi quán tưởng thành công, trong kinh này có nói: “Người thấy rõ việc này cũng là thấy được mười phương chư Phật. Thực hành pháp quán này gọi là quán tưởng thân tướng của tất cả các Đức Phật”. Ý nói rằng thấy được Đức Phật A Di Đà là thấy được tất cả chư Phật trong mười phương, quán tưởng Đức Phật A Di Đà cũng là quán tưởng các Đức Phật trong khắp mười phương vậy.
Hai là Ban chu Tam muội kinh, đây cũng là bộ kinh với nội dung chủ yếu trình bày về pháp môn niệm Phật Tam muội, quán tưởng về Đức Phật A Di Đà. Bộ kinh này còn có một tên khác là Thập phương hiện tại Phật tất tại tiền lập Định kinh. Trong kinh có nói rõ, khi tu tập pháp quán tưởng này mà thành tựu thì “trong phút giây hiện tại thấy được tất cả các Đức Phật ở ngay trước mắt”. Chỉ chuyên tâm quán tưởng Đức Phật A Di Đà là có thể thấy được tất cả các Đức Phật trong phút giây hiện tại. Điều này cùng với tinh thần “người nào thấy Đức Phật Di Đà, cũng là thấy được mười phương các Đức Phật” mà Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh trình bày là hoàn toàn thống nhất với nhau. Do đó có thể nhận thấy quán tưởng Đức Phật A Di Đà - Vô Lượng Phật, cũng chính là quán tưởng tất cả các Đức Phật. Tuy chỉ chú trọng một danh hiệu của Đức Phật A Di Đà, nhưng với ý nghĩa chung về tất cả chư Phật thì không hề mất đi, mà vẫn tròn đầy nguyên vẹn.
Trong tất cả các Đức Phật, thì Đức Phật A Di Đà luôn có được sự vượt trội về tên gọi. Điều này trong ý nghĩa: “Tất cả là một, một là tất cả” của Phật pháp Đại thừa rất dễ dàng thấu hiểu và tiếp nhận. Còn việc Đức Phật A Di Đà được đông đảo quần chúng hết mực ngợi khen và truyền bá, đây mới là nguyên do cốt tủy, trọng yếu.
5.1.2 - Vô Lượng Quang: Trong quá trình ứng cơ của Đại thừa, tư tưởng sùng bái mặt trời cũng tùy theo phương tiện mà được tiếp thu và đưa vào hình ảnh Đức Phật A Di Đà (Vô Lượng).
Trong tiếng Phạn phía sau từ “Amiti” có thêm chữ “ābha-amitābha”, theo ý nghĩa mà dịch thành Vô Lượng Quang. Vô Lượng Quang là một tên gọi khác của Đức Phật A Di Đà. Khi nghiên cứu một cách chi tiết, chúng ta sẽ phát hiện ra mối quan hệ sâu sắc giữa Đức Phật A Di Đà với ánh sáng mặt trời. Bà la môn giáo ở Ấn Độ lấy ánh mặt trời làm đối tượng mà họ sùng bái, thờ phụng. Tuy rằng Phật giáo vốn không có học thuyết này, nhưng trong quá trình phát triển để phù hợp với căn cơ của đông đảo quần chúng Phật giáo Đại thừa, thì tư tưởng sùng bái mặt trời cũng tùy theo phương tiện mà được tiếp thu và đưa vào hình ảnh Đức Phật A Di Đà.
Từ đâu mà chúng ta có thể khẳng định như vậy?
Thứ nhất, trong Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh, phương pháp quán đầu tiên là quán mặt trời lặn, sau đó mới lần lượt quán tưởng đến ao nước, đất đai, vườn cây, nhà cửa rồi quán tưởng Đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Âm, Bồ tát Đại Thế Chí, v.v. Ở đây đã lấy cảnh tượng mặt trời lặn làm căn bản của Mạn đà la. Y báo và chính báo của Đức Phật A Di Đà nhờ quán tưởng ánh mặt trời mà được hiển bày. “Ánh tà dương đẹp biết bao nhưng lại báo hiệu lúc ngày sắp tàn, là khi hoàng hôn đang dần buông xuống”, đó là cách nhìn nhận của người dân Trung Quốc. Ở Ấn Độ lại khác, hình ảnh mặt trời lặn được cho là sự quy tụ, là chốn trở về của ánh sáng. Ánh mặt trời xuống núi không phải là không còn nữa, mà chính là tất cả ánh sáng đang hội tụ và ẩn mình. Để rồi ánh bình minh của ngày mai có thể ló rạng ở phương Đông, chính là nhờ xuất phát từ cội nguồn nơi đây mới có thể hiển hiện. Trong Phật pháp, Niết bàn được cho là Không tịch (trống vắng), là Tịch diệt (rỗng không) và Bản vô sinh (vốn không sinh). Nhưng ở nơi trống vắng, rỗng không và không sinh ấy lại tạo ra biết bao nhiêu công dụng vi diệu. Phật pháp lấy Tịch diệt làm tính sẵn có, hình tượng mặt trời lặn cũng vậy, là nơi hội tụ và chứa đựng ánh sáng, cũng là nơi tất cả các nguồn ánh sáng trở về quy tụ đến vô cùng vô tận.
