C
âu chuyện của John Fry tưởng sẽ gây tranh luận, nào ngờ lại khiến chúng tôi lo lắng, không những vì Tom Faggus đã hành động quá bản năng, kiểu ngựa quen đường cũ, mà còn vì sợ lệnh tha của Đức vua có thể bị hủy bỏ, thế là tất cả tiếng tốt của cậu sẽ mất sạch sành sanh. Đúng như Annie một mực khăng khăng, Tom chẳng mang về cho mình bất kỳ thứ gì, ngoài mớ giấy tờ vô dụng và biên lai của lệnh tha; cậu cũng không viện đến bất kỳ hành động bạo lực nào, chỉ dọa thôi. Thế nhưng liệu có thể chấp nhận được việc Tom dùng tiền người khác để bố thí chỗ này chỗ khác, ngay cả khi Giáng sinh sắp đến?
Annie có vẻ xem điều đó chấp nhận được vì em bảo nếu người giàu cứ lờ người nghèo đi thì cần phải có một mạnh thường quân để buộc họ phải nhớ, như vậy là làm tốt cho chính họ và người khác, vậy nên cần được nhận những lời chúc phúc. Nhưng tôi và Lizzie biết (John Fry giờ đã nằm ngoài tầm nghe) đây không phải một lập luận hợp lý. Vì nếu vậy thì bất kỳ kẻ nào cũng có thể nắm cổ áo Đức vua, bắt ngài phân phát cho người nghèo số tiền (thật đáng tiếc) mà ngài muốn cho nữ công tước này hay nữ bá tước kia. Lizzie, đương nhiên, mù tịt về những thú tiêu khiển của Đức vua - những thứ không phù hợp với một cô gái trẻ.
Cuối cùng, tôi nói giọng nghiêm túc:
“Trong chuyện này, Tom Faggus đã sai, với chính bản thân cậu và với Annie nhà ta. Lẽ ra cậu chỉ cần trình lệnh tha, như vậy các thẩm phán hẳn đã hài lòng. Cậu hẳn đã có một cuộc sống ngoan đạo, được mọi người tôn trọng. Anh tin cậu hẳn đã làm được như vậy vì biết cậu can trường thế nào. Giả sử anh có một cô người yêu, làm sao anh có thể đẩy cuộc sống của mình và cô ấy vào tình trạng nguy hiểm chỉ để cho vui chứ? Người đàn ông có trách nhiệm là người biết nghĩ cho người phụ nữ gắn bó đời mình với anh ta.”
“Ôi, John, sao lại dùng từ đó chứ?” Annie kêu lên khiến tôi bất ngờ vì em dám ngắt lời tôi. Rồi em bật khóc nức nở.
“Gì thế? Nói như thế thì sao chứ?” Tôi vô cùng phật ý nhưng không dám gặng thêm vì Annie đang khóc rất dữ.
“Anh không biết sao, đồ ngốc kia?” Lizzie lên tiếng khiến tôi càng bối rối. “Nếu vậy thì tự mà đi tìm hiểu lấy.”
Tôi biết Lizzie cố tình chọc tức tôi, nhưng tôi chẳng buồn nói gì dù Annie hiện không được ổn - đầu rũ, tóc xõa, sướt mướt khóc (nếu mà là Lorna thì có lẽ đã khác). Tôi bước ra sân, hút một tẩu thuốc, băn khoăn bọn con gái muốn cái quái gì thế.
Đúng là trong chuyện này tôi sai và vô lý thật (tất cả phụ nữ sẽ thừa nhận vậy), nhưng đàn ông có khi bực đến mức anh ta quả thực không thể không nghĩ, ít nhất trong một phút, rằng phụ nữ mãi mãi là một sai lầm, do vậy mãi mãi bị hiểu sai. Tuy nhiên tôi lại không thấy Lorna như thế. Em hoàn toàn khác biệt - không quá đàn bà để trở nên tệ hại, nhưng vừa đủ phụ nữ để đàn ông yêu tha thiết.
