Qua những nghiên cứu và thảo luận trên đây, có thể kết luận rằng: Hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ nên lấy cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà làm quả vị viên mãn; Lấy cõi Tịnh độ nhân gian của Đức Di Lặc làm việc thiết yếu; Lấy việc trụ vào tâm từ bi, trụ vào pháp tính Chân như nơi cõi Tịnh độ của Phật A Súc để làm nhân căn bản; Lấy hạnh nguyện trang nghiêm nơi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà làm quả vị rốt ráo sau cùng. Trong quá trình tu tập pháp môn Tịnh độ, ban đầu cần chú trọng vào “chính nhân” của Tịnh độ.
Cần xác định rõ pháp môn khó thực hành trên thực tế lại dễ thành đạo. Nếu tự thấy tâm tính của mình chưa đủ mạnh mẽ, nghiệp chướng còn sâu nặng, chúng ta có thể kết hợp tu tập theo con đường an lạc (pháp môn dễ thực hành) làm phương tiện thiện xảo như tinh tấn niệm Phật, siêng năng sám hối. Nếu thấy căn cơ của mình thích hợp với lời Phật dạy, muốn chuyên tu theo hạnh Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà, quý vị có thể tu tập theo tôn chỉ “vạn thiện đồng quy” của Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ - hóa thân của Đức Phật A Di Đà (theo thuyết xưa kể lại). Đó là tích tập căn lành, tu tập nghiệp tốt, nhờ vậy mới kiên cố vững chãi.
Sau cùng, hành giả Tịnh độ tu tập theo con đường của hạnh an vui với phương tiện thiện xảo nhất định cần phải ghi nhớ lời dạy của chư Phật, chư Tổ trong kinh luận: “Không thể dùng chút ít thiện căn phúc đức nhân duyên mà có thể sinh về cõi Cực Lạc kia”. (A Di Đà kinh) Hoặc là “Hành giả muốn thành tựu được địa vị không thoái chuyển, thì không chỉ có đọc tụng danh hiệu, nhớ nghĩ và lễ bái mà thôi” (Thập trụ Tỳ bà sa luận). Có như vậy mới có thể đạt được công dụng tuyệt vời của con đường tu theo hạnh an vui, không cô phụ lòng từ bi của chư Phật, Bồ tát.
Giảng tại Tịnh Nghiệp Lâm Thanh Sơn, Hồng Kông
Mùa đông năm 1951,
do Tục Minh và Diễn Bồi ghi lại