Thứ hai, trong Vô Lượng Thọ Phật kinh (tức là Đại A Di Đà kinh) có đoạn: “Khi cung kính đỉnh lễ Đức Phật A Di Đà nên hướng về phía mặt trời lặn”. Bởi vậy Đức Phật A Di Đà không những để chỉ cho phía Tây, mà còn đặc biệt chú trọng hình ảnh mặt trời lặn ở phương Tây. Nói rõ hơn, đây chính là đã tịnh hóa sự tôn sùng ánh mặt trời và tiếp nhận tư tưởng này. Do vậy trong tất cả vô lượng chư Phật lại đưa ra danh hiệu của Đức Phật với ánh sáng vô cùng, vô tận (Phật Vô Lượng Quang).
5.1.3 - Vô Lượng Thọ: Là điểm chung của tất cả chư
Phật, cũng là một tên gọi khác của Đức Phật A Di Đà.
Nếu trong tiếng Phạn, phía sau từ “Amiti” có thêm chữ “āyus-amitāyus”, thì dịch nghĩa là Vô Lượng Thọ, đây cũng là một tên gọi khác của Đức Phật A Di Đà. Trong kinh điển Đại thừa có nói: “Chư Phật thường ở nơi Niết bàn, Phật nhập Niết bàn rồi không phải là thân tâm không còn gì nữa, mà giống như ý nghĩa của hình tượng ánh mặt trời ẩn mình nơi ngọn núi phía Tây”. Bởi vậy tuổi thọ của Đức Phật là vô lượng vô biên. Sự thường trụ và tuổi thọ vô lượng của Đức Phật A Di Đà, cũng chính là điểm chung của tất cả Đức Phật.
5.1.4 - Vô Lượng là nói tới ánh sáng vô cùng, tuổi thọ vô tận. Nếu chỉ chú trọng vào những thứ như cát vàng, bảy báu ở thế giới Cực Lạc thì đó chỉ là những chi tiết quá tầm thường.
Nói tóm lại, sự vô lượng của Đức Phật A Di Đà là nền tảng căn bản, trong Ban chu Tam muội kinh cũng chỉ rõ điều này. Nói về Vô Lượng Quang giống như A Di Đa Bà Da trong Cổ âm thanh vương Đà la ni kinh; nói về Vô Lượng Thọ theo Vô Lượng Thọ Phật kinh.
Ánh sáng luôn chiếu khắp mười phương, cũng giống như trí tuệ của Đức Phật viên mãn tròn đầy, thấy biết và thấu triệt tất cả. Trong các kinh điển Đại thừa, trước khi Đức Như Lai giảng pháp sẽ phóng ánh hào quang. Điều này tượng trưng cho sự thông suốt cùng khắp của ánh sáng trí tuệ (tôn giáo của các nước như Iran, Ấn Độ đều vô cùng sùng bái ánh sáng của ngọn lửa. Họ cho rằng ngọn lửa là nguồn gốc tiếp nối của sự sống). Ánh sáng đối với mọi người thường tượng trưng cho niềm vui, hạnh phúc và tự do. Ánh sáng trí tuệ của Phật pháp chính là bao gồm tất cả những niềm an lạc tự tại với sự trang nghiêm thanh tịnh của phúc đức trí tuệ. Trong đời sống, mọi người luôn mong ước có một tương lai tươi sáng, tràn ngập niềm hạnh phúc, an vui và tự tại, an ủi và vỗ về, đây cũng là mong ước chung của toàn thể nhân loại.
