6.1 - Phật pháp vốn chỉ dạy chúng ta cần phải nương vào năng lực của chính mình. Theo giáo thuyết của Tịnh độ thì chư Phật và chúng sinh cùng hỗ trợ qua lại, cùng làm lợi ích cho nhau là hoàn toàn chính xác và hợp lý.
Ở đây chữ “Độ” là chỉ cho thế giới hoặc nơi chốn, có ý nghĩa là cùng nhau nương tựa. Như trong kinh Đức Phật có dạy, báo thân nghiệp cảm của mỗi người không giống nhau. Nhưng núi non, sông nước và cảnh vật, đất đai, v.v. thì lại giống nhau, có thể cùng nhau sinh sống, ngắm nhìn hay tiếp nhận. Nhờ vậy mà chúng sinh ở thế giới này có thể cùng nương tựa vào nhau để phát triển, cùng thi đua làm việc lợi ích.
Phật pháp vốn chỉ dạy chúng ta cần phải nương vào năng lực của chính mình. Như trong tác phẩm Thân hữu thư của Bồ tát Long Thọ có nói: “Sinh lên cõi trời hay được giải thoát sinh tử khổ đau, là do chính bản thân mỗi người chứ không thể nương nhờ bất cứ một năng lực bên ngoài nào được”. Người xưa cũng thường nhắc nhở: “Ai ăn người ấy no, ai tu người ấy đắc”. Có thể thấy, Phật pháp là hoàn toàn triệt để, tận dụng năng lực nơi chính bản thân mỗi người. Nhưng điều này chỉ cho sự tự chấp nhận nghiệp cảm của bản thân chúng sinh. Còn nếu chúng sinh có sự hỗ trợ của các duyên khác và tác động của thế giới bên ngoài nữa thì kết quả không như điều đã nói ở trên.
Đời sống sinh hoạt giữa các chúng sinh trong một lãnh thổ, một quốc gia cùng nương nhau để phát triển, có thể ảnh hưởng tốt xấu qua lại lẫn nhau. Chư Phật và chúng sinh trong cùng một quốc độ cũng có tác động qua lại như vậy, cùng hỗ trợ giúp tăng thêm lợi ích cho nhau. Như thế, chư Phật có cõi Tịnh độ để tiếp nhận giáo hóa các chúng sinh, chúng sinh lại nương nhờ vào năng lực của chư Phật để vãng sinh về Tịnh độ, điều này vô cùng hợp lý.
Từ xưa đến nay trong đời sống xã hội có rất nhiều câu chuyện tương tự như vậy. Ví dụ như câu chuyện của Mạnh Tử khi còn nhỏ, mẹ ông đã ba lần thay đổi chỗ ở vì bà cảm nhận sâu sắc sự tốt xấu của môi trường sống sẽ ảnh hưởng đến thân tâm của con người như thế nào. Như một số người, ở môi trường này họ đó có thể rất năng động hoạt bát, nhưng khi đổi qua môi trường khác thì lại không làm được gì cả. Mọi người thường nói, môi trường sống có thể quyết định ý chí của mỗi người, điều này cũng có phần chính xác. Bởi vậy chủ trương của Tịnh độ cho rằng chư Phật và chúng sinh cùng hỗ trợ qua lại làm lợi ích cho nhau là hoàn toàn hợp lý.
6.2 - Trong một Pháp giới vốn không có chư Phật cũng không có Tịnh độ để bàn luận, vì để thích ứng với căn cơ của chúng sinh mà cảm ứng ra, nên mới thấy rõ ràng là có chư Phật và các cõi Tịnh độ.
Nhân vương kinh có câu: “Hàng tam Hiền thập Thánh cùng ở nơi đây, nhưng chỉ có chư Phật thấy đó là Tịnh độ”, đây là theo cõi Thường Tịch Quang với sự viên mãn tròn đầy mà nói. Dù là các vị Bồ tát ở đời sau cùng, trước khi thành Phật (Bồ tát Tối hậu thân, một đời nữa sẽ thành Phật) cũng vẫn còn một phần nghiệp nhân quả báo, do đó vẫn chưa thể tương ưng với Tịnh độ của chư Phật. Trí độ luận quyển 10 trình bày: “Bồ tát Phổ Hiền không thể lượng, không thể nói, không thể biết trú xứ”. Nói như vậy là theo hệ tư tưởng pháp tính biến khắp tất cả các thế giới trong mười phương. Còn nếu nói theo cõi Tịnh độ này thì tư tưởng cầu sinh về Tịnh độ sẽ không được hình thành.
