Xưng danh niệm Phật là pháp môn dễ thực hành, vượt thoát ba cõi, mười niệm vãng sinh; Vì nương vào nguyện lực từ bi của Đức Phật Di Đà, dựa vào tha lực cho nên nói “pháp môn dễ thực hành”. Các vị cao tăng của tông Tịnh độ phần lớn đều kết luận như vậy. Nhưng thông qua việc nghiên cứu pháp môn dễ thực hành và pháp môn khó thực hành được đề cập đến trong kinh luận thì lại phát hiện một sự thật khác1.
1 Đại sư Ấn Thuận, Tịnh độ và thiền, (1951) Đài Loan - nxb Chánh Văn, trang 120 - 121.
9.1 - Pháp môn khó thực hành là hạnh gian khó “hóa độ chúng sinh”. Pháp môn dễ thực hành là hạnh an vui “xây dựng cõi Tịnh độ”.
Các vị danh tăng, đại đức và các cư sĩ hoằng dương Tịnh độ đều y cứ vào Thập trụ Tỳ bà sa luận của Bồ tát Long Thọ, chứng minh niệm Phật là pháp môn dễ thực hành. Nhưng vấn đề tư tưởng của Bồ tát Long Thọ nương vào Di Lặc Bồ tát sở vấn kinh mà hình thành thì mọi người lại hoàn toàn không biết.
Bộ kinh này do Ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch, thuộc quyển số 111 trong Đại bảo tích kinh, cũng từng được Ngài Trúc Pháp Hộ phiên dịch vào thời Tây Tấn. Trong kinh có ghi rõ: “Bồ tát Di Lặc trong đời quá khứ khi tu hạnh Bồ tát, thường mong muốn thành lập các cõi Tịnh độ, làm trang nghiêm các cõi Tịnh độ. Ta (Đức Phật Thích Ca) thời quá khứ khi tu hạnh Bồ tát, thường mong muốn hóa độ các chúng sinh, làm trang nghiêm các chúng sinh”. Qua đây có thể thấy Đức Phật Thích Ca lấy việc hóa độ chúng sinh làm hạnh nguyện tu hành, còn Bồ tát Di Lặc thì lấy việc xây dựng cõi Tịnh độ làm hạnh nguyện. Đây chính là sự khác nhau giữa pháp môn dễ thực hành và pháp môn khó thực hành.
Do vậy nói: “Bồ tát Di Lặc trước đây khi tu Bồ tát đạo (việc khó làm có thể làm, việc khó nhẫn có thể nhẫn), không thể bố thí tay chân đầu mắt, chỉ dùng pháp môn an lạc phương tiện khéo léo để tích tập công đức dần thành tựu Vô thượng Chính đẳng Bồ đề”. Nói đến pháp môn an lạc phương tiện khéo léo tức là việc Bồ tát Di Lặc ngày đêm ba thời, y phục nghiêm thân rồi quỳ gối sát đất hướng về mười phương mà nói bài kệ rằng: “Con xin sám hối tất cả các lỗi lầm trong quá khứ, khuyến khích thực hành các điều đạo đức, dốc lòng đỉnh lễ chư Phật, để đạt được trí tuệ vô thượng”. (bản dịch thời nhà Tấn).
Bảo tích kinh có ghi chép đầy đủ các phương pháp như: Lễ kính chư Phật, sám hối, phát nguyện, tùy hỷ, thỉnh Phật thuyết pháp, thỉnh Phật trụ thế, tùy thuận chư Phật Bồ tát, gần giống với bài tụng về hạnh nguyện lớn của Bồ tát Phổ Hiền, đây là pháp môn dễ thực hành. Ý nghĩa của từ “dễ thực hành” tức là hạnh an lạc, lấy việc xây dựng và làm thanh tịnh các cõi Phật mà phát nguyện tu tập. Còn phương pháp tu tập của Đức Phật Thích Ca là pháp môn khó thực hành, bởi vậy nói: “Trong quá khứ Ta vì cầu đạo quả đã chịu vô lượng gian khổ mới có thể tích tập công đức, để thành tựu Chính giác”. Trong kinh có đưa ra câu chuyện tiền kiếp về vua Nguyệt Quang tự lấy mắt mình bố thí, đó cũng là đời quá khứ của Đức Phật Thích Ca. Câu chuyện này được lấy làm minh chứng sáng tỏ cho lòng đại bi cứu giúp khổ nạn cho chúng sinh, đây là pháp môn khó thực hành. Ý nghĩa của từ “khó thực hành” tức là tu tập những khổ hạnh, như có thể làm những việc khó làm, có thể nhẫn các việc khó nhẫn.
