7.1 - Trang nghiêm và làm thanh tịnh cõi nước
7.1.1 - Các cõi Tịnh độ đều từ việc vì lợi ích cho chúng sinh mà được thành tựu trang nghiêm.
Tịnh độ tông của Trung Quốc phát triển một cách vô cùng đặc biệt. Chúng ta phần nhiều chỉ biết phát nguyện vãng sinh cầu về Tịnh độ, còn vấn đề Tịnh độ từ đâu mà có thì xưa nay ít ai chú ý đến. Mọi người thường cho rằng đã có Đức Phật A Di Đà, có Phật thì sẽ có Tịnh độ, mà không biết rằng Đức Phật A Di Đà không phải chỉ phát nguyện vãng sinh mà liền có được Tịnh độ.
Trong các kinh điển Đại thừa, đâu đâu cũng nói đến việc trang nghiêm và làm thanh tịnh cõi nước. Tức là khi Bồ tát còn đang tu Bồ tát hạnh đã làm vô lượng các công đức lành để trang nghiêm và làm thanh tịnh cõi nước, cho đến khi thành Phật mới được thành tựu viên mãn như vậy. Ngày nay chúng ta chỉ nghe đến việc vãng sinh về cõi Tịnh độ mà không nhắc đến việc trang nghiêm và làm thanh tịnh cõi nước. Điều này chẳng phải là đã có phần thiên lệch rồi ư?
Tất cả các vị Bồ tát trong quá trình tu hành nhất định phải “bao quát hết vô số nguyện lớn của các cõi Tịnh độ” (Đại Bát nhã kinh), lấy sự thanh tịnh của hết thảy các thế giới, tổng hợp lại thành một thế giới thanh tịnh và viên mãn nhất. Các vị Bồ tát phát nguyện tu hành để thực hiện công việc đó. Tất cả các kinh điển Đại thừa đều trình bày như vậy, trong đó Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà chính là một ví dụ điển hình. Trong Vô Lượng Thọ kinh có đoạn nêu rõ: “Ở thời quá khứ, khi Đức Phật A Di Đà còn là tỳ kheo Pháp Tạng, có Đức Phật Thế Tự Tại Vương đã giảng cho Ngài nghe về cảnh giới của 210 ức các cõi Tịnh độ. Tỳ kheo Pháp Tạng khi được nghe kể về các cõi Tịnh độ với đủ các hình thái khác nhau như thế liền phát nguyện lớn muốn xây dựng một cõi Tịnh độ thanh tịnh và viên mãn hơn hết”. Tất cả các vị Bồ tát đều giống như vậy, do đó mới nói “bao quát hết vô số nguyện lớn của các cõi Tịnh độ”. Đây là nội dung cốt yếu và vô cùng cần thiết trong các hạnh của Bồ tát.
Các vị Bồ tát xây dựng Tịnh độ vì hai nguyên nhân: Thứ nhất là, tất cả các Đức Phật đều thành tựu các cõi Tịnh độ thanh tịnh trang nghiêm. Bồ tát phát tâm học theo Phật đương nhiên cũng cần thực hiện các cõi Tịnh độ giống như Phật. Nguyên nhân thứ hai phải thiết lập cõi Tịnh độ này không phải là vì bản thân mình sử dụng nên mới quan tâm, mà mục đích là để giáo hóa chúng sinh. Có cõi Tịnh độ thì có thể nương vào Tịnh độ để tiếp nhận giáo hóa chúng sinh, sau khi đã tiếp nhận và giáo hóa chúng sinh rồi thì có thể cùng nhau thiết lập Tịnh độ.
Việc xây dựng Tịnh độ để tiếp nhận và giáo hóa chúng sinh chính là ý nghĩa vô cùng quan trọng của Tịnh độ. Các cõi Tịnh độ đều vì lợi ích cho chúng sinh mà thành tựu trang nghiêm như vậy, chứ không phải từ sự mong cầu an vui cho bản thân mà có được.
7.1.2 - Ý nghĩa của việc Bồ tát trang nghiêm và làm thanh tịnh cõi nước.
Trang nghiêm các cõi Tịnh độ là nghĩa chung của các hạnh Đại thừa. Ngày nay chúng ta căn cứ vào phẩm Phật quốc trong Duy Ma kinh để trình bày rõ ý nghĩa của việc các vị Bồ tát trang nghiêm và làm thanh tịnh cõi nước.
a. Các hàng chúng sinh là Tịnh độ của Bồ tát, không phải vì cá nhân mình mà vì tất cả mọi người.
Trong kinh có nói: “Các hàng chúng sinh là Tịnh độ của Bồ tát”, Bồ tát cùng tu sửa và làm thanh tịnh cõi nước là vì muôn loài chúng sinh. Cũng giống như việc xây dựng nhà cửa nhất định phải lấy mặt đất làm nền móng. Cõi Tịnh độ của Bồ tát không hề xa lìa chúng sinh, mà ngược lại cần phải xuất phát từ nơi chúng sinh, vì lợi ích cho chúng sinh thì mới có thể xây dựng và thành tựu được. Vì vậy, chủ trương của Tịnh độ không phải trốn tránh hiện thực mà vô cùng phù hợp với chủ trương của pháp Đại thừa.
Nói đến các hàng chúng sinh, Bồ tát thường quan tâm bốn sự việc: Một là, phải có một thế giới như thế nào mới có thể khiến các chúng sinh phát khởi công đức? Hai là, phải có một đất nước như thế nào mới có thể điều phục được các chúng sinh, khiến phiền não của họ không còn sinh khởi? Ba là, phải dùng hoàn cảnh nào mới có thể khiến các chúng sinh phát khởi được căn lành của bậc Thánh Đại thừa? Và bốn là, phải dùng quốc độ như thế nào mới có thể giúp chúng sinh thể hội được cái thấy và cái biết như Đức Phật?
Nhưng vì căn cơ trình độ của các chúng sinh không đồng nhau nên việc phát sinh tâm lành thiện, diệt trừ ác nghiệp, phát khởi căn lành của hàng Đại thừa, thể nhập vào trí tuệ của Như Lai, cũng phải vận dụng vào nhiều hoàn cảnh khác nhau mới có thể thích hợp với từng hạng chúng sinh, cũng như để có thể tiếp nhận và hóa độ họ. Trong quá trình thích ứng với căn tính và sở thích của chúng sinh như vậy, Bồ tát đã tạo nên những cõi Tịnh độ thật tuyệt vời, khiến cho chúng sinh có thể sinh khởi các việc lợi ích, làm các việc thiện lành. Trang nghiêm và làm thanh tịnh cõi nước không phải vì cá nhân mình mà vì tất cả mọi người. Đây là nói theo tinh thần tùy căn cơ chúng sinh mà thị hiện thế giới, thị hiện quốc độ.
b. Tâm ngay thẳng, tâm tha thiết cầu đạo là Tịnh độ của Bồ tát. Tất cả các hạnh nguyện công đức của Bồ tát như: Lục độ, Tứ nhiếp, v.v. đều là nhân duyên để thành tựu các cõi Tịnh độ.