Trong tên gọi Vô Lượng Thọ, chữ “Thọ” là chỉ cho sự tiếp diễn của một đời sống. Con người nói riêng và muôn loài nói chung luôn luôn có khát vọng, có ước mong về một đời sống trường tồn vĩnh cửu. Do vậy, Gia Tô giáo dạy tín đồ nên nương tựa vào Thượng đế để được sống mãi, Đạo giáo lại dạy mọi người nên cầu trường sinh bất lão. Ai ai cũng đều ước mong về một đời sống vĩnh hằng, đây cũng là chủ chương rất đặc sắc về một cái ta chân thật, vĩnh cửu của một số tôn giáo khác. Khát khao được tồn tại mãi mãi trong ý thức của nhân loại, bất luận đúng hay sai, nhưng chắc chắn đây là niềm mơ ước chung của tất cả mọi loài. Điều này được Phật giáo Đại thừa tiếp thu và thể hiện ở tư tưởng chư Phật không nhập Niết bàn. Không nhập Niết bàn tức là thường trụ trong đời, bất sinh bất diệt, cũng hoàn toàn thích ứng với mong ước về một đời sống vĩnh cửu của toàn nhân loại.
Ánh sáng của chư Phật chiếu tỏ khắp mười phương, tuổi thọ của chư Phật bao trùm hết thảy ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Ánh sáng vô cùng và tuổi thọ vô tận ấy, có thể tiêu biểu cho đức hạnh chung của tất cả các Đức Phật, lại phù hợp với mong ước về một tương lai mãi tươi sáng và một đời sống trường tồn vĩnh cửu của tất cả chúng sinh. Bởi vậy, Đức Phật A Di Đà không chỉ giống như các Đức Phật khác về tư tưởng: “Tất cả là một, một là tất cả”, mà với ánh sáng vô biên và tuổi thọ vô cùng, Ngài đã trở thành một Đức Phật nhận được sự tôn thờ kính ngưỡng nhất của toàn nhân loại. Đức Đại Nhật Như Lai của Mật tông trong thời kỳ sau này, cũng được hình thành từ hình tượng ánh sáng của mặt trời chiếu soi khắp muôn nơi (mặt trời đối với nhân loại là chỉ cho một thứ ánh sáng vĩnh hằng, không bao giờ tắt).
Người tu hành Tịnh độ ngày nay thường hay chú trọng vào những hình ảnh như cát bằng vàng trải khắp mặt đất, rồi mọi thứ đều được xây dựng, hình thành từ bảy báu ở cõi Tịnh độ. Nhưng trong tư tưởng của Tịnh độ Di Đà thì những thứ đó rõ ràng chỉ là những chi tiết quá bình thường mà cõi Phật nào cũng có.
5.1.5 - A Di Đà, sau này lại dung hòa cùng với A Di Lợi Đô (cam lộ, thuốc bất tử).
Sự rộng lớn bao la với ánh sáng vô cùng và tuổi thọ vô tận mới là những ý nghĩa quan trọng chủ yếu của Đức Phật A Di Đà. Tuy nhiên trong quá trình truyền bá lại được dung hòa cùng với A Di Lợi Đô. A Di Lợi Đô được nhắc đến trong Bạt nhất thiết nghiệp chướng đắc sinh Tịnh độ Đà la ni (gọi tắt là chú Vãng sinh). “A Di Lợi Đô” tiếng Phạn là “Amrta”, dịch âm là A Mật Lật Đa (chính là loại “thuốc bất tử” được nhắc đến trong truyền thuyết của người Ấn Độ, người Trung Quốc gọi là Tiên đan), dịch nghĩa là Cam lộ. Trong Phật pháp dùng để thí dụ cho Niết bàn thường trụ, do đó có các danh từ như: Cam lộ vị, Cam lộ môn, Cam lộ đạo, Cam lộ giới, Cam lộ vũ v.v. Âm điệu của từ A Di Lợi Đô gần giống với A Di Đà, ý nghĩa cũng biểu thị cõi Niết bàn vĩnh cửu giống như ý nghĩa của A Di Đà, cho nên đến Mật tông thì lại gọi là A Di Lợi Đô.
5.2 - Đức Phật A Di Đà và Đức Phật A Súc
Hai cõi Tịnh độ lớn ở phía Đông và phía Tây, nói rõ con đường tu Bồ tát đạo một cách trọn vẹn từ lúc Bồ tát mới phát tâm cho đến khi thành Phật đạo.
5.2.1 - Trình bày riêng biệt
Muốn hiểu được sự vĩ đại của Đức Phật A Di Đà, nên bắt đầu từ việc so sánh để có thể chứng minh một cách rõ ràng. Trước tiên chúng ta sẽ bàn về mối quan hệ giữa Đức Phật A Di Đà và Đức Phật A Súc. Trong các cõi Tịnh độ ở mười phương, có hai nơi vừa xuất hiện từ lâu đời, lại vừa quan trọng: Thứ nhất là thế giới Diệu Hỷ ở phương Đông (còn gọi là nước Diệu Lạc), ở đó có Đức Phật A Súc (nghĩa là Bất Động); Thứ hai là thế giới Cực Lạc ở phương Tây, có Đức Phật A Di Đà.
a. Tịnh độ của Đức Phật A Súc cùng với các kinh như Bát nhã kinh, v.v. có mối liên hệ với nhau, đều chú trọng sự tu hành phát nguyện rộng lớn của các vị Bồ tát với trí tuệ chân thật mà thực chứng Chân như Niết bàn.