Do vậy, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phát tâm nguyện rằng: “Ở ngay nơi đời ác năm trược, độ cho các chúng sinh tạo đủ ác nghiệp, tham sân, cấu uế sâu nặng, bất hiếu cha mẹ, không kính trọng sư trưởng cho đến quyến thuộc bất hòa với nhau đều được thành Phật đạo”. Còn Bồ tát Di Lặc phát tâm: “Khi nào chúng sinh hết dâm dục, nóng giận và si mê; thành tựu được cõi nước thanh tịnh đầy đủ thập thiện thì Ngài mới thành Chính giác”. Tuy nhiên các pháp Đại thừa vốn tương thông với nhau, hạnh nguyện của chư Phật, Bồ tát thì bình đẳng, hàng sơ học Đại thừa không ngại dùng đủ các pháp môn đơn giản để thâm nhập Phật đạo (như phẩm Vãng sinh trong Trí luận đã nói) nên có hai con đường (phương pháp) lớn này vậy.
Bồ tát Long Thọ trong Trí độ luận có nói: “Bồ tát có hai loại: Một là hàng Bồ tát có tâm từ bi, phần nhiều vì lợi ích chúng sinh; Hai là hàng Bồ tát phần nhiều tích tập công đức thành Phật. Những hành giả ưa thích tích tập công đức thành Phật sẽ đạt đến thế giới của vô lượng chư Phật Nhất thừa thanh tịnh”. Có thể thấy trong lĩnh vực thực hành phương tiện thiện xảo, nếu nói về hàng Bồ tát phần nhiều tích tập công đức thành Phật, thì trong pháp môn Tịnh độ đại diện tiêu biểu chính là Bồ tát Di Lặc.
Hàng Bồ tát ban đầu tu học theo con đường của chư Phật, có thể thiên về một phương pháp tu tập, hoặc ưu tiên chú trọng vào việc thành tựu chúng sinh, hoặc ưu tiên chú trọng vào việc trang nghiêm cõi Phật. Hiểu rõ được ý nghĩa chân thật của Phật pháp thì đây chỉ là xu thế thường thấy khi bắt đầu tu tập hạnh Bồ tát, do vậy có Trí tăng thượng, Bi tăng thượng hoặc Tùy tín hành, Tùy pháp hành, v.v. Còn đối với hành giả muốn thành tựu Bồ đề viên mãn cứu cánh, thì cả hai việc trang nghiêm cõi Phật và cứu độ chúng sinh đều không thể thiếu sót được.
Cũng vậy, đối với người học Phật bước đầu tiên hạ thủ công phu có hai phương tiện: Một là bắt đầu từ việc niệm Phật, lễ Phật; Hai là bắt đầu từ việc bố thí, trì giới, nhẫn nhục. Sau đó là các pháp môn khó thực hành, tu tập các hạnh khó khổ vì lòng đại bi, lợi ích chúng sinh. Các phương pháp trước là thuộc về pháp môn dễ thực hành, là hạnh an lạc với phương tiện thiện xảo. Nhưng kỳ thực vẫn là do sự khác biệt nơi căn cơ của chúng sinh mà hình thành, tuy nhiên trong quá trình tu học thì có thể thống nhất với nhau.
9.2 - Tu tập pháp môn dễ thực hành, quan trọng nhất là “Sám hối, Tùy hỷ và Khuyến thỉnh”.
Pháp môn dễ thực hành là hạnh tu Tịnh độ của hành giả phần nhiều tích tập công đức thành Phật. Theo Di Lặc Bồ tát sở vấn kinh trình bày thì tương đồng với mười hạnh nguyện lớn của Bồ tát Phổ Hiền. Còn trong kinh luận thì không nhất định là mười việc, mà quan trọng nhất là: Bố thí, Tùy hỷ và Khuyến thỉnh.