Về sự tu hành, tiếp nhận và hướng dẫn chúng sinh cho đến việc thành tựu công đức trang nghiêm Tịnh độ của Bồ tát, thì trong kinh còn khẳng định: “Tâm ngay thẳng là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật rồi thì không cần phải cố gắng dùng phương tiện để dẫn dắt chúng sinh sinh về đất nước của mình nữa. Tâm tha thiết cầu đạo cũng chính là cõi Tịnh độ của Bồ tát...” Nói một cách tóm lược thì tất cả các hạnh nguyện công đức của Bồ tát như phát tâm Bồ đề, Từ bi hỷ xả, Lục độ Tứ nhiếp đều là nhân duyên để thành tựu các cõi Tịnh độ.
“Trực tâm” là tâm luôn chính trực ngay thẳng, không hề dối gian tà kiến. Bồ tát lấy cái tâm đó làm pháp môn tu tập, giáo hóa chúng sinh thì tự nhiên sẽ có các chúng sinh với tâm ngay thẳng như vậy đến gặp gỡ, cùng nương nhau để tinh tấn tu tập. Hơn nữa, cũng có thể chuyển hóa những chúng sinh tâm còn dối gian, tà kiến trở thành tâm ngay thẳng, chính trực. Những chúng sinh có tâm ngay thẳng, kết nhân duyên Phật pháp với Bồ tát, khi Bồ tát thành Phật các chúng sinh này cũng cùng nhau sinh về cõi nước của Bồ tát đó.
Bồ tát trang nghiêm và làm thanh tịnh cõi nước là người tiếp nhận, chỉ dạy chúng sinh ở nơi đây, các Ngài dùng Lục độ vạn hạnh để hóa độ chúng sinh. Chúng sinh tu theo Lục độ vạn hạnh, nhận được sự cảm hóa của chư Phật, Bồ tát, nên cũng sẽ sinh về cõi đó. Trên thực tế, thành tựu được cõi Tịnh độ như vậy chính là thành quả chung của người tiếp độ hướng dẫn (chư Phật, Bồ tát) và của cả người được nhận sự tiếp độ hướng dẫn (chúng sinh).
Do vậy, không thể cho rằng việc xây dựng các cõi Tịnh độ là chỉ có duy nhất một vị giáo chủ (Đức Phật) của cõi đó, mà nhất định cần có sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau để cùng thành tựu. Bồ tát là người lãnh đạo chủ trương và đề xướng ra cõi Tịnh độ, cần có đông đảo các hành giả đồng một hạnh nguyện cùng nhau tu tập phúc đức và trí tuệ, kết tình pháp lữ, hòa hợp như nước với sữa thì mới có thể cùng nhau thành tựu được. Đứng về phương diện các Đức Phật mà nói thì đây là quốc độ Phật Tự Thụ dụng, còn nói theo các vị Bồ tát thì đây cũng vẫn là cõi Tịnh độ do Bồ tát tự mình tu hành mà đạt được.
c. Tiểu kết: Trang nghiêm và làm thanh tịnh cõi nước là việc được tập hợp từ tất cả công đức của các vị Bồ tát cùng nhau thực hiện.
Không biết trang nghiêm và làm thanh tịnh cõi nước, cũng không hiểu Tịnh độ được hình thành như thế nào, mà chỉ biết cầu sinh về Tịnh độ thì chính chúng ta đã vô tình biến Tịnh độ thành cõi trời của Thần giáo. Hiểu rõ quá trình hình thành của Tịnh độ, tu tập và phát nguyện làm trang nghiêm, thanh tịnh cõi nước mới là con đường chân chính của Phật pháp Đại thừa. Vãng sinh Tịnh độ chính là từ trong ý nghĩa cùng hỗ trợ qua lại làm lợi ích cho nhau của chư Phật và chúng sinh mà đặc biệt mở bày phương tiện.
Sau khi Đại sư Thái Hư viên tịch, ông Phạm Cổ Nông trong bài điếu văn tưởng niệm Đại sư của mình có nói: “Những điều mà Đại sư khởi xướng là Chính thường đạo, còn những gì mà Đại sư đã thực hiện là Phương tiện đạo”. Chính thường đạo là chính nghĩa Tịnh độ trong phương pháp tu tập của hàng Đại thừa Bồ tát; Phương tiện đạo là từ Chính thường đạo mà đặc biệt mở bày ra.
Trang nghiêm và làm thanh tịnh cõi nước là việc được tập hợp từ tất cả công đức của các vị Bồ tát cùng nhau thực hiện, là chân nghĩa của pháp Đại thừa. Việc làm này cần được đặc biệt quan tâm, chú trọng.
7.2 - Vãng sinh về Tịnh độ
7.2.1 - Phương pháp vãng sinh thông thường: Bồ tát không cần cầu sinh về Tịnh độ mà các Ngài tự nhiên được ở nơi Tịnh độ (khắp mười phương).
Pháp môn vãng sinh Tịnh độ có nghĩa chung và nghĩa riêng. Nghĩa chung là người tu tập theo phương pháp này có thể vãng sinh về các cõi Tịnh độ trong mười phương. Nghĩa riêng là phương tiện có nét riêng biệt, chú trọng vào việc vãng sinh về thế giới Cực Lạc.
Tịnh độ là một cảnh giới vô cùng thanh tịnh và lý tưởng. Các vị Bồ tát trang nghiêm và làm thanh tịnh cõi nước là để tiếp nhận giáo hóa chúng sinh. Chúng sinh khi nhận được sự cảm hóa từ ân đức của Bồ tát sẽ cùng hướng về cõi Tịnh độ mà được vãng sinh. Việc tu hành ở cõi Tịnh độ không những có nhiều thuận lợi mà lại còn rất ít chướng ngại. Do đó hành giả được vãng sinh về đây chắc chắn sẽ chứng được quả vị bất thoái chuyển, không còn bị rơi vào hàng Nhị thừa hay ba đường ác nữa. Niềm tin và sự thực hành pháp môn vãng sinh Tịnh độ ở các kinh điển Đại thừa đều thống nhất với nhau. Vậy thì làm sao mới có thể vãng sinh về Tịnh độ? Dưới đây xin lược trích dẫn hai bộ kinh để làm sáng tỏ việc này:
a. Duy Ma Cật kinh quyển hạ có đoạn nêu rõ: “Bồ tát thành tựu tám pháp ở ngay nơi thế giới này, thực hành những việc không còn gây đau khổ, lầm lỗi thì chính là chúng ta đang sống ở cõi Tịnh độ”. Tám pháp bao gồm: Một là, “làm các việc lợi ích cho chúng sinh mà không cầu được báo đáp” tức là chỉ vì lợi ích cho chúng sinh mà phát tâm làm mọi việc, không hề nghĩ đến lợi ích của bản thân. Hai là, “chịu mọi khổ nhọc thay cho chúng sinh, tất cả các công đức có được lại ban trải hết cho chúng sinh”, nghĩa là mọi khổ đau đều nhận về mình, còn mọi phúc lạc lại trao tặng cho người, đây mới chính là tâm hạnh của hàng Bồ tát. Ba là, “tâm bình đẳng với chúng sinh”, chính là dùng tâm không phân biệt, tâm hoàn toàn bình đẳng để đối đãi với chúng sinh, khiến cho chúng sinh đạt được các quả vị bình đẳng như nhau. Đối với những hành giả tu hành pháp Đại thừa Bồ tát thì phát khởi tâm cung kính như đối với chư Phật. Bốn là, “với các kinh điển thậm thâm vi diệu chưa từng được nghe qua, khi vừa được nghe liền tin nhận mà không khởi tâm nghi ngờ, không sinh tâm phỉ báng; cũng không cho rằng bản thân mình đang tu hành theo pháp Đại thừa, vô cùng thậm thâm vi diệu, bởi vậy không có sự trái ngược với hàng Thanh văn”. Hành giả đã thật sự thấu suốt Phật pháp thì giữa Đại thừa và Tiểu thừa có thể dung thông một cách triệt để. Năm là, “không ganh tỵ khi người khác được cung kính, cúng dường”, tức là khi thấy ai đó nhận được sự cung kính cúng dường thì không khởi tâm ghen ghét, đố kỵ. Sáu là, “không kiêu mạn khi mình nhận được lợi dưỡng”, khi bản thân mình nhận được sự cung kính cúng dường cũng không vì thế mà khởi tâm kiêu mạn, tự hào rồi buông lung, phóng túng. Bảy là, “thường xét lại cái sai của mình, không bàn luận lỗi lầm của người”, tức là luôn luôn nhìn lại và thấy rõ những sai lầm của bản thân, không nên hướng ra ngoài mà bình luận, chê bai lỗi lầm, đúng sai của người khác. Tám là, “một lòng mong cầu các công đức”.