Giờ đây, tình yêu của tôi bị đặt vào một thử thách cam go - gặp ngài Ensor Doone. Chẳng thà để tôi đối mặt với Carver Doone và cha gã, không, nói đúng hơn là con sư tử giương móng vuốt nhọn hoắt, gầm gào dữ tợn, còn hơn là diện kiến người cai quản thung lũng Doone - nỗi kinh hoàng của bao nhiêu người.
Một buổi sáng, tôi phát hiện tổ quạ trên cùng - cái dễ thấy nhất - đã biến mất. Tôi căng mắt ra nhìn thật kĩ, dụi mắt, nhìn quanh quất, rồi nhìn lại chỗ đó. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, người yêu tôi đang gặp nguy hiểm. Đi vào thung lũng dưới ánh sáng ban ngày rờ rỡ như thế này đã không mang lại niềm an ủi gì thì chớ, lại còn có thể gây hại đến em, và tôi thì chết chắc. Thế nhưng tôi chẳng thể yên tâm mà đứng một chỗ lúc này được, bèn chạy đến nơi gần nhất có thể vẫn chưa bị phát hiện, sốt ruột quan sát thung lũng từ trên cao suốt hàng giờ liền.
Tuy nhiên, dù tôi có sốt ruột thế nào chăng nữa cũng chẳng khiến cảnh tượng trước mắt thay đổi. Trong phần thung lũng tôi có thể nhìn thấy, chẳng có gì chuyển động, ngoại trừ nước và vài con bò cướp được đang lang thang rầu rĩ, như thể biết rằng ở đây chúng chẳng có quyền gì thực sự.
Tim tôi trĩu nặng, tôi chẳng tha thiết làm bất kỳ điều gì, ngoài việc hà hơi vào lòng bàn tay và mong chờ một dấu hiệu.
Sắp đến mùa sương giá ngoài mong đợi của Lorna và tôi, cũng như năm triệu người sống tại hòn đảo này của nước Anh. Tôi chưa từng thấy sương giá nhiều như vậy bao giờ, cũng không trông mong lịch sử lặp lại. Sương giá khủng khiếp đến độ thậm chí không thể vắt sữa bò hay cạo râu.
Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa thấy gì, dù nó ngấp nghé suốt hai tuần qua. Tôi còn quá non nớt để nhận ra dấu hiệu của nó qua những chiếc lá khô héo đung đưa, không khí đặc quánh bao trùm lên mọi thứ và sức nặng chết chóc của bầu trời. Cụ Will Watcombe ở Lynmouth đã đi gần hết nửa thế giới và hay nói về Gulfstream (như tôi nhớ lại sau đó) tiên đoán mùa đông năm nay khắc nghiệt. Không ai chịu nghe cụ bởi vì chẳng có nhiều quả tầm xuân và táo gai như thường lệ, trong khi xưa nay ai cũng biết rằng Thượng đế không bao giờ giáng xuống trần một mùa đông khắc nghiệt mà quên ban phát nguồn quả mọng dồi dào làm thức ăn cho lũ chim.
May mà hôm ấy tôi dẫn theo con Watch già, nếu không đã đói meo vì tôi không dám bỏ “vị trí” để về nhà ăn tối. Tôi cột một lá thư vào con Watch, bảo nó chạy về nhà tìm Annie. Chưa đầy một giờ sau, nó quay lại, thè lưỡi vì mệt, ngoáy tít đuôi hãnh diện. Tôi tìm thấy một miếng bánh mì lớn và thịt lợn muối xông khói được cột trong một chiếc khăn quanh cổ nó. Tôi đương nhiên không nói cho em gái biết chuyện gì, vì lý gì tôi phải khiến em ấy lo lắng chứ?
