Theo mô tả trong Di Lặc thượng sinh kinh, Tịnh độ Đâu Suất ở trên cõi trời là Tịnh độ Di Lặc, cũng chính là thế giới hoàn mỹ trên cõi trời của chúng ta. Tịnh độ Đâu Suất cũng được gọi là nội viện Di Lặc do Bồ tát Di Lặc giảng kinh thuyết pháp tại đó. Vậy Tịnh độ này như thế nào?
3.1 - Là thế giới từ Niết bàn hướng đến nhân gian
Bồ tát Di Lặc và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xưa kia cùng nhau phát tâm tu hành, nhưng Đức Thích Ca Mâu Ni sớm đã thành tựu Phật quả, còn Bồ tát Di Lặc vẫn ở trong nội viện Di Lặc tu hạnh Bồ tát. Bởi do thuở ban đầu khi các Ngài phát tâm thì đều xuất phát từ nguyện lực của tâm đại bi, đều vì nhớ nghĩ tới chúng sinh ở thế giới Ta bà mà phát nguyện hóa độ, nhưng hạnh nguyện lại không giống nhau.
Nội viện Đâu Suất là cõi trời Đâu Suất trong Dục giới, cách thế giới của chúng ta không xa. Muốn sinh về Tịnh độ Di Lặc, chúng ta không cần phải tu hành gian khổ như các cõi Tịnh độ khác, chỉ cần quy y Tam Bảo, giữ giới trong sạch, bố thí đúng pháp và phát nguyện sinh về là được. Nhờ các phương tiện khéo léo và lòng từ bi của Bồ tát Di Lặc khiến cho các chúng sinh trong thế giới này dễ dàng được hóa độ. Chúng ta có thể lấy ví dụ giống như có một giáo sư đại học tự nguyện đến dạy ở một trường tiểu học vậy. Mặc dù có trình độ cao và phương pháp dạy học cũng rất tốt, nhưng ông ấy lại đồng ý dạy các em học sinh tiểu học. Đây chính là tinh thần từ Niết bàn hướng đến thế gian.
Bồ tát Quán Thế Âm là vị Bồ tát có lòng từ bi rộng lớn, Bồ tát Di Lặc cũng vậy. Ngài có tên gọi khác là Từ Thị, nhờ danh hiệu này nên chúng ta biết được Ngài cũng là một bậc Thánh nhân với lòng từ bi rộng lớn. Trước đây thầy Từ Hàng xây dựng nội viện Di Lặc ở Tịch Chỉ, Đài Bắc - Đài Loan. Thầy lấy tên “Từ Thị” là do thầy tu tập pháp môn Tịnh độ Đâu Suất của Bồ tát Di Lặc.
Đại sư Thái Hư, vị lãnh tụ đề xướng việc đổi mới Phật giáo thời cận đại, nhận thấy Phật giáo Trung Quốc có Tứ đại danh sơn, là bốn ngọn núi nổi tiếng gắn liền với tên bốn vị đại Bồ tát, nhưng lại không có đỉnh núi nào của Bồ tát Di Lặc. Vì muốn truyền bá hạnh nguyện từ bi của Ngài nên Đại sư có ý tưởng đổi tên chùa Tuyết Bảo ở Chiết Giang thành núi Di Lặc của Bồ tát Đại Từ Di Lặc. Kết hợp với núi Phổ Đà của Bồ tát Quán Thế Âm, núi Cửu Hoa của Bồ tát Đại Nguyện Địa Tạng, núi Nga My của Bồ tát Đại Hạnh Phổ Hiền, và núi Ngũ Đài của Bồ tát Đại Trí Văn Thù hợp thành Ngũ đại danh sơn của Phật giáo. Như thế năm vị Bồ tát này mỗi vị đều có thế giới và cõi Tịnh độ của riêng mình.
Thế giới Tịnh độ của Bồ tát Di Lặc mà chúng ta đang nói có rất nhiều điểm đặc biệt. Thế giới này ngày ngày luôn tràn ngập niềm vui, Bồ tát Di Lặc thường đi khắp nơi tùy duyên mà hóa độ chúng sinh, mở lòng từ bi giúp đỡ, bố thí cho chúng sinh. Đó chính là thế giới từ Niết bàn hướng đến thế gian.