(1) Phật thuyết Văn Thù hối quá kinh do Ngài Trúc Pháp Hộ dịch có ghi: 1. Sám hối; 2. Phát tâm; 3. Khuyến trợ; trong khuyến trợ lại có tùy thuận học Phật, khuyến thỉnh thuyết pháp, trụ thế, cúng dường. Hành giả tu tập thực hành các pháp này và lấy việc sám hối là chủ đạo. Tư duy yếu lược pháp do Ngài La Thập dịch cũng có ghi rõ: “Nếu hành giả vì nhân duyên tội báo trong quá khứ (khi niệm Phật) không thấy được chư Phật nên một ngày một đêm sáu thời thực hành các pháp sám hối, tuỳ hỷ, khuyến thỉnh dần dần sẽ được thấy Phật.” Các học giả tông Thiên thai từ đây mà lập ra năm pháp sám hối.
(2) Mạn đà Bạt đà la Bồ tát kinh do Ngài Nhiếp Đạo Chân dịch có đề cập các phương pháp: 1. Sám hối; 2. Nhẫn (tức là tán đồng, xưng tán Như Lai); 3. Lễ bái; 4. Nguyện lạc (tức tùy hỷ); 5. Khuyến thỉnh (thuyết pháp, trụ thế); 6. Trì thí (tức hồi hướng). Các phương pháp trên đây cùng với các phương pháp được đề cập tới trong Văn Thù kinh và Phổ Hiền kinh phần lớn là giống với Phẩm Hạnh nguyện.
(3) Ly Cấu Tuệ Bồ tát sở vấn lễ Phật pháp kinh do Ngài Na Đề thời Đường dịch, bao gồm các phương pháp: 1. Lễ bái; 2. Sám hối; 3. Khuyến thỉnh; 4. Hồi hướng; 5. Phát nguyện. Trong kinh này lấy việc lễ Phật là chính yếu.
Trong các luận giải của Bồ tát Long Thọ cũng nói rõ về phương pháp tu tập này. Như Thập trụ Tỳ bà sa luận đưa ra các phương pháp: Niệm Phật (bao gồm cả lễ Phật), sám hối, khuyến thỉnh (thuyết pháp, trụ thế), tùy hỷ, hồi hướng. Các hành giả tu theo hạnh Bồ tát Đại thừa ở Ấn Độ thường thực hành pháp môn phương tiện này. Trí luận quyển 7 có nêu rõ: “Phương pháp tu học của Bồ tát, ba thời ban ngày cộng với ba thời vào ban đêm, thường thực hành ba việc: Sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh (thuyết pháp, trụ thế). Bên cạnh đó còn đưa ra ba phẩm lễ Phật của Bồ tát: “Một là phẩm Hối quá, hai là phẩm Tùy hỷ Hồi hướng, ba là phẩm Khuyến thỉnh chư Phật” (quyển 61), các việc này đều thực hành khi lễ Phật.
Về các nội dung cụ thể thì được trình bày rõ trong Văn Sám hối (Bát thập bát Phật, v.v.) của Trung Quốc, giản lược lại thì chính là mười nguyện trong Quán văn. Văn Thù Sư Lợi phát nguyện kinh do Ngài Giác Hiền dịch là bài tụng hạnh nguyện trong phẩm Tứ thập Hoa nghiêm Phổ Hiền hạnh nguyện. Pháp môn Đại thừa này có mối liên quan đặc biệt với Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền, bài tụng phát nguyện của Bồ tát Long Thọ cũng tương tự như vậy.
Qua đây có thể thấy hạnh tu Tịnh độ của hành giả ưa thích tích tập công đức thành Phật, tu tập pháp môn dễ thực hành phương tiện thiện xảo vốn không chỉ hạn chế ở mười việc. Mười việc này là dựa vào nghi thức trong Hoa nghiêm kinh mà thực hành theo, còn lại kính lễ chư Phật, xưng tán Như Lai, quảng tu cúng dường (Phật) trong phẩm Hạnh nguyện tương đương với phương pháp niệm Phật (quán tưởng hoặc xưng danh). Đây là nghi thức tôn giáo đặc thù, bởi vì nghi thức này là phương tiện tu hành tích tập công đức thành Phật và cũng là phương tiện sám hối.
Phương pháp tu học của Bồ tát ở Ấn Độ là một ngày sáu thời hành đạo, số lần tu thì nhiều nhưng thời gian lại ngắn. So với thời khóa sớm tối của Trung Quốc thì ý nghĩa giống nhau. Tuy nhiên ở Trung Quốc thì số lần tu ít mà thời gian lại kéo dài, không thể tránh được việc mất đi diệu dụng của pháp môn dễ thực hành.