Tuy nhiên, chư Phật không phải khi đã đạt được giác ngộ, cứu cánh viên mãn mới an trụ ở trong pháp giới thanh tịnh trang nghiêm nhất. Ngay khi còn tu Bồ tát hạnh, các Ngài đã lấy việc xây dựng Tịnh độ và tiếp nhận giáo hóa chúng sinh làm hai nhiệm vụ lớn lao, quan trọng. Điều này khiến các hành giả Đại thừa đối với vấn đề hoàn cảnh có thể ảnh hưởng đến ý thức, cũng có được một minh chứng rõ ràng, sâu sắc. Các vị Bồ tát trang nghiêm cõi Tịnh độ, một phần là nhờ nơi phúc đức trí tuệ của các Ngài mà cảm ứng ra; một phần là vì để tiếp nhận giáo hóa chúng sinh, khiến chúng sinh trong một hoàn cảnh thuận lợi tốt đẹp, có thể tinh tấn tu hành, góp phần trang nghiêm cõi Tịnh độ.
Do đó trong cùng một Pháp giới vốn không có chư Phật, cũng không có Tịnh độ. Tất cả là do phù hợp với căn cơ của chúng sinh mà cảm ứng ra, nên mới thấy rõ ràng là có chư Phật và các cõi Tịnh độ, đây là ý nghĩa chung của Đại thừa.
6.3 - Tịnh độ Thụ dụng của các Đức Phật: Tự Thụ dụng và Tha Thụ dụng.
Việc cõi Thường Tịch Quang không tiếp nhận và giáo hóa chúng sinh, tạm thời không bàn đến, mà chúng ta cùng bàn về Tịnh độ Thụ dụng của các Đức Phật trước. Chư Phật dùng phúc đức trí tuệ để trang nghiêm, lại căn cứ vào hiện trạng thế gian mà giảng nói ý nghĩa thù thắng của Tịnh độ. Chư Phật cảm ứng được cõi nước thanh tịnh, cứu cánh viên mãn - Tịnh độ với mười tám thứ công đức thù thắng viên mãn. Hàng Bồ tát Đại địa tu hành theo thứ lớp chứng được từng phần Chân như thì sinh vào cõi Tịnh độ này. Nói theo chư Phật, thì đây là Tịnh độ Tự Thụ dụng, còn với các vị Bồ tát thì đây lại là Tịnh độ Tha Thụ dụng của chư Phật. Đối với Tịnh độ Tự Thụ dụng hay Tịnh độ Tha Thụ dụng trong kinh điển thường rất ít khi phân biệt. Các cõi Tịnh độ này chỉ có một pháp Nhất thừa.
Nói theo Tịnh độ, thì cũng không hề có ý nghĩa cầu sinh về Tịnh độ. Bởi vì đây là cõi Tịnh độ chắc chắn sẽ xuất hiện khi các vị Bồ tát tu hành theo thứ lớp, chứng được từng phần Chân như. Cõi Tịnh độ này tuy không được viên mãn như chư Phật nhưng cũng hoàn toàn không có khác nhau, không có phân biệt. Nếu muốn nói về sự khác biệt thì như trong kinh có nói: “Các cõi Tịnh độ trong mười phương, tùy theo ước nguyện của chúng sinh mà được sinh về”. Các cõi Tịnh độ này chẳng phải các chúng sinh bình thường chỉ thông qua việc mong ước, cầu nguyện mà có thể được vãng sinh.
6.4 - Ứng hóa Tịnh độ của chư Phật: Cõi Tịnh độ mà chúng sinh phát nguyện cầu mong sinh về.