Khi trời tối hẳn, tôi mới bắt đầu đi vòng quanh những ngọn đồi. Đột nhiên, con Watch gầm gừ. Tôi áp sát nó, ra lệnh cho nó im lặng, rồi trông thấy một dáng người thấp đậm tiến tới từ thung lũng rậm rạp bên trái nơi tôi nấp. Đó chính là dáng người tôi có lần đã nhìn thấy vào một đêm trăng tại nông trại Plover’s Barrows, nếu quý vị còn nhớ. Tôi vui mừng quá đỗi khi phát hiện ra đó chính là cô gái nhỏ Gwenny Carfax. Cô giật mình khi trông thấy tôi, nhưng vì ngạc nhiên hơn là sợ hãi. Rồi cô đặt cả hai tay lên hai tay tôi như thể cô biết tôi chừng hai mươi năm rồi.
“Chàng trai.” Cô nói. “Mau theo tôi nào. Tôi đi suốt cả đoạn đường dài chỉ để đưa anh tới đó thôi đấy. Ngài Ensor đang hấp hối, ngài không thể chết, hay ít nhất sẽ không chết, nếu chưa gặp được anh.”
“Gặp tôi?” Tôi kêu lên. “Ngài Ensor Doone muốn gặp tôi làm gì? Lorna kể hết chuyện chúng tôi với ông ấy rồi ư?”
“Tất cả những gì liên quan đến anh và những việc anh làm khi cô chủ biết ông nội mình sắp tạ thế. Điều khiến ngài không vui là xuất thân thấp hèn của anh, và mong mình có sức khỏe để cho anh một trận. Nhưng nói gì thì nói, chắc không tệ đến thế. Mà này, nếu ngài có sỉ vả hay nhiếc móc gì, anh phải cố nhịn nhé, đừng có mà cãi lại đấy. Tôi từng chứng kiến lửa nóng, nhưng chưa thấy lửa lạnh - thứ lửa khiến ta bị bỏng nhưng lại lạnh run - bao giờ.”
Kỳ thực là tôi vừa bỏng vừa lạnh run khi biết mình hoặc phải đến trình diện ngài Ensor Doone ngay, hoặc chấp nhận rời khỏi Lorna (kết cục là sẽ bị em khinh bỉ). Lần đầu tiên trong đời, tôi nghĩ em không công bằng. Tại sao không để ngài Ensor yên mà còn làm phiền ông về chuyện chúng tôi? Nhưng bây giờ nghĩ lại, trong chuyện này em đúng. Lorna không thể nhận lời chúc phúc của ông nội nếu em không thú nhận với ông về những việc làm của mình.
Thế là tôi cho con Watch về nhà, còn mình đi theo Gwenny, trong bụng lo ngay ngáy. Cô đi băng băng trở xuống thung lũng ban nãy, vào một bụi cây gồm những gốc tần bì và nhựa ruồi ken dày, đá bao quanh nó phủ đầy dây thường xuân. Rồi chúng tôi đến một cánh cửa hẹp màu nâu, chắc nịch, nhìn từ xa trông như một cái rương gỗ. Gwenny mở nó mà không cần chìa khóa, cô chỉ khom người, ấn vào chỗ ngưỡng cửa tiếp giáp rầm cửa, rồi lẹ làng chạy vào bên trong, còn tôi buộc phải gập đôi người khá chật vật. Lối đi hẹp, tối thui nhưng không dài. Chẳng mấy chốc, chúng tôi ra tới đầu bên kia, ở trên đỉnh thung lũng Doone. Trong bầu không khí lạnh lẽo lúc chạng vạng, nó trông chẳng có gì lôi cuốn, nhất là khi tâm trí tôi đang trong tình trạng rối bời. Đi nhanh về phía ngôi nhà của Thủ lĩnh, chúng tôi gặp hai người to cao đang tha thẩn dọc theo bờ sông. Gwenny nói gì đó với họ, dù họ nhìn tôi chòng chọc nhưng vẫn để tôi đi qua chứ không làm khó dễ gì. Khỏi phải nói, tim tôi đập loạn lên, cả vì sợ hãi lẫn hy vọng được gặp mặt Lorna khi Gwenny mở cửa ngôi nhà của ngài Ensor.