Tịnh độ của Đức Phật A Súc có liên quan mật thiết với các bộ kinh như: Đại Bát nhã kinh, Duy Ma Cật kinh, v.v. thường chú trọng sự tu hành, phát nguyện rộng lớn của các vị Bồ tát, với trí tuệ chân thật mà thực chứng Chân như Niết bàn. Cuối thời nhà Hán mới có bản dịch của A Súc Phật quốc kinh, trong đó có trình bày: “Thế giới mà Đức Phật này dùng hạnh nguyện rộng lớn vô biên để thành tựu, vô cùng trang nghiêm thanh tịnh. Sau khi Đức Phật A Súc nhập Niết bàn, thì Bồ tát Hương Tượng tu hành thành Phật và tiếp nối giáo hóa chúng sinh ở đó”. Bát nhã kinh chú trọng vào trí tuệ rộng lớn của Bồ tát, vì vậy mà khi nói tới cõi Tịnh độ của Đức Phật ở phương khác, thường là nhắc tới Đức Phật A Súc và Bồ tát Hương Tượng ở phương Đông. Ngài A Nan và tất cả các vị Thánh đệ tử nương vào năng lực của Đức Như Lai mà nhìn thấy cõi Tịnh độ của Đức Phật A Súc. Duy Ma Cật kinh đề cao hạnh nguyện rộng lớn của Bồ tát và trang nghiêm các cõi Phật.
Phẩm Kiến A Súc Phật quốc trong Duy Ma kinh nói tới việc Ngài Duy Ma Cật đời trước chính là từ cõi Tịnh độ của Phật A Súc mà phát nguyện sinh xuống thế gian này. Lúc đó mọi người trong đạo tràng cũng nhờ năng lực của Ngài Duy Ma mà được thấy cõi Tịnh độ của Phật A Súc. Đây là cõi Phật Tịnh độ lâu đời và điển hình của Phật giáo Đại thừa trong thời kỳ đầu phát triển ở phía Đông Ấn Độ. Các bộ kinh có đề cập đến việc vãng sinh về Tịnh độ của Phật A Súc còn rất nhiều, nhưng không được truyền bá rộng rãi như các kinh nói về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.
Muốn sinh về Tịnh độ của Phật A Súc tuy không chú trọng vào việc niệm danh hiệu Phật, nhưng lại cần chú trọng vào việc thể hội và chứng ngộ Pháp thân Không tịch, vắng lặng bằng trí tuệ chân thật. Như trong Duy Ma kinh có chỉ dạy về việc quán Phật: “Quán tướng chân thật nơi thân mình và quán tưởng các Đức Phật cũng vậy”. Trong A Súc Phật quốc kinh cũng dạy: “Quán tưởng Đức Phật A Súc và chúng đệ tử ở cõi Tịnh độ này giống như khi chúng ta nhìn lên hư không vậy, tất cả các pháp như hư không”. Như vậy, tất cả là pháp tính, là pháp thân, điều này tương hợp với tư tưởng Bát nhã. Phật giáo Đại thừa thịnh hành ở Trung Quốc, chú trọng pháp môn niệm Phật để vãng sinh Tịnh độ, nhưng về phương diện này thì chúng ta lại có phần sơ suất, thiếu chú trọng.
b. Đức Phật A Di Đà có liên quan với phẩm Nhập pháp giới trong Hoa nghiêm kinh, bắt đầu từ việc quán giả tướng.