Trong kinh có dạy, Tịnh độ mà các chúng sinh phát nguyện cầu mong sinh về không phải là Tịnh độ Thụ Dụng, mà đó là Ứng hóa Tịnh độ của chư Phật. Ứng hóa Tịnh độ tùy theo căn cơ của mỗi chúng sinh mà chư Phật cảm ứng phù hợp, do đó có sự thị hiện không giống nhau. Như cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà thì chỉ có Nhất thừa mà không có Tam thừa. Cõi Tịnh độ của Đức Phật A Súc hóa độ hết tất cả Tam thừa có Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác. Tịnh độ của Đức Phật Di Lặc lại hóa độ hết cả Ngũ thừa, không chỉ có hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát mà còn có cả Nhân thừa và Thiên thừa - song tất cả đều là các cõi Tịnh độ. Ứng hóa Tịnh độ có rất nhiều loại, đều đặc biệt có liên quan đến các chúng sinh.
Vậy Ứng hóa Tịnh độ rốt cuộc là Tịnh độ của chư Phật hay là Tịnh độ của chúng sinh? Thế giới vốn không phải của riêng ai mà là của chung tất cả. Trong kinh có nói đến Tịnh độ của chư Phật. Trong Ứng hóa Tịnh độ thì chư Phật vì để khuyến hóa và chỉ dạy cho chúng sinh, sẽ nói đây là cõi Tịnh độ của Đức Phật nào đó. Nói theo thế gian, đây không chỉ là Tịnh độ của chư Phật mà cũng là Tịnh độ của chúng sinh. Tức là, khi nghiệp cảm của chúng sinh phát triển lên tới đâu thì sẽ có cõi Tịnh độ y báo như vậy tới đó. Cũng bởi vì chư Phật ứng hóa ra cõi Tịnh độ đó, nên gọi là Ứng Hóa Tịnh độ của chư Phật. Ví như Đức Phật Thích Ca thị hiện nơi cõi Ngũ thừa uế độ, đến khi Bồ tát Di Lặc thành Phật thì thế gian này trở thành Ngũ thừa Tịnh độ. Cho nên cần biết rằng nhân tố nghiệp cảm của chúng sinh là vô cùng quan trọng.
Nhưng cần chú ý về cõi Tịnh độ hóa độ hết tất cả Tam thừa và sự chỉ dạy Nhất thừa lại có phần khác biệt. Theo kinh điển Đại thừa, Đức Phật vì tiếp nhận hóa độ chúng sinh mà thị hiện cõi nước thanh tịnh, do vậy các Tịnh độ này là của chư Phật. Các vị Bồ tát ở trong các cõi Tịnh độ ngoài việc theo Phật để tu học, còn có trách nhiệm tiếp nhận và giáo hóa chúng sinh khiến họ có đầy đủ nhân duyên để cùng được sinh về Tịnh độ. Giống như ở thế giới Cực Lạc, không chỉ có Đức Phật A Di Đà mà còn có cả các vị Bồ tát như: Bồ tát Đại Thế Chí, v.v. Các vị đại Bồ tát này đều nhờ phúc đức, trí tuệ và thiện căn của chính mình mà có thể đồng hành với chư Phật, cùng xây dựng Tịnh độ. Trong đó, Đức Phật được coi là người dẫn đường, còn các vị Bồ tát làm người bạn đồng hành để cùng thành tựu các cõi Tịnh độ.
Năng lực nơi phúc đức và bi nguyện của chư Phật, Bồ tát là quan trọng hơn hết. Các chúng sinh chưa chứng ngộ chân lý cũng có thể sinh về Tịnh độ. Nhưng nếu chỉ nhờ vào tự thân của các chúng sinh thì không đủ, nhất định phải cần có đủ ba yếu tố: Thứ nhất là, sự hỗ trợ giúp đỡ từ nguyện lực của chư Phật; Thứ hai là, năng lực Thiền quán và Định, Tuệ của chúng sinh; Thứ ba là, sự hoàn thiện nơi sức mạnh về thiện căn, phúc đức của chúng sinh. Có đầy đủ những yếu tố đó thì chúng sinh sẽ được sinh về Tịnh độ, vấn đề này đã được trình bày trong A Súc Phật quốc kinh. Cõi Tịnh độ mà chư Phật và các vị Bồ tát đã thành tựu, có thể tiếp nhận, giáo hóa một bộ phận chúng sinh trở về đó tu tập. Đây là nói theo cõi Tịnh độ mà chư Phật và chúng sinh cùng tương trợ lẫn nhau để hoàn thiện. Do đó một cõi Phật hoàn toàn viên mãn, cứu cánh, vốn là cõi Tịnh độ của chư Phật chứ không phải của chúng sinh.