Nhưng nỗi sợ biến mất ngay sau đó, vì khi Lorna run rẩy trong vòng tay tôi, ý thức cần phải che chở cho em tiếp thêm can đảm cho tôi. Lorna sợ tôi phật ý vì em mang chuyện chúng tôi ra kể cho ông nội và bắt tôi diện kiến ông, nhưng tôi cam đoan với em (gần như là lời nói dối đầu tiên, cũng là cuối cùng) rằng bất kể ngài Ensor thế nào, phẫn nộ ra sao, chỉ cần tôi có được tình yêu của cô cháu nội ông là được.
Khi nói vậy, tôi cố gắng nghĩ điều đó là đúng để không tự biến mình thành kẻ nói dối, nhưng không thành công, và tôi bực bản thân ghê gớm. Lorna kiên quyết nắm tay tôi, dẫn tôi vào một lối đi nhỏ, nơi tôi có thể nghe tiếng suối rền rĩ và những nhánh cây sột soạt.
Tôi liên tục nhắc mình chẳng việc gì phải sợ, ấy vậy nhưng nỗi sợ cứ mỗi lúc một tăng. Cuối cùng, Lorna quay lại, tay cầm nến, mặt tái mét, thì thào: “Bình tĩnh nhé anh. Đừng quan tâm ông em nói gì, cũng đừng cố trả lời ông. Cứ nhìn ông từ tốn và kiên định, nếu được thì thể hiện chút tôn kính với ông. Quan trọng nhất là, đừng tỏ ra thương cảm, ông sẽ phát điên đấy. Nào, đi khẽ thôi nhé!”
Em dẫn tôi vào một căn phòng tối, lạnh, thô ráp và âm u, mặc dù có hai ngọn nến đang cháy. Cửa sổ đang mở, điều đầu tiên đập vào mắt tôi là một ông già lạnh lùng, nghiêm khắc, mang sắc diện của người sắp chết. Ông không nằm trên giường mà ngồi thẳng người trên ghế, khoác một tấm áo choàng đỏ rộng thùng thình. Mái tóc bạc xõa dài, những ngón tay xám xịt không còn dấu hiệu của sự sống. Toàn bộ sức mạnh của tâm trí và thân xác ông dồn cả vào trong đôi mắt to đen đang nhìn thẳng vào tôi nghiêm nghị.
Tôi không dám nhìn kĩ ông vì sợ vẻ chết chóc trên gương mặt ông, nhất là sợ ông biết rằng tôi sợ. Tôi cụp mắt xuống, cố không run rẩy. Vậy mà Lorna cứ tưởng để hai chúng tôi ở riêng với nhau là lịch sự cơ đấy.
“E hèm!” Ngài Ensor lên tiếng, giọng ông nghe như vọng đến từ một cái hang của những bộ xương người. “Cậu là John Ridd to xác đấy phỏng?”
“John Ridd là tên cháu, thưa ngài” là tất cả những gì tôi có thể đáp. “Hy vọng ngài mau khỏe.”
“Này cậu, cậu đủ tỉnh táo để biết điều mình làm chứ?”
“Vâng, cháu biết rõ ạ.” Tôi đáp. “Cháu biết mình “đũa mốc mà chòi mâm son”.”
“Chắc cậu không biết rằng Lorna Doone được sinh ra trong dòng họ lâu đời nhất ở Bắc Âu?”
“Cháu không biết điều đó, thưa ngài. Cháu chỉ biết cô ấy thuộc gia tộc Doone vùng Bagworthy.”
Đôi mắt ngài Ensor, hệt như lửa, chiếu vào tôi tia nhìn thăm dò xem liệu tôi thật hay đùa. Thấy vẻ mặt tôi nghiêm túc, ông thừa nhận sự thua kém đó của tôi bằng một nụ cười cay đắng.