Pháp môn dễ thực hành (không chỉ có phương pháp niệm Phật) quả thật là có liên quan tới pháp môn Tịnh độ. Nếu cho rằng tu tập theo phương pháp này có thể thành Phật, như vậy là câu nệ vào câu chữ mà làm sai lệch nội dung, không thể thấu tỏ được ý tứ sâu xa của Phật pháp.
9.3 - Pháp môn dễ thực hành tuy nói rằng phát nguyện để sinh về Tịnh độ, nhưng cũng chính là phương tiện tiền đề cho pháp môn khó thực hành.
Ở đây chúng ta có thể dựa vào các luận giải của Bồ tát Long Thọ mà có được nhận thức đúng đắn. Pháp môn dễ thực hành mà chúng ta thường nói cũng vốn là y cứ vào các luận giải của Bồ tát Long Thọ. Thập trụ Tỳ bà sa luận của Ngài Long Thọ có nhắc đến việc Bồ tát cần phải tích tập tư lương phúc đức, trí tuệ. Theo đó, hành giả cần phải có phúc đức, trí tuệ như thế nào mới có thể chứng đắc không thoái chuyển, hoặc cảm nhận được cái khó thực hành của Bồ tát đạo.
Do vậy hỏi rằng: “Hành giả tu tập đến địa vị không thoái chuyển, cần làm những việc khó làm, trải qua thời gian tu tập lâu dài mới có thể thành tựu, có khi ở lại quả vị Thanh văn, Bích Chi Phật, v.v. Nếu chư Phật có dạy pháp môn dễ thực hành để mau chóng đạt được quả vị không thoái chuyển, mong Ngài vì chúng con mà giảng nói”. Đây là lời thưa hỏi về phương thức của pháp môn dễ thực hành. Ngài Long Thọ trả lời: “Như lời ông trình bày thì đó là một người yếu đuối, kém cỏi, không có tâm rộng lớn, không phải là lời của bậc có chí trượng phu nói ra”. Nói một cách đơn giản, một người có tâm ý như vậy thì hoàn toàn không có phong thái của một vị Bồ tát.
Bồ tát Long Thọ đối với những người yếu đuối kém cỏi mong cầu pháp môn dễ thực hành quả thật là đã giáng cho một đòn để cảnh tỉnh. Nhưng chư Phật, Bồ tát lấy lòng từ bi làm cội gốc, để tiếp nhận và hướng dẫn cho những chúng sinh như vậy tu hành theo hạnh Bồ tát, cho nên cũng phương tiện mà giảng nói pháp môn dễ thực hành. Vì thế mà tiếp đó Bồ tát Long Thọ lại chỉ dạy rằng: “Nếu ông nhất định muốn nghe phương tiện này (pháp môn dễ thực hành), ta sẽ vì ông mà nói. Phật pháp có vô lượng pháp môn, cũng như con đường ở thế gian có đường đi khó khăn, có đường đi dễ dàng. Ví như đường bộ đi lại vất vả (khó đi), đường thủy nhờ thuyền bè nên dễ dàng di chuyển (dễ đi). Con đường tu tập của Bồ tát cũng vậy, hoặc có người siêng năng tinh tấn thực hành (pháp môn khó thực hành), hoặc có người dùng phương tiện là lòng tin để thực hành (pháp môn dễ thực hành). Khó thực hành tức là khổ hạnh, dễ thực hành là lạc hạnh. Xét về ý nghĩa thì thấy khác biệt rõ ràng, nhưng với việc nhanh hay chậm thành tựu Phật đạo thì lại không có liên quan gì”.
Nói về pháp môn dễ thực hành chính là “niệm các Đức Phật trong mười phương, đọc tụng danh hiệu của các Ngài”. Lại có Đức Phật A Di Đà và rất nhiều các Đức Phật nữa, cũng đều nên cung kính lễ bái và đọc tụng danh hiệu của các vị ấy, “nhớ nghĩ lễ bái, dùng kệ ngợi khen”. Những hành giả mong cầu pháp môn dễ thực hành cho rằng chỉ cần nhất tâm niệm Phật thì mọi việc đều được thành tựu. Cho nên Bồ tát Long Thọ nhắc nhở: “Những hành giả mong đạt đến địa vị bất thoái chuyển thì không chỉ dừng lại ở việc nhớ nghĩ, đọc tụng danh hiệu, lễ kính chư Phật, mà còn cần phải ở trước chư Phật sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ và hồi hướng”.