Có thể nói Đức Phật A Di Đà có liên quan với phẩm Nhập pháp giới trong Hoa nghiêm kinh. Bồ tát Phổ Hiền chỉ bày phương pháp trở về Cực Lạc, thông qua mười lời nguyện lớn ở phần cuối phẩm Nhập pháp giới. Dù phẩm này được phiên dịch rất muộn, nhưng tư tưởng đó đã xuất hiện rất sớm từ trước. Như Văn Thù Sư Lợi phát nguyện kinh do Ngài Phật Đà Bạt Đà La dịch chính là bài tụng trong phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện. Ngoài ra, các bản kinh như: Văn Thù Sư Lợi hối quá kinh, Tam mạn đà Bạt đà la (Phổ Hiền) Bồ tát kinh được dịch vào thời Đông Tấn cũng có ý nghĩa tương tự với phẩm Hạnh nguyện, đó là vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Lại như trong Văn sám hối, xưng tán Đức Phật A Di Đà là Pháp giới Tạng thân A Di Đà Phật. Hay ở phần giới thiệu về các vị Bồ tát trong Vô Lượng Thọ Phật kinh, cũng có nói các vị này đều thực hành đầy đủ hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền. Qua đó có thể thấy rõ mối quan hệ của Đức Phật A Di Đà với phẩm Nhập pháp giới và phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện trong Hoa nghiêm kinh.
Trong phẩm Nhập pháp giới của Hoa nghiêm kinh, vị thiện tri thức đầu tiên mà Thiện Tài Đồng tử cầu đạo, trong hành trình 53 lần đi tham vấn đã dạy Ngài về pháp môn niệm Phật. Các đối tượng để quán tưởng trong pháp môn niệm Phật như quán đất nước, danh hiệu, tướng hảo, đản sinh, thuyết pháp, v.v. của Đức Phật, là bắt đầu từ việc quán giả tướng. Điều này so với việc chú trọng vào pháp “quán chân không” và pháp “quán thấy tất cả các pháp như thấy Đức Như Lai” trong Bát nhã kinh hay A Súc Phật quốc kinh, có thể nhận thấy phương pháp tu hành ít nhiều có sự khác biệt. Trong Hoa nghiêm kinh, việc nói đầy đủ về các pháp hữu vi có mối tương quan sâu sắc với tư tưởng Tịnh độ Cực Lạc và tư tưởng của Mật tông về sau này.
Duy Ma Cật kinh có một tên khác là Bất khả tư nghị giải thoát kinh. Phẩm Nhập pháp giới cũng có một tên khác là Đại bất khả tư nghị giải thoát kinh. Đây cũng là những điều rất có ý nghĩa để chúng ta quan tâm nghiên cứu.
5.2.2 - Trình bày tổng hợp
Tổng hợp lại để trình bày thì Nguyệt Minh Đồng tử kinh có kể về việc Bồ tát Nguyệt Minh ban đầu phát tâm tu hành, cầu sinh về Tịnh độ của Phật A Súc, rồi từ Tịnh độ A Súc lại cầu sinh về Cực Lạc của Phật A Di Đà. Ngoài ra Quyết định Tổng trì kinh còn trình bày việc vua Nguyệt Thi cúng dường Bồ tát Biện Tích ở kiếp trước. Vị Bồ tát này chính là tiền thân của Đức Phật A Súc ở thế giới phương Đông, còn vua Nguyệt Thi chính là Đức Phật A Di Đà ở phương Tây.
Theo hai bộ kinh này thì Đức Phật A Súc tu hành trước Đức Phật A Di Dà. Tuy nhiên trong Hiền kiếp kinh lại có đoạn nói: “Vua Vô Ưu Duyệt Âm cúng dường và hộ trì cho Pháp sư Vô Hạn Lượng Bảo Âm. Pháp sư chính là tiền thân của Đức Phật A Di Đà, còn nhà vua là Phật A Súc, một ngàn người con của nhà vua là một ngàn vị Phật ở Hiền kiếp (kiếp hiện tại). Đây là giai đoạn trước khi một ngàn vị thành Phật ở Hiền kiếp. Do vậy rõ ràng là Đức Phật A Di Đà tu hành và thành Phật trước Đức Phật A Súc.
a. Tịnh độ Di Đà là quốc độ với sự cứu cánh viên mãn của quả vị Phật; Tịnh độ A Súc là từ sự phát tâm của Bồ tát đến chứng được Vô sinh pháp nhẫn.
Hai cõi Tịnh độ ở phương Đông và phương Tây này tuy những biểu hiện bên ngoài có phần không giống nhau. Nhưng từ tổng thể Phật giáo thì A Súc dịch là Bất Động, thể hiện lòng từ bi trọn vẹn, không có chút phiền muộn, luôn sống với tâm Bồ đề, nương vào trí tuệ Bát nhã mà chứng ngộ lý Chân như, đây là chú trọng ở sự phát tâm và chứng ngộ trí tuệ.