“Thế cậu biết mình xuất thân từ tầng lớp hạ lưu của dòng họ Ridd vùng Oare chứ?”
“Thưa ngài!” Tôi đáp, vẫn chưa quen với lối nói này. “Dòng họ Ridd, xứ Oare, là những người dân lương thiện lâu đời gấp đôi gia tộc Doone làm cướp đấy ạ.”
“Ta sẽ không chấp nhặt câu nói vừa rồi của cậu, John.” Ngài Ensor đáp, rất nhẹ nhàng, vậy mà tôi tưởng ông sẽ giận ghê lắm. “Nếu quả vậy thì dòng họ của cậu rất lâu đời ở châu Âu nhỉ? Nghe đây, chàng trai, hay tên hề, hay kẻ ngốc lương thiện, gì cũng được. Hãy lắng nghe một ông già đang có thời gian sống tính bằng giờ này. Trên thế gian này chẳng có gì đáng sợ, đáng sùng kính hay tin tưởng, thậm chí chẳng có gì để hy vọng, nhất là chẳng có gì để yêu thương.”
“Cháu nghĩ là ngài không được ổn lắm.” Tôi dè dặt cất tiếng. “Chứ nếu quả vậy thì thật là một sai lầm đáng buồn cho người sống, thưa ngài.”
“Vì vậy…” Ông tiếp tục như thể tôi chưa hề nói gì. “Việc ta cấm cậu gặp đứa cháu nội ngốc nghếch của ta cũng chỉ như là cậu đánh mất một món đồ chơi nào đó thôi. Có thể cậu sẽ đau buồn, khổ sở một, hai tuần, nhưng sau đó mọi việc sẽ lại như cũ. Cậu sẽ lại vui vẻ, thoải mái. Thế có nghĩa là ta chẳng tước đi của cậu thứ gì cả. Hôn nhân chỉ là một vở hài kịch tồi, ngay cả khi hai vợ chồng xuất thân cùng tầng lớp, sở thích giống nhau, tâm hồn đồng điệu. Khi hai người không được tương hợp như vậy, vở hài kịch ấy sẽ biến thành một vở bi kịch tẻ ngắt, lê thê. Thế đấy, ta đã nói đủ lý lẽ cho cậu hiểu, mà thường thì ta chẳng có thói quen lý lẽ đâu nhé. Dù ta không tin vào danh dự của đàn ông, nhưng ta tin vào lòng kiêu hãnh của phụ nữ. Cậu hãy thề trước mặt Lorna là sẽ không bao giờ gặp hay tìm con bé, thậm chí sẽ không bao giờ nghĩ về nó nữa. Gọi con bé mau đi, ta mệt rồi.”
Ông chiếu thẳng cặp mắt lớn lóe lên thứ ánh sáng lạnh băng vào tôi như thể xem sự sống và cái chết nhẹ tựa lông hồng, rồi khẽ mỉm cười hả hê khi chứng kiến tôi bối rối. Ông đưa một tay lên (như thể tôi là một sinh vật đần độn, đáng thương), trỏ về phía cửa. Mặc dù không cam tâm trước sự khinh bỉ ông dành cho mình, tôi không thể không tuân theo, đành khẽ cúi đầu chào, bước thẳng ra cửa tìm Lorna.
Tôi thấy Lorna đang khóc rấm rứt bên một ô cửa sổ nhỏ, lắng nghe tiếng than vãn của dòng sông. Tôi quàng một cánh tay nặng nề quanh người em, không đòi hỏi hay ép buộc em nghĩ cho tôi, mà chỉ an ủi em và hỏi em đang nghĩ gì. Em chỉ im lặng. Em nói bằng trái tim mình. Hai đứa không nói gì với nhau, cả hôn cũng không. Nhưng ai đã từng yêu thì biết đôi khi ta không nhất thiết phải dùng đến lời nói mới hiểu người ấy nghĩ gì.