Qua đây có thể thấy pháp môn dễ thực hành không chỉ có niệm Phật mà bao gồm mười hạnh nguyện lớn được trình bày trong phẩm Hạnh nguyện. Có thể tu tập pháp môn dễ thực hành như vậy thì “phúc đức tăng trưởng, tâm tính hiền hòa, đầy đủ niềm tin vào vô lượng công đức thanh tịnh, sâu rộng của chư Phật Bồ tát, thành tựu đệ nhất công đức, thương yêu tất cả chúng sinh”.
Tiếp theo Bồ tát Long Thọ trình bày về sáu pháp Ba la mật. Có thể thấy việc niệm Phật, sám hối, khuyến thỉnh quả thực là phương tiện để tăng trưởng phúc đức, hài hòa tâm tính. Nhờ vậy hành giả mới có thể sinh tâm tin hiểu đối với Đệ nhất nghĩa thâm sâu của Phật pháp, phát khởi lòng từ bi thương yêu các chúng sinh đau khổ, tinh tấn tu tập các hạnh của Bồ tát (tức là Sáu pháp Ba la mật). Tuy nói rằng tu tập pháp môn dễ thực hành để phát nguyện sinh về Tịnh độ rồi ở Tịnh độ tu tập, nhưng cũng chính là phương tiện tiền đề cho pháp môn khó thực hành.
Trong kinh luận đều thống nhất cho rằng việc niệm Phật có thể sám hối nghiệp chướng, tu bồi công đức. Đồng thời là phương tiện tuyệt vời để tiêu trừ nghiệp chướng, nuôi dưỡng phúc tuệ, nhưng không thể cho đây là phương tiện cứu cánh. Tuy nhiên, hành giả Tịnh độ ở Trung Quốc từ xưa đến nay, bởi vì: “Một người truyền chuyện không đâu, muôn người truyền lại thực hầu như in”; nên họ cho rằng Ngài Long Thọ nói về pháp môn dễ thực hành là chỉ cần tu tập một pháp môn niệm Phật thì bất cứ việc gì cũng có thể thành tựu. Việc này thật đã làm cô phụ lòng từ bi của Bồ tát Long Thọ rồi.
9.4 - Pháp môn dễ thực hành thì khó thành tựu (chậm thành tựu) Phật quả. Trái lại, pháp môn khó thực hành lại dễ thành tựu (nhanh thành tựu) Phật quả.
Các phương pháp: Lễ Phật, niệm Phật, tán Phật, tùy hỷ, hồi hướng, khuyến thỉnh và đặc biệt là xưng tụng danh hiệu chư Phật, so với các hạnh Bồ tát như: Xả bỏ thân tâm vì chúng sinh, vì Phật pháp nhẫn chịu các khó khăn, khổ nạn thì đương nhiên là dễ dàng hơn rất nhiều. Đây là ý nghĩa căn bản của pháp môn dễ thực hành. Mọi người thường cho rằng nhờ nguyện lực từ bi của Đức Phật A Di Đà thì chỉ cần niệm Phật là có thể vãng sinh, vượt thoát ba cõi, gọi là pháp môn dễ thực hành. Đây hoàn toàn chẳng phải ý nghĩa gốc rễ của kinh luận.
Trong quá trình tu tập, các pháp môn dễ thực hành để sinh Tịnh độ này rất dễ hành trì, không có chướng ngại, điều này các kinh luận đều đã trình bày. Nhưng tu tập theo pháp môn dễ thực hành thì rất khó thành Phật đạo, còn pháp môn khó thực hành trái lại rất dễ thành tựu Phật quả. Việc này giống như Di Lặc Bồ tát sở vấn hội trong Bảo tích kinh có ghi: “Phương pháp tu hành của Đức Phật Thích Ca trong quá khứ là pháp môn khổ hạnh khó thực hành, phương pháp tu hành của Bồ tát Di Lặc là pháp môn an lạc hạnh dễ thực hành”.