A Di Đà dịch là Vô Lượng, nhờ hạnh nguyện lớn lao vô lượng của Bồ tát, như mười hạnh nguyện lớn mà Hoa nghiêm kinh trình bày, để trang nghiêm công đức Phật quả, tất cả đều kỳ diệu vô cùng. Vô Lượng, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang là chú trọng công đức tu hành của Đức Phật. Bởi vậy, Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà là quốc độ với sự cứu cánh viên mãn của quả vị Phật. Tịnh độ của Đức Phật A Súc là từ sự phát tâm của Bồ tát đến chứng được Vô sinh pháp nhẫn.
Hai vị Phật ở hai cõi Tịnh độ, một vị ở phương Đông, một vị ở phương Tây. Sự tu hành của Bồ tát bước ban sơ là chứng ngộ thật tính của các pháp, liền phát tâm Bồ đề, từ đó nỗ lực tu hành cho đến khi thành Phật đạo, cũng giống như mặt trời từ phương Đông trở về phương Tây. Cõi Tịnh độ của Đức Phật A Súc chú trọng ở chỗ thấy đạo và chứng ngộ pháp tính như như. Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà lại chú trọng tới công đức tu hành của Đức Phật, như ánh sáng vô cùng và tuổi thọ vô tận. Về Mật tông, thì Đức Phật A Súc ở phương Đông thuộc Kim Cang bộ, kim cang cũng có nghĩa là kiên cố bất động; còn Đức Phật A Di Đà ở phương Tây thuộc Liên Hoa bộ, cũng có nghĩa là Phật quả trang nghiêm.
Do đó, hai cõi Tịnh độ một ở phương Đông và một phương Tây này đã thể hiện rõ ràng hành trình trọn vẹn tìm về đạo Bồ Đề, chính là từ những bước phát tâm chập chững ban sơ cho đến khi viên mãn thành Phật. Cũng có thể nói rằng, dựa trên trí tuệ Di Đà sẵn có mà khơi dậy tính giác A Súc thanh tịnh từ vô thủy nơi mỗi chúng sinh (trước Di Đà sau A Súc).
b. Vô lượng công đức tu hành của các Đức Như Lai nhất định phải từ sự bất động kiên cố và trí tuệ giác ngộ chân thật của Bồ tát, mới có thể thành tựu được.
Nhưng người tu pháp môn Tịnh độ ngày nay lại bỏ quên Đức Phật A Súc mà chỉ chú trọng vãng sinh phương Tây. Không biết rằng, vô lượng công đức tu hành của các Đức Như Lai nhất định phải từ sự bất động kiên cố và trí tuệ giác ngộ chân thật của Bồ tát mới có thể thành tựu được; Chỉ có “tu vô sở đắc” mới có thể “chứng vô sở ngại”. Bỏ qua sự thấu triệt bản tính sẵn có nơi các pháp thì không thể thành tựu tất cả các công đức tu hành. Do đó, hành giả tu Tịnh độ chú trọng về Tịnh độ phương Tây, nhất định cũng phải chú trọng nương vào nơi công đức tu hành mà sinh khởi niềm tin. Nếu không hiểu được ý nghĩa chân thật của Phật pháp, hành giả tu tập sẽ dễ mắc phải nhận thức sai lầm mà đồng hóa Phật giáo giống với các Thần giáo thông thường, chỉ chú trọng về tín ngưỡng.
Trong sự phát triển toàn diện của Phật giáo Đại thừa, với một chương trình tu học hoàn chỉnh của các hành giả Đại thừa, thì sự chứng ngộ thấu triệt trí tuệ sẵn có và viên mãn nhận thức về sự tướng của các pháp, nhất định cần phải luôn luôn song hành. Phật giáo ở Ấn Độ thì có khuynh hướng thiên lệch một cách dần dần, còn Phật giáo Trung Quốc thì xưa nay luôn luôn bị nghiêng về một phía, nếu không xem nhẹ cái này thì lại xem nhẹ cái khác. Như người tu thiền không coi trọng việc tu theo thứ lớp dần dần nâng cao (tiệm tu), do vậy Tam tạng kinh điển đều trở thành đồ bỏ. Người tu Tịnh độ thì chỉ chú trọng tán dương công đức tu hành, ít mong muốn cùng tu cả phúc lẫn tuệ, chẳng cầu lợi ích cho cả mình và người mà chỉ mong rời xa thế gian này để sinh về Tịnh độ. Đức Phật A Di Đà và cõi Tịnh độ của Ngài hầu hết mọi người đều biết đến, còn Tịnh độ của Đức Phật A Súc ở phương Đông thì dường như chẳng ai hay, nếu có nghe danh hay thấy tên có lẽ cũng ít ai biết đến. Đây rõ ràng là sự tổn thất vô cùng to lớn đối với tư tưởng Tịnh độ vậy.
c. Đức Phật Di Đà và Bồ tát Di Lặc
Người học Phật nên mong cầu sự giác ngộ viên mãn tròn đầy của Phật quả. Nhưng việc thanh tịnh thế gian này trong thời điểm hiện tại cũng thật sự là việc làm vô cùng cần thiết.