Tám pháp này là Chính thường đạo của Bồ tát vì tha nhân, vì Phật pháp, cũng là thường đạo để đối xử với bản thân và người khác. Nhưng nếu có thể nương vào tám pháp này tu hành, thì đây cũng sẽ là một pháp môn chắc chắn có thể đưa hành giả tu tập vãng sinh Tịnh độ.
b. Trừ cái chướng Bồ tát sở vấn kinh (quyển 17) có trình bày: “Vị Bồ tát nếu tu tập mười pháp này sẽ được sinh về cõi nước thanh tịnh của chư Phật. Mười pháp đó là: 1. Thành tựu các giới hạnh; 2. Thực hành tâm bình đẳng; 3. Thành tựu các thiện căn rộng lớn; 4. Xa lìa danh tiếng lợi dưỡng thế gian; 5. Đầy đủ lòng tin thanh tịnh; 6. Tinh tiến; 7. Thiền định; 8. Tu tập học rộng nghe nhiều; 9. Lợi căn; 10. Thực hành tâm từ rộng khắp”. Thắng Thiên Vương Bát nhã kinh, Bảo Vân kinh, Bảo Vũ kinh đều có trình bày mười pháp môn này.
Như pháp thứ ba “thành tựu các thiện căn rộng lớn” quả thật là bí kíp quan trọng để vãng sinh Tịnh độ. A Di Đà kinh cũng khẳng định: “Không thể dùng chút ít thiện căn, phúc đức nhân duyên mà được sinh về thế giới Cực Lạc”. Pháp môn Tịnh độ được trình bày trong Duy Ma kinh và Bảo Vân kinh giống như một điều hiển nhiên của Bồ tát. Các Ngài không cần cầu sinh về Tịnh độ mà tự nhiên sẽ được ở nơi Tịnh độ. Đây chính là một điều kiện cần thiết để có thể sinh về Tịnh độ.
7.2.2 - Phương pháp vãng sinh đặc biệt: Chú trọng vào việc vãng sinh về thế giới Cực Lạc.
Pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ rất phát triển ở Trung Quốc, đây là pháp môn phương tiện đặc biệt trong việc vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Nhưng chỉ riêng phương pháp vãng sinh về Tịnh độ Cực Lạc cũng có nhiều phương tiện khác nhau. Ở đây xin dựa vào các bộ kinh điển có trình bày về việc vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc, tóm lược để làm rõ.
a. Phương pháp vãng sinh trong Ban chu Tam muội kinh: Chú trọng đến việc Thiền quán tự lực.
Ban chu Tam muội kinh là một bộ kinh nổi tiếng và xuất hiện từ rất sớm. Vào cuối đời nhà Hán đã có bản dịch bộ kinh này. Ban chu kinh trình bày việc niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, thấy Đức Phật A Di Đà tức là thấy tất cả các Đức Phật hiện tại ở mười phương. Niệm Phật chú trọng vào việc quán Vô Lượng Phật ở Tây phương làm phương tiện để có thể thấy được vô lượng các Đức Phật ở mười phương. (Vô Lượng Thọ kinh, Quán Vô Lượng Thọ kinh, và Phật thuyết A Di Đà kinh chú trọng Vô Lượng Thọ Phật do đó đặc biệt coi trọng thời khắc lâm chung).
Pháp môn niệm Phật được trình bày trong Ban chu Tam muội kinh là pháp niệm Phật Tam muội. Chữ “niệm” là nhớ nghĩ, tư duy. Tướng tốt nơi thân Phật và sự đẹp đẽ trang nghiêm của thế giới Cực Lạc, đều chẳng phải cảnh giới hiện tại trước mắt của các chúng sinh. Nhất định phải từ tên gọi mà tư duy ý nghĩa, chuyên tâm buộc niệm khiến cho cảnh cần quán sát hiển bày ngay trước mắt. Do vậy, niệm Phật chính là tu pháp quán tưởng niệm Phật. Các pháp môn như: Tứ niệm xứ, Tam tùy niệm - niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, v.v. được trình bày trong A hàm kinh cũng đều hướng dẫn phương pháp quán niệm như vậy.
Niệm là giữ tâm ở một nơi (chú tâm vào một đối tượng) khiến tâm luôn ghi nhớ rõ ràng không quên. Tuệ tâm sở tương ưng với niệm, lại duyên theo cảnh giới y báo và chính báo nơi cõi Cực Lạc mà chia ra quán sát. Niệm và Tuệ đã tương ưng như vậy rồi, tiếp theo hành giả an trụ vào các cảnh được lựa chọn để nương vào đó mà quán niệm. Khi nào đạt được Định - Tâm nhất cảnh tính (tâm luôn luôn an trụ vào một cảnh nhất định) thì đã thành tựu được pháp niệm Phật Tam muội. Khi tu tập thành tựu được Tam muội này, hành giả sẽ thấy được Vô Lượng Phật, cũng là thấy được hết thảy các Đức Phật trong mười phương.
Thành tựu được niệm Phật Tam muội, hành giả vẫn chưa chứng được Thiên nhãn, chưa đi đến được quốc độ của Phật và cũng không phải Đức Phật thật sự hiện thân ở nơi đó. Tuy nhiên trong Tam muội có thể thấy Đức Phật A Di Đà một cách rõ ràng. Không những thấy Đức Phật mà chúng ta còn có thể bàn luận thưa hỏi Ngài câu hỏi: “Làm sao để con có thể được sinh về thế giới Cực Lạc?” Đức Phật sẽ chỉ dạy: “Nên nhớ nghĩ đến Ta”. Chúng ta không nên cho rằng việc gặp Phật và bàn luận thưa hỏi với Ngài trong Tam muội là một chuyện kỳ lạ. Bởi vì, việc này trong quá trình tu hành thiền quán của Du già hành phái đều giống như vậy; hoặc hành giả Mật tông tu tập đến thành tựu Bản tôn; Bồ tát Vô Trước tu theo pháp môn của Ngài Di Lặc được trực tiếp nghe Bồ tát Di Lặc giảng Du già luận.