Giống như cõi nước của Đức Phật Thích Ca hay Tịnh độ của Đức Phật Di Lặc, mặc dù chúng sinh cũng dùng năng lực của thiện căn và nguyện lực mà được sinh về, nhưng lại chủ yếu là cõi chúng sinh do nghiệp cảm mà thụ sinh. Đức Phật cũng chỉ có thể ứng hiện và giáo hóa một phần nhỏ các chúng sinh có duyên với Ngài ở đó, chứ không thể giáo hóa hết tất cả.
Cõi Tịnh độ mà chư Phật và các chúng sinh cùng hỗ trợ lẫn nhau để hoàn thiện là do các vị Bồ tát khi tu hành đã giáo hóa và cứu độ cho các hành giả có cùng hạnh nguyện, cùng chí hướng xây dựng lên; nhờ đó mà có thể nhiếp thụ họ, đồng thời giúp họ cùng sinh về cõi Tịnh độ. Đây là ý nghĩa chân chính của việc truyền bá giảng dạy Phật pháp ở cõi Tịnh độ, cũng là nét đặc sắc vốn có của các cõi Tịnh độ như Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà, Tịnh độ của Đức Phật A Súc, v.v.
6.5 - Tịnh độ của Bồ tát
Ngoài cõi Tịnh độ của chư Phật và cõi Tịnh độ của chúng sinh còn có Tịnh độ của các vị Bồ tát. Tất cả các cõi Tịnh độ mà các vị Bồ tát đã chứng ngộ từ Chân như trở lên đều được các nhà Duy thức gọi là “cõi Tha Thụ dụng của chư Phật” còn các vị Bồ tát thì gọi đây là “cõi Tự Thụ dụng của chư Bồ tát”. Tông Thiên thai lại gọi là Thực Báo Trang Nghiêm Độ, cõi Tịnh độ này tuy là có ý nghĩa tương đồng với cõi pháp giới thanh tịnh của chư Phật nhưng chưa được cứu cánh viên mãn. Chư Bồ tát nhờ phúc đức và trí tuệ của mình cùng với chư Phật thụ dụng pháp lạc của Đại thừa, do đó có thể gọi là cõi Thụ dụng của chư Phật, cũng có thể gọi là cõi Thụ dụng của các vị Bồ tát.
Như vậy, nói một cách rốt ráo triệt để thì Tịnh độ của chư Phật tuyệt đối không phải chỉ có duy nhất một Đức Phật nào đó, mà còn có rất nhiều các vị Bồ tát. Trong kinh có nhắc đến các cõi Tịnh độ Thụ dụng cũng là nơi có chúng Bồ tát nhiều vô kể, các vị ấy đều tự mình tu học mà đến được cõi Tịnh độ này. Các cõi Tịnh độ Ứng hóa của chư Phật như Tịnh độ Di Đà, Tịnh độ A Súc cũng có rất nhiều các vị Bồ tát, nhưng các vị này không phải tất cả đều do phát nguyện sinh về. Trong các cõi Tịnh độ đã có chư Phật thì sẽ có các vị Bồ tát, đây là cõi Ứng hóa của chư Phật, cũng là cõi Ứng hóa của một số các vị Bồ tát.
Tóm lại, nói đến các cõi Tịnh độ tức là nơi mà chư Phật, Bồ tát và chúng sinh cùng hỗ trợ lẫn nhau để hoàn thiện và thành tựu. Giữa cõi Tịnh độ của chư Phật và cõi Tịnh độ của chúng sinh không thể bỏ qua cõi Tịnh độ mà chư Phật và Bồ tát cùng nhau tạo dựng, cùng hỗ trợ nhau để tiếp nhận giáo hóa chúng sinh.