3.2 - Là thế giới gần gũi, dễ tu và phổ biến
Chúng ta nếu muốn sinh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây, nhất định phải niệm Phật đến nhất tâm bất loạn. Để niệm được như vậy thật sự không hề dễ dàng, còn muốn sinh về cõi Tịnh độ Di Lặc thì không cần phải niệm đến nhất tâm bất loạn. Muốn sinh về thế giới Cực Lạc nhất định phải dứt trừ tham dục mới có thể hóa sinh từ hoa sen, còn Tịnh độ Di Lặc thì không cần dứt trừ vẫn có thể được sinh về. Muốn đến thế giới Cực Lạc cần trải qua mười vạn ức cõi Phật, còn thế giới của Bồ tát Di Lặc thì không cần đi xa như thế.
Tịnh độ Di Lặc cũng ở trong cõi dục như thế giới của chúng ta, cách chúng ta không xa, bởi vậy muốn sinh về cõi Tịnh độ này không khó. Có thể khẳng định rằng đây là cõi Tịnh độ gần gũi với chúng ta nhất, tu hành lại rất dễ dàng và cũng là thế giới có thể truyền bá rộng rãi đến tất cả chúng sinh.
3.3 - Là thế giới được thấy Phật, nghe pháp
Trong Phật giáo có rất nhiều các vị cao tăng thạc đức từng đi qua cõi Tịnh độ của Bồ tát Di Lặc, nơi mà Di Lặc thượng sinh kinh đã giới thiệu. Như Đại sư Đạo An thời Đông Tấn (thầy của Ngài Tuệ Viễn - sơ tổ của Tịnh độ tông), cùng với tám đệ tử của mình là Ngài Pháp Ngộ, v.v. đều đã vãng sinh về đó. Đại sư Huyền Trang và Ngài Khuy Cơ thời nhà Đường cũng đều phát nguyện sinh về Tịnh độ Di Lặc để được trực tiếp lắng nghe Bồ tát Di Lặc thuyết pháp.
Hòa thượng Hư Vân thời cận đại thọ tới 120 tuổi. Năm Ngài 112 tuổi đã từng đến cõi Tịnh độ Di Lặc. Hòa thượng kể lại rằng trong lúc Bồ tát Di Lặc đang thuyết pháp, Hòa thượng nhận ra trong đạo tràng có tới hơn mười vị mà mình quen biết, như Thiền sư Quán Tâm chùa Kim Sơn, Pháp sư Dung Kính núi Thiên Thai, Pháp sư Chí Thiện ở Giang Tây, Pháp sư Thánh Tâm núi Bảo Hoa v.v. Đặc biệt Hòa thượng còn cho biết thầy lãnh chúng trong pháp hội lúc bấy giờ chính là Tôn giả A Nan.
Trong Cao tăng truyện có nhắc tới việc các vị Tổ sư vãng sinh về cõi Tịnh độ Di Lặc thực tế rất nhiều. Như Ngài Tuệ Viễn, người đã vãng sinh về cõi Tịnh độ Tây phương cũng từng đến nơi này, có lẽ Ngài đi thăm sư phụ của mình là Đại sư Đạo An. Chúng ta nên biết năng lực tu hành của các vị Tổ sư có đức hạnh lớn lao này. Các Ngài sinh về cõi Tịnh độ kia là tùy theo hạnh nguyện, bởi các Ngài đã đạt tới cảnh giới có thể đến đi tự tại. Chúng sinh trong thế giới Ta bà này, nếu sinh về cõi Tịnh độ Di Lặc, thì hàng ngày sẽ được nghe Đức Di Lặc thuyết pháp trong nội viện Đâu Suất, không còn lo bị đọa lạc nữa.
3.4 - Là thế giới từ nền tảng trí tuệ hướng đến từ bi
Cõi Tịnh độ Di Lặc có được những sự thù thắng như vậy, tất cả đều nhờ lòng từ bi giáo hóa chúng sinh của Bồ tát Di Lặc. Ngài nguyện ra khỏi cõi Thường Tịch Quang, từ chối cả thế giới Tịnh Trí Trang Nghiêm để xây dựng cõi Tịnh độ, giáo hóa chúng hữu tình ở ngay nơi cõi trời Dục giới. Do chúng sinh ở nơi đây chìm đắm quá sâu trong biển ái dục nên không thể nhanh chóng, dễ dàng vượt lên các cõi khác được; vừa nghe nói tới sự tu hành liền sợ khó, sợ khổ; vừa nhắc tới lìa bỏ tham dục bèn sợ sẽ mất đi tất cả.
Đức Bồ tát Di Lặc thật là bậc Thánh nhân Từ Thị. Ngài dùng trí tuệ rộng lớn của mình để đem tình thương yêu, lòng từ bi đến với chúng sinh nơi thế giới Ta bà, trao cho họ cơ hội độ thoát dễ dàng. Đây chính là nét đặc sắc tiêu biểu nhất của cõi Tịnh độ Di Lặc.