Thứ tự thực hành của các phương pháp ức niệm Đức Phật A Di Đà như sau: Trước tiên là chúng ta nhớ nghĩ tới các đặc điểm của Đức Phật như: “Đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, thân sáng chói như sự hội tụ dung hợp của sắc vàng; thành tựu đầy đủ các loại xe báu, phóng ánh sáng rộng lớn như tòa sư tử; ở giữa đại chúng Sa môn thuyết pháp chân thật”. Nhớ nghĩ như vậy tức là ức niệm sắc thân của Đức Phật hoặc quán tưởng niệm Phật.
Tiếp theo là ức niệm những lời Phật dạy: “Tất cả các pháp vốn không bị hoại diệt, cũng không ai có thể hoại diệt được. Ví như là không thể hoại sắc cho đến không thể hoại thức, v.v. cho đến không nhớ nghĩ đến Phật thì cũng không thể thấy được Đức Phật đó”. Đây là quán sát tính Không của tất cả các pháp, “chứng đắc được Không Tam muội” tức là niệm Pháp thân của Phật hay Thật tướng niệm Phật.
Niệm Phật như vậy, hành giả sẽ thành tựu được Tam muội và cần phải chuyên tâm tu tập pháp niệm Phật Tam muội ba tháng, mới có thể chắc chắn vãng sinh thế giới Cực Lạc ở phương Tây. Do đó mà các hành giả Tịnh độ ngày nay rất ít người có thể làm được.
Pháp môn niệm Phật trong Ban chu Tam muội kinh chú trọng đến việc thiền quán tự lực. Tuy rằng có nguyện lực của Đức Phật A Di Đà nhưng đòi hỏi hành giả phải chứng được niệm Phật Tam muội, gặp được Phật mới có thể quyết định việc vãng sinh. Việc này không phải dễ dàng, cho nên pháp môn này chỉ dành cho những hàng lợi căn thượng thừa mới có thể tu tập. Trong Đại trí độ luận, Bồ tát Long Thọ có trình bày: “Thành tựu Tam muội rất khó khăn như ánh đèn trong đêm, không dễ thấy rõ được các màu sắc”. Các bậc cổ đức ở Trung Quốc cũng nhận định rằng: “Chúng sinh tâm còn cạn cợt, phương pháp quán niệm lại thâm sâu vi tế, do vậy mà rất khó để ứng dụng tu tập”.
Nói chung, bởi vì phương pháp niệm Phật này không dễ tu tập nên các hành giả Tịnh độ thường bỏ qua mà không dám thực hành. Tuy nhiên, phải thấy rằng đây thật sự là một pháp môn căn bản quan trọng của người cầu sinh về Tịnh độ Cực Lạc.
b. Phương pháp vãng sinh trong phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện: Phương tiện cầu sinh về Tịnh độ không chỉ hạn chế ở pháp môn niệm Phật.
Phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện trong Hoa nghiêm kinh cũng trình bày về việc vãng sinh thế giới Cực Lạc. Như mọi người thường nói: “Mười nguyện lớn của Bồ tát Phổ Hiền dẫn dắt chúng sinh trở về Cực Lạc”, nội dung này ở phần cuối phẩm đã được trình bày rất rõ ràng. Mười nguyện lớn của Bồ tát Phổ Hiền cũng gọi là mười hạnh nguyện lớn. Ở đây Bồ tát Phổ Hiền không chỉ phát nguyện, mà còn ứng dụng tu tập và thực hành trong thực tế đời sống; dùng công đức của mười hạnh nguyện lớn lao này để hồi hướng cầu sinh về thế giới Cực Lạc.
Trong các phương pháp khó thực hành và dễ thực hành mà mọi người thường nhắc tới thì phương pháp này là dễ thực hành. Nhưng phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện không dạy niệm Phật, mà theo thứ lớp của mười nguyện này thì trình bày thành: “1. Kính lễ chư Phật; 2. Khen ngợi tán thán các Đức Như Lai; 3. Rộng tu pháp cúng dường; 4. Sám hối các nghiệp chướng; 5. Tùy hỷ công đức; 6. Thỉnh Phật trụ thế; 7. Thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp; 8. Thường theo các Đức Phật để tu học; 9. Luôn tùy thuận các chúng sinh; 10. Hồi hướng cho tất cả”.
Phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện không nói về pháp niệm Phật Tam muội giống như Ban chu Tam muội kinh; cũng không đề cập đến việc chuyên tâm buộc niệm để quán tưởng y báo, chính báo trang nghiêm của Đức Phật A Di Đà như Vô Lượng Thọ kinh đã trình bày. Nhưng hành giả tu hành nương theo hạnh nguyện rộng lớn của Bồ tát Phổ Hiền, thì có thể phát nguyện và hồi hướng cầu sinh về Cực Lạc. Do đó phương tiện tu tập để vãng sinh Cực Lạc vốn không chỉ dừng lại ở phương pháp niệm Phật mà thôi.
c. Phương pháp vãng sinh trong Vô Lượng Thọ kinh.
Vô Lượng Thọ kinh là một trong ba bộ kinh Tịnh độ đã được các bậc cổ đức Trung Hoa phiên dịch. Bản dịch của bộ kinh này cũng xuất hiện ở Trung Quốc từ rất sớm. Đại trí độ luận từng trình bày rõ ràng rằng: Vô Lượng Thọ kinh là bộ kinh được lưu truyền vào thời kỳ đầu của Phật giáo Đại thừa. Các bản dịch Vô Lượng Thọ kinh ở Trung Quốc rất nhiều, ngày nay còn lưu lại các bản như:
Bản dịch đầu tiên của Ngài Chi Lâu Ca Sấm thời Đông Hán. Bản dịch thứ hai do cư sĩ Chi Khiêm đời nhà Ngô dịch lại. Hai bản dịch này nội dung và câu cú rất giống nhau, có thể suy luận là được truyền đến từ nước Nguyệt Chi, ngày nay gọi chung là “Chi bản”.
Bản dịch thứ ba là của Ngài Khương Tăng Khải đời Tào Ngụy dịch, gọi tắt là “Khương bản”.
Bản thứ tư thuộc quyển 17, 18 trong tập Đại bảo tích kinh do Ngài Bồ Đề Lưu Chi đời Đường tập hợp lại để biên dịch, có tên là Vô Lượng Thọ Phật hội, ngày nay gọi tắt là “Đường bản”.
Bản cuối cùng do Ngài Pháp Hiền thời Bắc Tống dịch, được gọi tắt là “Tống bản”.
Ngoài năm bản dịch này, còn có bản dịch của ông Vương Nhật Hưu đời nhà Tống (Long Thư cư sĩ, tức là tác giả của Long thư Tịnh độ văn), thông qua việc đối chiếu và tham khảo các bản dịch, đã biên soạn lại thành một bản chính là bản Đại A Di Đà kinh, được truyền bá và lưu hành rất phổ biến, ngày nay gọi tắt là “Vương bản”.
∗ Hai nhân duyên căn bản, chủ yếu để cầu sinh Tịnh độ: Nhất tâm niệm Phật và phát nguyện vãng sinh.