Đức Phật A Di Đà cũng có cõi Tịnh độ, Bồ tát Di Lặc cũng có cõi Tịnh độ, vậy chúng ta sẽ từ mối quan hệ giữa hai cõi Tịnh độ này mà trình bày. Phần trên có bàn luận về mối quan hệ giữa Bồ tát Di Lặc với mặt trăng và mối quan hệ giữa Đức Phật A Di Đà với mặt trời. Ánh sáng của mặt trăng và mặt trời không giống nhau. Đức Phật A Di Đà như ánh sáng mặt trời, cũng là nguồn ánh sáng tròn đầy vĩnh cửu bất tận. Bồ tát Di Lặc như ánh sáng mặt trăng, ánh trăng là để biểu thị cho Bồ tát Di Lặc phát nguyện vào nơi tối tăm u ám, hóa độ và cứu giúp chúng sinh.
Tịnh độ phương Tây đại diện cho Phật quả trang nghiêm thanh tịnh tròn đầy. Bồ tát Di Lặc đại diện cho một cõi Tịnh độ lý tưởng được xây dựng ở ngay nơi thế gian đầy phiền não khổ đau. Cũng có thể nói, Tịnh độ phương Tây là cõi Tịnh độ ở phương khác, nên rất dễ bị hiểu nhầm là trốn tránh thực tại, còn Tịnh độ của Bồ tát Di Lặc thì được xây dựng ở ngay nơi thế giới nhiễm ô này.
Đức Phật A Di Đà là một vị Phật tiêu biểu nhất trong tất cả các Đức Phật ở mười phương. Bồ tát Di Lặc cũng vậy, dù không phải là đặc trưng của hết thảy các Đức Phật trong mười phương thế giới, nhưng Bồ tát Di Lặc lại tạo nên nét đặc trưng riêng cho tất cả chư Phật ở tại thế giới này của chúng ta.
Thế giới của chúng ta, hiện tại đang thuộc Hiền kiếp, trong Hiền kiếp này sẽ có một ngàn vị Phật ra đời. Trong Chính Pháp hoa kinh Đức Phật có dạy: “Nếu khi người lâm chung được thấy một ngàn vị Phật, thì người đó sẽ không rơi vào đường ác, sau khi mất sẽ sinh lên cung trời Đâu Suất”. Khi lâm chung được thấy một ngàn Đức Phật, một ngàn Đức Phật này chính là một ngàn vị Phật ở Hiền kiếp, sinh về cõi trời Đâu Suất tức là vãng sinh về Tịnh độ của Bồ tát Di Lặc. Theo các bản kinh như: Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh, v.v. người tu pháp quán tưởng Đức Phật A Di Đà, có thể thấy các Đức Phật hiện tại ở mười phương đồng sinh về thế giới Cực Lạc. Còn một ngàn Đức Phật thời Hiền kiếp ở thế giới này, kiến lập Tịnh độ cũng tương đồng với Tịnh độ Đâu Suất. Một ngàn Đức Phật ở Hiền kiếp mỗi vị cũng đều bình đẳng với nhau. Thấy được một ngàn Đức Phật sinh lên cung trời Đâu Suất, cũng giống như thấy được tất cả các Đức Phật ở hiện tại sinh lên cõi Cực Lạc, so sánh như vậy sẽ dễ dàng hiểu rõ.
Nói về phương diện viên mãn tròn đầy của công đức Phật quả thì Tịnh độ Di Lặc không được như Tịnh độ Di Đà. Còn về việc thích hợp với thế giới hiện tại thì thực tế đời sống xã hội của nhân loại ở trong Hiền kiếp đều mong ước những nỗi khổ niềm đau được chuyển hóa. Do đó sự ra đời của Đồng tử Nguyệt Quang và Tịnh độ Di Lặc sẽ phù hợp với đời sống hiện thực hơn. Người học Phật chúng ta ắt hẳn là phải mong cầu sự giác ngộ viên mãn tròn đầy của Phật quả. Nhưng việc thanh tịnh thế gian trong thời điểm hiện tại cũng thật sự là việc làm vô cùng cần thiết. Ở điểm này thì niềm tin và hạnh nguyện của Bồ tát Di Lặc có ý nghĩa vô cùng đặc biệt.
d. Đức Phật A Di Đà và Đức Phật Dược Sư
∗ Khi đưa ra thảo luận chung với Tịnh độ Dược Sư, Tịnh độ Di Đà bị hiểu nhầm là “chờ chết” và “chạy trốn”.