Bồ tát Di Lặc phát tâm sớm hơn Đức Thích Ca bốn mươi kiếp, cũng đã chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn (ngôi vị bất thoái chuyển) từ lâu. Tuy nhiên, như chúng ta thấy, trong khi Đức Thích Ca đã thành Phật trước thì Ngài Di Lặc còn đợi hạ sinh thành Phật ở tương lai. Đây chẳng phải là chứng cứ rõ ràng chứng minh: “Pháp môn dễ thực hành thì khó thành Phật, còn pháp môn khó thực hành lại dễ thành Phật” đó ư?
Bồ tát Di Lặc tu tập pháp môn dễ thực hành nên vẫn chưa thành Phật, Đức Phật Thích Ca nhờ tu tập pháp môn khó thực hành mà đã sớm thành Phật. Theo thuyết xưa kể lại, Đức Thích Ca khi còn tu Bồ tát đạo, trải qua bảy ngày đêm chiêm ngưỡng Phật, rồi làm kệ tán thán ngợi khen mà có thể siêu vượt chín kiếp để thành Chính giác. Nói kệ tán thán chư Phật là pháp môn dễ thực hành, đây chẳng phải là nói tu tập pháp môn dễ thực hành thì mau chóng thành Phật đó sao? Thuyết này rất dễ khiến mọi người hoài nghi, nên ở đây xin tóm lược giải thích.
Pháp môn dễ thực hành và pháp môn khó thực hành vốn chỉ trình bày với hàng sơ phát tâm tu tập. Đối với hàng sơ học thì có phân biệt hai phương pháp như vậy, còn tu hành đến khi thành Phật đạo thì công đức giáo hóa chúng sinh và xây dựng các cõi Tịnh độ của chư Phật đều cần phải viên mãn. Nhưng việc này cũng không hề chứng minh rằng tu tập pháp môn dễ thực hành có thể dễ dàng thành tựu, trái lại chính là minh chứng cho việc tu tập pháp môn khó thực hành sẽ dễ thành tựu đạo quả.
Theo thuyết xưa kể lại, thời bấy giờ Bồ tát Thích Ca tâm còn chưa thuần thục, còn các đệ tử của Ngài tâm đều đã thuần thục. Trong khi Bồ tát Di Lặc thì tâm đã thuần thục, nhưng các đệ tử của Ngài tâm vẫn còn chưa thuần thục. Bởi vì: “Bồ tát Thích Ca phát tâm rộng lớn làm lợi ích cho chúng sinh, vì chúng sinh hơn là vì bản thân mình; còn Bồ tát Di Lặc lại thiên về tự lợi hơn là lợi tha” (Đại trí độ luận, quyển 4). Điều này rõ ràng nói rằng: Đức Thích Ca thực hành pháp môn khó thực hành, rộng giáo hóa chúng sinh. Các đệ tử của Ngài tâm đã thuần thục, tức là công đức lợi tha của Ngài đã viên mãn, nhưng công đức tự lợi của Ngài vẫn chưa trọn vẹn. Bồ tát Di Lặc chú trọng tu tập hạnh Tịnh độ, sớm đã chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn, tâm Ngài cũng đã thuần thục. Nhưng Bồ tát Di Lặc ít chú trọng đến việc lợi tha, không tập trung tu tập các pháp môn khó thực hành, nên tâm các đệ tử của Ngài chưa được thuần thục. Cũng bởi vậy mà công đức lợi tha của Bồ tát Di Lặc chưa được viên mãn. Vì lý do đó mà việc tinh tiến tán thán chư Phật của Đức Thích Ca mau chóng thành tựu. Đây là dẫn chứng vô cùng hợp lý, khẳng định cho việc tu tập pháp môn khó thực hành trước thì sẽ dễ dàng thành Phật đạo.