Trong Vô Lượng Thọ kinh, phần đầu nói về việc Đức Phật A Di Đà xây dựng Tịnh độ lập 48 nguyện (bản cũ có 24 nguyện), trong đó có lời phát nguyện rằng: “Nếu có ai đó nhớ nghĩ đến tôi mà muốn sinh về nước tôi, ngay đó liền được vãng sinh”. Tiếp theo, nói về y báo, chính báo trang nghiêm của thế giới Cực Lạc. Sau cùng trình bày ba bậc vãng sinh, ngay đó chỉ rõ phương pháp và điều kiện để được vãng sinh. Về ba bậc vãng sinh (cũng gọi là ba phẩm), các bản dịch trình bày tuy có điểm không nhất quán với nhau, nhưng điều kiện căn bản là nhớ nghĩ Đức Phật A Di Đà và phát nguyện vãng sinh; Không nhớ nghĩ đến Phật, không phát nguyện thì không thể sinh về thế giới Cực Lạc.
Về việc niệm Phật, kinh văn chỉ trình bày là: chuyên niệm, ức niệm, tư duy, thường niệm, nhất tâm niệm. Bộ kinh thường được gọi là Tiểu A Di Đà kinh - bản giản lược của Vô Lượng Thọ kinh, thì trình bày là “chấp trì danh hiệu”. Pháp môn niệm Phật của Vô Lượng Thọ kinh và Ban chu Tam muội kinh tương thông với nhau, đều cho rằng không phải phương pháp đọc tụng danh hiệu Phật. Nhất tâm niệm Phật, phát nguyện vãng sinh đây chính là hai nhân duyên chủ yếu, căn bản để cầu sinh về Cực Lạc. Dù là Thượng phẩm, Hạ phẩm hay Trung phẩm cũng đều như vậy.
∗ Hành giả ở ba phẩm vãng sinh Thượng, Trung, Hạ đều cần phát tâm Bồ đề.
Đường bản và Khương bản (tương đồng với Tống bản) cũng nói về ý nghĩa này: “Hành giả ở ba phẩm vãng sinh Thượng, Trung, Hạ đều cần phát tâm Bồ đề”. Vậy nếu cùng phát tâm Bồ đề thì tại sao lại có ba phẩm vị không đồng nhất với nhau? Bởi vì hành giả ở Thượng phẩm có thể chuyên tâm buộc niệm, tu tập và làm các công đức rộng lớn - ở các bản khác thì chính là tu theo Lục độ, nhất là rộng tu bố thí, cúng dường. Hàng Trung phẩm tuy không thể chuyên tâm buộc niệm, tu tập và làm các công đức rộng lớn, nhưng có thể tùy theo năng lực, địa vị của bản thân, đem tất cả những việc thiện mà mình đã làm được đều hồi hướng về Tịnh độ. Hàng Hạ phẩm ngoài việc phát tâm Bồ đề, thì chỉ nương vào một niệm tâm thanh tịnh để cùng hướng về Tịnh độ, đối với Đức Phật A Di Đà và kinh điển Đại thừa có thể tin tưởng tuyệt đối không còn nghi ngờ.
Đại trí độ luận quyển 9 cũng trình bày: “Dù không tu tập và làm các công đức rộng lớn, nhưng nếu như phiền não nhẹ nhàng, tín tâm thanh tịnh, nhất tâm niệm Phật, cũng có thể phát nguyện vãng sinh”. Chi bản có nói đến pháp môn tu tập chung của ba phẩm vãng sinh đó là “đoạn trừ ái dục”. Dù là người xuất gia hay cư sĩ tại gia đã cầu sinh Tịnh độ đều phải tu phạm hạnh, lại cần “từ bi tinh tấn, không được sân giận, trai giới thanh tịnh”.
Những điểm khác biệt là: Bậc Thượng phẩm là hàng xuất gia làm Sa môn, tu tập thực hành Lục độ Ba la mật; hành giả vãng sinh Trung phẩm và Hạ phẩm không xuất gia, không thể rộng tu các hạnh Sa môn, hơn nữa tuy biết niệm Phật nhưng cũng không tránh khỏi còn nửa tin nửa ngờ. Trong đó hàng Trung phẩm có thể tùy duyên mà làm việc thiện, bố thí, cúng dường Tam Bảo; hành giả sinh về Hạ phẩm chỉ một lòng tâm niệm muốn được vãng sinh, năng lực yếu kém nhất. Ở đây chúng ta có thể thấy điểm đặc sắc trong Chi bản là chú trọng vào việc đoạn trừ ái dục; còn việc phải phát nguyện vãng sinh, nhất tâm niệm Phật, từ bi tinh tấn, v.v. thì cũng giống với tinh thần trong Đường bản và Khương bản.
∗ Những trường hợp không thể sinh về Tịnh độ: Người phạm các tội ngũ nghịch (thập ác) và hủy báng chính pháp.
Có trường hợp nào nhất tâm niệm Phật mà không được sinh về Tịnh độ không? Đường bản và Khương bản đều nói rõ, chỉ trừ những người phạm các tội ngũ nghịch, thập ác và hủy báng chính pháp là không thể vãng sinh. Ngoài ra, ai nhất tâm niệm Phật cũng đều có thể được vãng sinh.
Phương pháp tu tập để vãng sinh Cực Lạc trong Vô Lượng Thọ kinh và Ban chu Tam muội kinh có phần khác biệt. Ban chu Tam muội kinh chú trọng vào Tam muội, việc vãng sinh chỉ giới hạn vào khả năng định tâm để thấy Phật. Vô Lượng Thọ kinh dù không quá chú trọng vào khả năng định tâm, nhưng cũng vẫn cần phải nhất tâm chuyên niệm liên tục không gián đoạn. Qua đó có thể nói căn cơ của các chúng sinh được giáo hóa trong Vô Lượng Thọ kinh rộng lớn hơn, chỉ trừ những người hủy báng pháp Đại thừa và phạm tội ngũ nghịch, thập ác mà thôi.
∗ Thời gian hành giả nhất tâm niệm Phật. (quan trọng vẫn là việc nhất tâm bất loạn)
Hành giả nhất tâm niệm Phật cần phải trải qua thời gian bao lâu mới có thể vãng sinh? Đây vốn là một câu hỏi quá dư thừa, vì vấn đề ở đây là hành giả đã có thể niệm Phật đến nhất tâm bất loạn hay chưa. Đường bản và Khương bản có nói rõ: Hàng Thượng phẩm và Trung phẩm thì không đề cập thời gian dài ngắn; hàng Hạ phẩm thì ngay cả mười niệm cho đến một niệm (các học giả Trung Quốc dựa vào đây mà đưa ra pháp môn “mười niệm niệm Phật”). Hàng Thượng phẩm và Trung phẩm đều không phải chỉ tu tập trong thời gian ngắn, mà phát tâm tu hành cho đến khi công phu khế hợp tương ưng, mới có thể quyết định được vãng sinh. Hàng Hạ phẩm tuy thiện căn còn ít ỏi nhưng nhờ nương vào nguyện lực của Đức Phật A Di Đà, nếu có thể dùng tâm thanh tịnh niệm một niệm cho đến mười niệm, nhớ nghĩ đến Phật cũng có thể được vãng sinh.