Tiếp theo chúng ta lại cùng thảo luận về Đức Phật Di Đà và Đức Phật Dược Sư. Về việc Đức Phật Dược Sư có mối tương quan với Mật thừa, trước tiên chúng ta cần tìm hiểu Quán đỉnh thần chú kinh của Mật thừa. Qua ý nghĩa tên gọi của Đức Phật Dược Sư đã thể hiện, Đức Phật là bậc Đại Y Vương cứu giúp các bệnh khổ của thế gian. Sau này Dược Sư kinh được dịch ra, nếu như Đức Phật A Di Đà có 48 lời nguyện, thì Đức Dược Sư Như Lai cũng có 12 nguyện lớn, lại có các hàng Dạ xoa, La sát hộ pháp, đây là theo Tạp Mật thời kỳ đầu (cũng gọi là Sự bộ). Trong hệ thống các bộ kinh điển Đại thừa thời kỳ đầu thì bộ kinh này chưa hề được nhắc tới.
Sau khi bộ kinh này được truyền qua Trung Quốc, thế giới phương Đông của Đức Phật Dược Sư đã nhận được sự chú ý đặc biệt của người dân Trung Quốc. Phương Đông là nơi thể hiện cho sự sinh trưởng và đại diện cho sức sống, do đó sau này dần dần trở thành biểu tượng của sự tiêu trừ tai họa, sống lâu trường thọ trong đời sống nhân loại. Đức Phật A Di Đà ở phương Tây, phương Tây là đại diện cho mùa thu, với không gian lặng lẽ tiêu điều biểu hiện cho sự chết chóc.
Trong Tịnh độ an lạc tập khi giải thích về lý do vì sao Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà lại ở phương Tây, có trình bày như sau: “Phía mặt trời mọc thì gọi là sinh ra, phía mặt trời lặn thì gọi là chết đi, mượn mảnh đất chết này mà các Thánh Thần cùng đến cư ngụ để tiện hỗ trợ cho nhau. Bởi vậy nên Bồ tát Pháp Tạng phát nguyện thành Phật ở phương Tây, với lòng từ bi thương yêu mà đón rước chúng sinh”. Cũng vì lý do này mà Tịnh độ phương Tây trở thành nơi vãng sinh của mọi người sau khi chết đi.
Như vậy, Đức Phật Dược Sư ở phương Đông đại diện cho sự tiêu trừ tai họa, sống lâu trường thọ trong đời hiện tại, còn Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà trở thành nơi vãng sinh sau khi chết. Điều đó trong tâm trí của người Trung Quốc, dù là vô tình hay cố ý cũng đã hình thành một sự phân định rất rõ ràng. Vì thế sau khi Tịnh độ phương Tây được truyền bá phổ biến rộng khắp thì Phật pháp bị hiểu nhầm rằng học Phật pháp là học về cái chết. Đến đây thì tư tưởng Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà có thể nói là đã bị biến chất.
∗ Cần khôi phục lại tinh thần vốn có của Đức Phật A Di Đà: Đó là sự viên mãn tròn đầy nơi ánh sáng vô cùng và tuổi thọ vô tận.
Tịnh độ phương Tây vốn đại diện cho ánh sáng vô cùng, tuổi thọ vô tận và sự viên mãn tròn đầy phúc báo của niềm an lạc. Nhưng đây lại không phải những điều mà người ta thường tưởng tượng.
Người Trung Quốc đặc biệt xem trọng Tịnh độ phương Tây, tuy nhiên họ chỉ coi trọng công đức viên mãn của Đức Phật, mà xem nhẹ hạnh nguyện lớn lao, và trí tuệ chứng ngộ của Bồ tát (Tịnh độ của Đức Phật A Súc). Đồng thời, họ cũng không chú ý tới niềm tin và hạnh nguyện thực hiện Tịnh độ ngay tại xã hội này (Tịnh độ Di Lặc), sự phát triển này quá thiên lệch. Cho đến khi đưa ra thảo luận chung với Tịnh độ của Đức Phật Dược Sư, thì Tịnh độ Di Đà cũng bị hiểu lầm là chỉ “chờ chết”, “chạy trốn”, đây đâu phải là ý nghĩa chân thật ở nơi cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà! Những hành giả của Tịnh độ A Di Đà cần phải khôi phục và tiếp nối tinh thần vốn có của Đức Phật A Di Đà.