Điều này cũng giống như việc vẽ thân và điểm mắt rồng, hai việc này đều không thể thiếu khi muốn vẽ được một con rồng trọn vẹn vậy. Việc giáo hóa chúng sinh và xây dựng các cõi Tịnh độ là những hạnh nguyện nhất định cần được viên mãn để thành tựu Phật quả. Đức Phật Thích Ca tu tập pháp môn khó thực hành giống như là vẽ thân rồng trước, để đến khi thân rồng đã vẽ xong, thì việc tinh tấn tán thán chư Phật giống như điểm mắt rồng, chỉ cần chấm một nét bút là đã hoàn thiện hình ảnh một con rồng. Bồ tát Di Lặc bắt đầu hành trình của mình bằng việc tu tập pháp môn dễ thực hành, giống như vẽ mắt rồng trước, chỉ cần một chấm bút là xong. Nhưng còn thân của rồng thì không thể vội vàng trong chốc lát mà vẽ xong được. Cũng như thế công đức của việc lợi tha không thể nhanh chóng, dễ dàng mà có thể hoàn thiện.
Như vậy, việc siêu vượt chín kiếp để thành tựu Phật đạo khi trước của Đức Thích Ca chính là nhờ việc tu tập pháp môn khó thực hành từ nhiều đời nhiều kiếp trước, “tâm làm lợi ích chúng sinh của Ngài rộng lớn vô cùng”. Trên thực tế, những vấn đề này đều là phương tiện để dẫn dắt cho hàng sơ học, còn hành giả tu học hạnh Bồ tát để thành Phật thì tất cả các công đức đều cần phải thành tựu viên mãn. Tu tập pháp môn dễ thực hành khó thành tựu đạo quả, còn tu tập theo pháp môn khó thực hành sẽ mau chóng thành tựu đạo quả. Đây chính là lời dạy chân thật của chư Phật, chư Tổ trong kinh luận.
Các chúng sinh tu tập trong cõi thế gian này thì dễ bị lui sụt, còn chúng sinh sinh về Tịnh độ có hoàn cảnh tốt để tu tập và không còn bị thoái lui. Nhưng nếu nói về thời gian lâu mau, thì việc tu tập ở cõi thế gian sẽ nhanh hơn việc tu tập ở cõi Tịnh độ rất nhiều. Như Đại A Di Đà kinh quyển hạ có ghi: “Ở nơi cõi đời uế trược kham nhẫn này, trong một ngày đêm mà biết tu tập các công đức, làm các điều thiện lành, từ bi chính kiến, giữ gìn trai giới thanh tịnh thì công đức hơn cả việc tu tập ở cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà 100 năm”. Duy Ma kinh cũng trình bày: “Bồ tát ở cõi này đối với chúng sinh, lòng đại bi vững chãi đúng thật như lời các Ngài đã ngợi khen. Lại nữa, các Ngài làm lợi ích cho chúng sinh trong một đời còn hơn trăm nghìn kiếp tu hành ở cõi nước khác (các cõi Tịnh độ khác). Vì sao? Vì cõi Ta bà này có mười điều lành mà các Tịnh độ khác không có”.
Mười điều lành tức là sáu pháp Ba la mật, v.v. Cõi Tịnh độ là do bảy báu xây dựng, vô cùng giàu có trang nghiêm, không ai phải lo lắng về các vấn đề cơm ăn, áo mặc, nên ở đó không thể thành tựu được công đức bố thí. Ở thế gian người làm ác còn nhiều nên cần tu hạnh nhẫn nhục; ngược lại ở cõi Tịnh độ đều là các bậc Thượng thiện nhân, nên không có cơ hội để tu tập nhẫn nhục. Ở thế gian có các việc như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, v.v. nên cần phải tu trì giới luật; trái lại, ở thế giới Tịnh độ không có người nữ, hoặc nam nữ cũng không còn tâm chiếm hữu nhau, do đó đâu có giới dâm mà giữ. Những nhu cầu cần thiết cho cuộc sống đều đầy đủ, không thiếu thì làm gì có giới trộm cắp. Các công đức này khi đã sinh về Tịnh độ đều khó có cơ hội để tu trì. Cõi Tịnh độ cũng giống như thời đại đất nước thái bình thịnh vượng, nên các bậc anh hùng chẳng có cơ hội để phát huy tài năng võ nghệ của mình, cũng chẳng thể biểu hiện được tài năng của bản thân hay là lập chiến công lớn trong việc cứu nước cứu dân.