Một niệm là một sát na, mười niệm tức là trong một khoảng thời gian ngắn giữ tâm thanh tịnh liên tục không gián đoạn. Những việc này đều đã nói rõ nguyện lực của Đức Phật vô cùng sâu rộng, việc vãng sinh thật dễ dàng, chỉ cần một niệm cho đến mười niệm cũng có thể đạt được mục đích vãng sinh. Một niệm và mười niệm trong Chi bản cho là “một ngày một đêm” và “mười ngày mười đêm”. Vậy rốt cuộc là “một niệm và mười niệm” hay là “một ngày đêm và mười ngày đêm”, hiện tại không có bản gốc bằng tiếng Phạn để kiểm chứng, nên đương nhiên không thể quyết định được cái nào là đúng. Nhưng dù là một niệm, mười niệm hay một ngày, mười ngày đều là nói về thời gian.
∗ Dù chú trọng vào thời điểm khi lâm chung, nhưng nhất định trước đó phải thấy Phật mới có thể vãng sinh.
Việc vãng sinh Tịnh độ trong Vô Lượng Thọ kinh đặc biệt chú trọng lúc lâm chung, điều này có ảnh hưởng rất lớn đối với Tịnh độ tông của Trung Quốc. Ban chu Tam muội kinh thì chú trọng việc tu tập, lấy việc hàng ngày thấy Phật làm minh chứng xác đáng nhất để được vãng sinh. Vô Lượng Thọ kinh lại đề cao hiện tượng khi lâm chung thấy Phật liền được vãng sinh.
Yêu cầu việc vãng sinh nhất định phải thấy Phật trước đó, sau khi thấy được Phật rồi mới được vãng sinh. Về điểm này Ban chu Tam muội kinh và Vô Lượng Thọ kinh cũng tương đồng với nhau. Được thấy Phật là minh chứng cho việc có thể vãng sinh Tịnh độ, đối với hành giả ở ba bậc vãng sinh không đồng và việc thấy Phật cũng khác nhau. Hàng Thượng phẩm được Đức Phật A Di Đà và đại chúng trong hải hội đến tiếp đón. Hàng Trung phẩm thấy hóa thân Đức Phật và Bồ tát, có bản dịch là: “Trong tâm của hành giả hiện rõ sắc tướng của Đức Phật và Bồ tát”, điều này cũng gần giống với việc trong cảnh định thấy Phật. Còn hàng Hạ phẩm lúc lâm chung hoảng hốt vô cùng, nhưng trong mộng cũng thấy Phật không khác.
Việc thấy Phật của ba phẩm vãng sinh trong Chi bản vốn cũng có đề cập đến. Tuy nhiên trong lúc lâm chung hay trong lúc bình thường thì hàng Thượng phẩm và hàng Trung phẩm đã sớm thấy Đức Phật trong mộng rồi. Điểm này gần giống với phương pháp thấy Phật niệm Phật trong Ban chu Tam muội kinh. Nhưng từ trong Định mà trở thành trong mộng thì là đã hạ thấp tiêu chuẩn rồi.
∗ Đánh giá về bản dịch của Vương Nhật Hưu.
Ba bậc vãng sinh trong Vô Lượng Thọ kinh, Vương bản mỗi lần chỉnh sửa thì lại không phù hợp với nghĩa gốc trong Vô Lượng Thọ kinh.
Đơn cử việc thứ nhất: Về vấn đề một ngày một đêm, hoặc mười ngày mười đêm trong Chi bản. Nếu ở Khương bản và Đường bản là một niệm hoặc mười niệm tức là nói theo thời gian, thì tới Vương bản lại đổi thành niệm mười tiếng. Việc này là do pháp môn Tịnh độ khi được hoằng dương ở thời đại của Vương Long Thư, sớm đã chỉ còn là xưng niệm danh hiệu Đức Phật, cho nên so với nghĩa gốc trong Vô Lượng Thọ kinh thì có sự thay đổi vô cùng lớn.
Việc thứ hai, trong Đường bản và Khương bản, hành giả ở ba bậc vãng sinh đều cần phát tâm Bồ đề mới được sinh về Tịnh độ. Chi bản tuy không nói rằng phải phát tâm Bồ đề, nhưng cũng không hề nói là không cần phát tâm Bồ đề. Vương bản thì lại cho rằng hành giả ở Hạ phẩm không cần phát tâm Bồ đề cũng có thể vãng sinh, đây cũng là một sự thay đổi vô cùng to lớn.
Vãng sinh về Tây phương Tịnh độ là pháp môn tu tập của Đại thừa. Pháp Đại thừa được kiến lập bởi việc phát tâm Bồ đề, rời xa việc phát tâm Bồ đề thì không còn là Đại thừa nữa. Do vậy mà trong Tịnh độ luận, Bồ tát Thế Thân có trình bày là “mầm mống của Nhị thừa không thể sinh khởi”. Thế giới Cực Lạc phương Tây là Tịnh độ Nhất thừa, hành giả sinh về thế giới Cực Lạc đều không bị thoái chuyển đối với đạo Vô thượng Bồ đề. Do đó, việc nhất tâm niệm Phật cầu sinh Tịnh độ, phát Bồ đề tâm quả thật là điều kiện căn bản của pháp môn Tịnh độ. Vô Lượng Thọ kinh cũng nói rõ giống như thế, vậy mà Vương bản lại thay đổi.
Tuy vấn đề không cần phát tâm Bồ đề cũng có thể sinh về thế giới Cực Lạc có chứng cứ trong kinh văn, nhưng nghĩa gốc trong Vô Lượng Thọ kinh thì hoàn toàn không phải như vậy.
d. Phương pháp vãng sinh trong Quán Vô Lượng Thọ kinh
∗ Hành giả Tịnh độ sau này lại bỏ “nhân chính” mà theo “nhân phụ”.
Quán Vô Lượng Thọ kinh cũng là một trong ba kinh của Tịnh độ. Sức ảnh hưởng của bộ kinh này đối với tư tưởng Tịnh độ ở Trung Quốc vô cùng rộng lớn. Bộ kinh này được phiên dịch rất muộn, vào thời đại Lưu Tống do Ngài Cương Lương Da Xá dịch.
Trong phần trình bày tư tưởng chủ yếu ở đầu bản kinh có nói rõ: “Muốn sinh về nước kia, cần tu tập ba việc phúc đức: Một là, hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, từ tâm không giết hại, tu mười nghiệp thiện; Hai là, thụ trì Tam quy, đầy đủ các giới hạnh, không phạm các uy nghi; Ba là, phát tâm Bồ đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, sách tấn bạn đồng tu. Ba việc đó gọi là tịnh nghiệp. Ba tịnh nghiệp này là chính nhân tịnh nghiệp của chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong ba việc này thì việc đầu tiên nói chung cho các việc hành thiện ở thế gian, việc thứ hai nói chung với việc hành thiện của hàng Tam thừa, sau cùng là việc hành thiện của hàng Đại thừa. Đối với việc cầu sinh về Tịnh độ, thì ba việc này mới là nhân duyên Tịnh độ chân chính nhất.
Đáng tiếc là các hành giả Tịnh độ sau này lại bỏ “nhân chính” mà theo “nhân phụ” - phương tiện học đạo tu hành. Ý nghĩa chân chính của việc tịnh hóa thân tâm và thế giới trong pháp môn Tịnh độ do đây mới không thể thực hiện một cách trọn vẹn.
∗ Tư tưởng của Quán kinh rộng rãi hơn và tiếp nhận căn cơ chúng sinh rộng lớn hơn Vô Lượng Thọ kinh: Những người không phát tâm Bồ đề, tạo ngũ nghịch, thập ác cũng đều có thể được vãng sinh.