Chúng tôi thống nhất đi vào phòng ngài Ensor cùng nhau. Tôi một tay nắm tay Lorna, tay kia quàng quanh người em, khiến em lọt thỏm trong lòng tôi, nhỏ bé và cần được che chở. Em tựa người vào tôi đầy tin cậy, mái tóc xõa xuống chiếc áo gi lê bằng da rái cá yêu thích của tôi. Về phần mình, hễ còn Lorna bên cạnh thì cái chết hay địa ngục tôi cũng không sợ.
Ngài Ensor sửng sốt thấy rõ. Bốn mươi lăm năm qua, ông quá quen với việc được mọi người kính sợ, không dám trái lời, ông cũng thừa biết rằng tôi sợ ông chết khiếp. Chỉ có điều tôi quá yêu Lorna, muốn che chở cho em.
Tôi cúi chào ông, lịch lãm nhất có thể, từ những gì học được ở Tiverton và London, rồi đợi ông nói trước vì ông lớn tuổi hơn, thuộc tầng lớp cao hơn.
“Hai đứa ngu ngốc quá!” Cuối cùng, ông lên tiếng bằng sự khinh rẻ tột cùng. “Quá ngu ngốc!”
“Thưa ngài!” Tôi đáp từ tốn. “Có lẽ chúng cháu không ngốc như ngài nghĩ đâu ạ. Dù có thế, chúng cháu rất mãn nguyện, miễn là chúng cháu cùng ngốc bên nhau.”
“Này, John!” Ngài Ensor nói, mắt lấp lánh như cười. “Cậu chẳng phải là một đứa nhà quê hậu đậu, cục mịch như ta tưởng nhỉ?”
“Làm gì có, ông nội.” Lorna vội kêu lên, xua tay lia lịa. “Không ai biết John Ridd như thế nào đâu ạ, vì anh ấy rất khiêm tốn. Ý cháu là, không ai ngoại trừ cháu.” Rồi em xoay lại, nhón chân lên hôn tôi.
“Ta từng thấy một ít thế giới.” Ông nội Lorna nói, trong khi tôi khá là xấu hổ, dù rất hãnh diện về em. “Nhưng điều này nằm ngoài những gì ta từng thấy, và gần như tất cả những gì ta nghe nói. Nó phù hợp với khí hậu miền Nam hơn sương mù Exmoor.”
“Nó phù hợp với tất cả thế giới, thưa ngài.” Tôi, vẫn còn ngượng, đáp nhún nhường. “Khi nó xảy đến, chẳng gì có thể ngăn được, thưa ngài.”
Ngài Ensor ngả người ra thành ghế màu nâu hình tam giác, chắc là thứ cướp được từ một ngôi nhà trong nông trại nào đó. Lúc tôi nói, ông ho một chút và thở dài nhiều hơn. Có lẽ trái tim đang yếu dần của ông cũng đập mạnh hơn khi chứng kiến tình yêu và niềm hy vọng nơi hai đứa tôi. Tôi hiểu về ông không hơn một đứa bé nghịch đôi kính lão của ông mình; tuy nhiên tôi thắc mắc không biết trong thời gian sống, hoặc giữa ranh giới sự sống và cái chết, ông có nghĩ về tuổi trẻ cùng niềm kiêu hãnh của mình không.
“Ngốc quá, ngốc mãi thôi.” Cuối cùng, ngài Ensor Doone lên tiếng, trong khi chúng tôi không dám cắt ngang suy nghĩ của ông. “Đây là điều tốt đẹp nhất ta có thể chúc cho hai đứa: Hãy sống với nhau thật hạnh phúc, con đàn cháu đống.”
Giọng ông nghèn nghẹn, phần vì thương xót, phần vì cũng đã tàn hơi, rồi quay mặt đi, mái tóc bạc đổ xuống quanh người hệt một tấm vải liệm.
HẾT TẬP 1