Thế gian là nơi khó tu hành, nhưng nếu khó như vậy mà vẫn có thể tu hành thì mới thật là vĩ đại. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở ngay tại thế gian này tu hành mà thành tựu được đạo quả, nên Ngài được các Đức Phật trong mười phương hết sức tán thán khen ngợi. Như trong A Di Đà kinh, Đức Phật có kể, các Đức Phật cũng đều khen ngợi công đức thật khó có thể nghĩ bàn của ta, nên nói lời này: “Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm được các việc vô cùng khó khăn, hiếm có ai làm được; có thể ở ngay trong cõi Ta bà với năm thứ ác trược, đầy phiền não khổ đau, v.v. mà thành tựu được đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác”. Trừ cái chướng Bồ tát sở vấn kinh (quyển 2), Bảo tích kinh, Bảo vũ kinh, Thắng Thiên Vương Bát nhã kinh, v.v. đều có trình bày về việc tu hành ở thế gian này tuyệt vời và cao siêu hơn ở các cõi Tịnh độ rất nhiều.
Trong phẩm 10 của Trí độ luận có thể nói Ngài Long Thọ đã trình bày một cách rõ ràng nhất: “Ở thế giới Ta bà này, những điều kiện đưa đến an vui thì ít, mà lại có đầy đủ ba đường ác với đầy rẫy những phiền não, khổ đau của già, bệnh, chết, v.v. dễ khiến chúng sinh sinh tâm tưởng chán ghét muốn rời xa, cũng nhờ vậy nên có được trí tuệ lợi căn. Các vị Bồ tát ở nơi kia (cõi Tịnh độ), thế giới toàn là bảy báu, các loài cây báu, tâm vừa nghĩ muốn ăn uống gì liền được như ý, cuộc sống như thế rất khó sinh tâm chán ghét (không hài lòng với thực tại) do vậy mà trí tuệ khó có thể bén nhạy.
Giống như một con dao sắc mà tiếp xúc với đồ ăn ngon, thời gian lâu sẽ sinh rỉ sét, nếu lấy đá mài dao thì có thể sạch hết rỉ sét và dao sẽ trở lên sắc bén. Các vị Bồ tát cũng không khác, các Ngài nếu sinh nơi thế giới hỗn tạp, trí tuệ của các Ngài nhờ được mài dũa trong gian khó mà càng trở nên lanh lợi, sắc sảo. Một con người lúc còn nhỏ chịu khó, siêng năng rèn luyện thì có thể phát triển nhiều tài năng vậy”.
Cõi thế gian này quả thật là có quá nhiều khổ đau, nhưng với việc phát tâm tu hành Bồ tát đạo thì lại vô cùng thù thắng. Bởi vậy chúng ta không lạ gì khi Đức Thích Ca phát tâm muộn mà lại có thể thành tựu Phật quả sớm như vậy. Pháp môn dễ thực hành có thể nhanh chóng đạt được quả vị bất thoái chuyển, nhưng khi đã sinh lên cõi Tịnh độ thì quá trình tu hành sẽ bị trì trệ. Cõi thế gian tu hành dù khó đạt được quả vị bất thoái chuyển, nhưng lại giống như phá tan được cửa ải khó khăn nhất, có thể thẳng tiến về phía trước mà thành Phật đạo. Pháp môn dễ thực hành hay pháp môn khó thực hành, Tịnh độ hay thế gian này vốn đều có ưu điểm riêng.
Những nhận định trên đây, vừa căn cứ nơi kinh luận, vừa thông qua thực tế để chứng minh. Hiểu rõ được ý tứ của kinh luận mới có thể đạt được diệu dụng của Phật pháp. Pháp môn dễ thực hành và pháp môn khó thực hành đều là những phương tiện hy hữu. Chỗ nương tựa của Bồ tát chính là những chúng sinh đau khổ. Vì chúng sinh còn đau khổ, vì chính pháp đang suy giảm nên mới phát tâm Bồ đề, đây là con đường đúng đắn chân chính của pháp Đại thừa. Dùng phương tiện khéo léo theo con đường an vui (pháp môn dễ thực hành) cũng là pháp môn rất tinh tế vi diệu. Hành giả nương theo đó mà tu hành có thể tích tập các công đức, sám hối tiêu trừ các nghiệp chướng, giúp tín tâm thêm kiên cố, sự tu tập ngày càng vững chãi, không còn bị đọa lạc. Tuy nhiên, để Phật pháp được trường tồn mãi mãi ở thế gian này, rất cần có những hành giả quên mình vì Phật pháp, vì chúng sinh, không ngại khó khăn, gian khổ và luôn nỗ lực tinh tấn tu hành.