Nói theo thứ tự Thiền quán trong bản kinh này thì từ việc quán y báo, chính báo trang nghiêm của Đức Phật A Di Đà đến phát nguyện hồi hướng tổng cộng có 16 pháp quán. Ban đầu quán mặt trời lặn, chính là coi hình ảnh mặt trời lặn là Mạn đà la, từ đó mà quán sát thành y báo, chính báo trang nghiêm nơi thế giới Cực Lạc,... pháp quán thứ tám là “quán tưởng tôn tượng” của Đức Phật Vô Lượng Thọ (quán tất cả các tướng hảo của Đức Phật). Pháp quán thứ chín là “lần lượt quán tưởng tất cả các sắc tướng của Đức Phật”, chính là quán sát từ các tướng đẹp nơi sắc thân rồi tiến đến quán sát Pháp thân công đức từ bi nơi tâm của Phật... Pháp quán thứ 14, 15, 16 là trình bày rõ ràng ba phẩm vãng sinh. Trong ba phẩm đó mỗi phẩm lại chia ra làm ba phẩm (bậc) vãng sinh nên tổng cộng thành chín phẩm, đây chính là cơ sở hình thành chín phẩm vãng sinh mà mọi người thường nói.
So sánh giữa Quán kinh và Vô Lượng Thọ kinh chúng ta thấy rõ quan điểm của Quán kinh rộng rãi hơn, tiếp nhận căn cơ chúng sinh cũng rộng lớn hơn. Những hàng Thượng phẩm vãng sinh Tịnh độ đều là những hành giả phát Bồ đề tâm: “Hàng thứ nhất là phát tâm chí thành (Duy Ma kinh gọi là trực tâm), hàng thứ hai là chuyên tâm, hàng thứ ba có tâm hồi hướng phát nguyện”. Như việc từ tâm không giết hại, đầy đủ các giới hạnh, đọc tụng kinh điển Đại thừa Phương đẳng, thực hành sáu pháp quán niệm, hồi hướng phát nguyện là hàng Thượng phẩm thượng sinh. Các hành giả không thể đọc tụng kinh điển Đại thừa Phương đẳng, nhưng có thể khéo giải thích về Đệ nhất nghĩa đế, tin sâu nhân quả, không phỉ báng Đại thừa, thuộc Thượng phẩm trung sinh. Các hành giả chỉ phát tâm Vô thượng Bồ đề, tin nhân quả, không phỉ báng Đại thừa, chính là hàng Thượng phẩm hạ sinh. Hàng Thượng phẩm tu tập chính là phần thứ ba trong ba tịnh nghiệp trước.
Hành giả vãng sinh ở Trung phẩm đều là người tu tập ba nghiệp hoàn toàn thanh tịnh, tức là những người biết làm thiện trong xã hội. Như tu tập các giới luật, không phạm ngũ nghịch, không phạm các lỗi lầm là hàng Trung phẩm thượng sinh. Nếu một ngày một đêm giữ giới thanh tịnh là hàng Trung phẩm trung sinh. Nếu chưa từng một ngày thọ trì giới luật, giống như các bậc chính nhân quân tử ở thế gian, thì hàng ngày có thể hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ, thường làm các việc lành thiện trong đời sống; khi lâm chung nghe được y báo, chính báo trang nghiêm của Đức Phật A Di Đà mà phát nguyện vãng sinh, chính là hàng Trung phẩm hạ sinh. Hành giả Trung phẩm tu tập hai phần đầu trong ba tịnh nghiệp trước, do đó khi sinh về Tịnh độ đều chứng được quả thứ tư trước.
Hàng Hạ phẩm vãng sinh đều là những người từng làm ác. Người làm các nghiệp ác nhưng vẫn không phỉ báng các kinh Phương đẳng, có thể đắc được Hạ phẩm thượng sinh. Người hủy phạm giới luật, trộm đồ của Tăng chúng, tâm không thanh tịnh mà thuyết pháp (vì danh lợi mà giảng nói Phật pháp) có thể sinh về Hạ phẩm trung sinh. Người tạo các nghiệp bất thiện, ngũ nghịch, thập ác, cũng vẫn có thể được sinh về Hạ phẩm hạ sinh. Hàng Hạ phẩm tội ác sâu nặng như vậy, hàng ngày lại không tu tập các thiện nghiệp, làm sao có thể khi mạng sống sắp hết, nhờ lời chỉ dạy của thiện tri thức mà có thể khiến cho người ấy “chắp tay trước ngực niệm Nam mô A Di Đà Phật”, liền được vãng sinh Tịnh độ đây? Ý tứ trong kinh Phật dạy thật khó thấy khó hiểu, nếu không khéo hiểu nghĩa kinh thì sẽ dễ dẫn tới việc mình nhầm rồi khiến người khác cũng nhầm theo vậy.
Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh trình bày có ba điểm hoàn toàn khác với Vô Lượng Thọ kinh: Điểm thứ nhất, Vô Lượng Thọ kinh nói rằng hành giả cầu sinh về Tịnh độ đều phải phát tâm Bồ đề; nhưng Quán kinh lại nói hành giả vãng sinh từ Trung phẩm trở xuống đều chưa từng phát tâm Bồ đề (Vương Nhật Hưu căn cứ vào điểm này mà sửa đổi Đại A Di Đà kinh). Điểm thứ hai, Vô Lượng Thọ kinh nói rõ hành giả vãng sinh về Tịnh độ chỉ trừ những người phỉ báng chính pháp, phạm tội ngũ nghịch thập ác, còn theo Quán kinh thì người ác được sinh về Hạ phẩm. Điểm thứ ba, về vấn đề người làm ác, Chi bản của Vô Lượng Thọ Phật kinh trong phần văn phát nguyện của Đức Phật A Di Đà có ghi (tương đương với hàng Hạ phẩm trong ba phẩm): Người có thể vãng sinh về Tịnh độ là do có thể đời trước làm các việc ác, nhưng đời này đã biết sám hối tội lỗi, vì Phật pháp mà làm các việc lành, chứ không phải nói những người làm ác và tạo các tội ngũ nghịch, thập ác, v.v. trong đời hiện đại; Quán kinh cho rằng ba bậc chúng sinh hàng Hạ phẩm còn làm ác ở đời hiện tại. Qua đây có thể thấy sự tiếp nhận căn cơ chúng sinh trong Quán kinh rộng lớn hơn. Một người thường ngày chưa từng phát tâm Bồ đề, cũng không tu học Phật pháp, lại làm các điều ác, chỉ cần lúc lâm chung biết hối cải thì cũng có thể được vãng sinh.
∗ Giải thích lời kinh: “Những người phạm tội ngũ nghịch, thập ác có thể vãng sinh không?”
Có một ý nghĩa đặc biệt trong sự hình thành giáo hóa của các tôn giáo là đem đến cho nhân loại sự an ủi, khiến họ không còn tuyệt vọng. Nếu chúng ta nói một cách khẳng định rằng, những người này chắc chắn là không có cách nào để chuyển hóa nữa. Như vậy thì trên ý nghĩa lòng đại từ bi, làm lợi ích cho khắp pháp giới chúng sinh sẽ không thể viên mãn trọn vẹn. Bất cứ ai dù có sai lầm đến mức độ nào đi nữa chỉ cần người đó có thể thật sự hồi tâm chuyển ý, sám hối hướng thiện thì vẫn có thể có được tương lai tươi sáng phía trước. Trong pháp Đại thừa (và một bộ phận của Tiểu thừa cũng công nhận) có nói Định nghiệp cũng có thể thay đổi và chuyển hóa.
Cho nên có thể giải thích rằng, những người phạm tội ngũ nghịch và thập ác không thể vãng sinh, nếu như họ không hề biết hồi tâm hướng thiện và nguyện sinh về Tịnh độ. Quán kinh nói những người tạo nhiều nghiệp bất thiện như ngũ nghịch thập ác cũng có thể vãng sinh về Hạ phẩm, là nói về những người đó khi lâm chung có thể hồi tâm hướng thiện.
Tịnh độ đầy đủ cả ba căn gồm thiện hạnh của Đại thừa, thiện hạnh chung cho Tam thừa và thiện hạnh chung của Ngũ thừa. Cho đến những người làm các việc ác đến mức phải đọa vào địa ngục đều có thể tiếp nhận và quy hướng về. Vấn đề này đứng trên lập trường của lòng đại từ bi, vì lợi ích cho khắp pháp giới chúng sinh và ý nghĩa thiện ác đều từ nơi tâm của Phật giáo, thì chỉ cần biết hồi tâm hướng thiện, quy hướng về Đức Phật A Di Đà đương nhiên sẽ được hồi sinh cùng về Tịnh độ.
Nhưng ở đây có một vấn đề rất lớn mà chúng ta không thể ngộ nhận. Những người cả đời chưa từng nghe được Phật pháp, hoặc sinh vào gia đình tà kiến, sa đọa vào trong hoàn cảnh xấu ác, hay phiền não quá mạnh, hoàn cảnh sống quá tệ, tuy có làm ác mà thiện căn không bị đoạn dứt, v.v. Những người ấy khi lâm chung được sự chỉ dạy của các bậc thiện tri thức mà sinh tâm hổ thẹn ăn năn, sám hối về những sai trái trước đây đã làm, thì đây chính là căn cơ của những hành giả vãng sinh về Hạ phẩm. Còn như những người bình thường đã từng làm Sa môn, là cư sĩ Phật tử, đã được nghe Phật pháp, thậm chí còn có thể bàn luận chia sẻ Phật pháp, cũng biết thế nào là thiện, thế nào là ác. Nhưng những người này vẫn làm các việc ác như trước, tự cho rằng chỉ cần khi lâm chung có thể niệm mười niệm cho đến chỉ cần một niệm cũng có thể vãng sinh, suy nghĩ như vậy hoàn toàn sai lầm.
Hoặc có người cho rằng tất cả đều không có gì quan trọng cấp thiết, chỉ cần mười niệm lúc lâm chung là vãng sinh, huống là mình hàng ngày niệm Phật. Họ lại tự nghĩ rằng chỉ cần một câu “Nam mô A Di Đà Phật” thì tất cả đã đủ rồi. Do đó, những người này tuy ở trong Phật pháp mà chưa từng tu tập các công đức hay trì trai giữ giới. Họ đối với mọi người và Phật pháp vẫn nhầm lẫn điên đảo như bao người, mặc sức làm các việc ác. Người hiểu sai lầm như vậy không những không thể khuyên mọi người làm các việc thiện, mà trái lại còn khiến cho người làm ác.
Cho nên, lời lẽ kinh văn trong Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh trình bày rất rõ ràng về việc người làm ác cũng được vãng sinh. Đó là người khi lâm chung, không còn phương pháp nào khác nhưng lại có thể hồi tâm hướng thiện, mới là trường hợp mười niệm lâm chung cũng có thể vãng sinh. Còn trong đời sống thường nhật, nếu khuyên người hàng ngày tu hành niệm Phật, thì nhất định không nên đưa ra cái ý chỉ cần mười niệm lúc lâm chung là đủ. Bởi vì, như thế là tự bản thân mình sai lầm và cũng dễ khiến người khác sai lầm theo. Việc này giống như khi gặp năm mất mùa không có lương thực, ăn trấu cám đã là một điều mong ước khó có thể đạt được rồi. Nhưng nếu trong lúc cuộc sống bình thường mà lại chỉ dạy người ăn trấu cám, cho rằng cơm trắng, bột mỳ là dư thừa không cần thiết, đó chẳng phải là nhầm lẫn điên đảo hại người khác hay sao?
∗ Xưng danh niệm Phật cũng là pháp môn phương tiện riêng vì tất cả những người chuyên làm ác lúc lâm chung mà mở bày vậy.
Quán kinh vốn là phương pháp niệm Phật quán y báo, chính báo trang nghiêm của Đức Phật. Hàng Thượng phẩm và Trung phẩm chú trọng vào việc hồi hướng phát nguyện công đức của các thiện căn. Trừ hàng Trung phẩm hạ sinh (chỉ hướng vào những người làm thiện nhưng lại không học Phật pháp) thì tất cả đều có thể tu tập pháp quán tưởng niệm Phật, dù ít nhiều hay sâu cạn. Hàng Trung phẩm hạ sinh và cả ba bậc vãng sinh của Hạ phẩm ngoài việc phát nguyện hồi hướng thì chú trọng vào việc xưng danh niệm Phật: “Chắp tay trước ngực niệm Nam mô A Di Đà Phật”, bởi vì khi lâm chung thì không thể chỉ dạy họ quán tưởng được nữa.
Theo Quán kinh việc xưng danh niệm Phật cũng là pháp môn phương tiện riêng, vì tất cả những người chuyên làm ác lúc lâm chung mà mở bày vậy. Các hành giả Tịnh độ sau này, bất luận là ai cũng chỉ biết hướng dẫn mọi người chuyên tâm niệm danh hiệu “Nam mô A Di Đà Phật”, đây đâu phải là ý nghĩa căn bản nền tảng của Quán kinh? Quả thật là pháp môn xưng danh niệm Phật không chỉ giới hạn ở lúc lâm chung. Đây là pháp môn đã có từ thời Đức Phật tại thế, chứ không phải pháp phương tiện mà người Trung Quốc tạo lập ra.
e. Phương pháp vãng sinh trong Cổ âm thanh vương Đà la ni kinh: Có thêm pháp trì chú, phương pháp này mục đích để tiếp cận với các hành giả Mật tông dễ dàng hơn.
Trong các pháp môn vãng sinh Tịnh độ còn có phương pháp trì chú, phương pháp này có thể tiếp cận với các hành giả Mật tông dễ dàng hơn. Chú Vãng sinh do Ngài Cương Lương Da Xá thời Tống truyền lại cho rằng: “Có thể diệt được các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, phỉ báng các kinh điển Đại thừa, v.v.” Ngoài ra còn có Cổ âm thanh vương Đà la ni kinh được dịch vào thời nhà Lương (không rõ dịch giả). Bản kinh này ngoài việc chỉ bày pháp môn niệm Phật mười ngày đêm ra, còn có thêm phương pháp trì tụng Cổ âm thanh vương Đà la ni mười ngày đêm.
Các hành giả Tịnh độ ngày nay thường sau khi niệm Phật đều niệm thêm bài chú Vãng sinh. Theo sự truyền lại của Tây Tạng còn có sự kết hợp tu tập giữa pháp môn Tịnh độ của Đức Phật Di Đà và pháp môn trì chú của Đức Phật Trường Thọ.