N gười đàn bà trong văn phòng bảo tôi đi tới phòng thay đồ: Tôi phải ngồi đợi ở đó. Vậy là tôi lặng lẽ rảo bước qua khoảnh sân trước nhà tiến về phía cánh cửa có gắn tấm biển đề PHÒNG THAY ĐỒ. Văn phòng mang một màu xám xịt ảm đạm và khoảnh sân cũng vậy, với một đống gạch vỡ và đá sỏi nằm la liệt một góc, mấy chiếc xe đẩy hai bánh chở rác và rất nhiều rác, chẳng có lấy một bụi cỏ hay nhành cây nào sống nổi ở quanh đó. Phòng thay đồ với tôi thậm chí còn thảm hại hơn. Tôi ngồi xuống một chiếc ghế băng sần sùi, tay nắm chặt chiếc cặp da cũ kỹ, trong đó có ba cái bánh bao đường nho nhỏ, một cuốn sách mỏng, một quyển sổ nhỏ mà tôi luôn có thói quen ghi vào đấy bất cứ thứ gì đột nhiên tôi cho là có liên quan đến những gì tôi đang viết. Lúc này, tôi đang hoàn tất một bài luận về các tác phẩm của Kafka1.
1 Franz Kafka (1883 - 1924): một trong những nhà văn lớn chuyên viết tiểu thuyết viễn tưởng của thế kỷ XX sinh ra trong một gia đình Do Thái trung lưu tại Prague. Các sáng tác của ông - phần lớn chưa hoàn thành và được xuất bản sau khi ông mất - đã trở thành những tác phẩm có tầm ảnh hưởng bậc nhất của văn học phương Tây. (Các chú thích là của dịch giả.)
Có hai người đàn ông khác đang ngồi trong căn phòng thay đồ này. Một người cao, da xám ngoét, làm tôi chợt nhớ đến tay bác sĩ đã từng cắt a-mi-đan cho tôi năm nào; người kia lùn tịt, chắc nịch và rất khó đoán tuổi với mái tóc bù xù, một chiếc quần bẩn thỉu phủ kín xuống tận bắp chân cùng những cái túi to tướng giống như những bao đựng súng ngắn méo mó thảm hại được may nổi ra ngoài. Anh này đội một chiếc mũ kiểu thuyền trưởng có lưỡi trai và một chiếc mỏ neo màu vàng sáng loáng phía trước. Ngay dưới chiếc lưỡi trai ấy là đôi mắt màu xanh nước biển trong một buổi chiều tà đang chăm chăm nhìn tôi một cách tò mò. Anh ta rõ ràng đã nhận ra tôi là kẻ mới tới và anh ta cũng khuyên tôi nên để chiếc thẻ căn cước lên bàn. Tôi làm như anh ta bảo, và khi anh ta đặt chiếc thẻ của mình xuống bên cạnh chiếc thẻ của tôi, tôi kịp nhận ra anh ta không có bàn tay phải: một chiếc móc màu đen thò ra từ trong tay áo của anh ta.
Tới lúc này, những đồng nghiệp của tôi bắt đầu lục tục kéo đến - những người quét rác. Một cậu bé béo lùn vẻ khờ khạo có tật máy cơ mặt ngồi xuống bên cạnh tôi, rồi cậu ta lấy ra từ trong ngăn tủ đựng đồ một đôi ủng bảo hộ bẩn thỉu và dốc ngược chúng xuống. Từ một trong hai cái ủng đó bắt đầu chảy ra một thứ chất lỏng có thể hoặc không phải là từ vòi nước công cộng nào đó đọng lại. Ngay lập tức cậu ta rống lên với chúng tôi bằng thứ ngôn ngữ mà tôi không thể luận ra được nổi một từ.
Chính bản thân tôi cũng không chắc chắn là điều gì đã khiến tôi quyết định thử công việc không mấy hấp dẫn này. Rất có thể tôi đã nghĩ nhờ nó tôi sẽ cảm nhận được một cách bất ngờ hơn về thế giới này. Thường thì ta vẫn cảm thấy rằng chỉ khi ta nhìn thế giới và những con người quanh ta từ một góc độ hoàn toàn mới, tâm hồn ta mới được thăng hoa.
Khi tôi đang đợi xem điều gì có thể xảy ra tiếp theo, bỗng nhiên trong tâm trí tôi lại hiện lên cảnh của mười lăm năm về trước, khi tôi chuẩn bị rời Mỹ trở về nước và ông hiệu trưởng nhân danh tôi tổ chức một buổi dạ tiệc khoản đãi mọi người. Ông hiệu trưởng là một nhà toán học và rất giàu có. Ông có cả một bầy ngựa quý và một ngôi nhà nghỉ kiểu dành cho những buổi đi săn. Tôi mới chỉ gặp ông đúng một lần trước đó và tôi thật sự không muốn tới dự buổi dạ tiệc ấy: một đám toàn những người lạ hoắc dường như chỉ làm tôi thấy buồn hơn. Thế nhưng, vào lúc ấy làm sao tôi có thể biết nhiều về những người khác khi tôi mới chỉ dạy tại trường đại học đó chưa đầy sáu tháng? Trong bữa tiệc, tất cả bọn họ bỗng nhiên trở nên gần gũi với tôi và họ đều mỉm cười rất thân thiện đúng theo kiểu của người Mỹ. Và với những cấp độ khẩn trương khác nhau họ đều tìm cách thuyết phục tôi kể cho họ nghe điều quái gở gì đã khiến tôi trở nên mê muội khi quyết định rời bỏ đất nước của sự tự do và giàu có này để trở về với một đất nước chẳng hề có tự do, nơi mà người ta có thể giam tôi lại hay đày tôi đến tận Siberia. Tôi đã cố để tươi tỉnh được như họ. Tôi đã nhắc tới những thứ kiểu như lòng yêu nước hay sứ mệnh cho tới khi tôi vớ được một lý lẽ có vẻ thuyết phục nhất. Tôi nói rằng tôi trở về với những người biết tôi là ai. Thậm chí có phải đi quét rác trên các con phố thì với họ tôi vẫn là chính tôi, một nhà văn, điều mà tôi mong muốn trở thành hơn tất cả, trong khi ở đây, ngay cả khi tôi lái chiếc Ford của tôi đi đây đi đó, tôi vẫn luôn chỉ là một trong những người nhập cư mà một đất nước vĩ đại đã rủ lòng thương hại. Đó toàn là những lời nói khoe khoang sáo rỗng của tôi. Trên thực tế, tôi muốn trở về nhà, về nơi có những con người mà tôi yêu quý, nơi mà tôi có thể nói năng thoải mái và được nghe mọi người nói bằng chính tiếng mẹ đẻ của tôi.
Giờ đây, tôi biết rằng mình đã là một người quét rác và với đa số mọi người, tôi chỉ đơn giản là một người bình thường đi quét rác bên lề đường, một người chẳng mấy ai thèm để ý.
Cũng lúc đó, một người phụ nữ xuất hiện ở phòng thay đồ. Chị ta có thân hình mảnh mai, vòng ba tương đối yểu điệu trong một chiếc quần jean bó sát. Khuôn mặt chị ta rám nắng với những nếp nhăn giống hệt mấy người phụ nữ Da đỏ già nua mà tôi đã từng gặp tại hội chợ ở Santa Fé2. Một người trong bọn họ, quý cô lớn tuổi nhất và nhìn có dáng vẻ người Da đỏ nhất, đã gây cho tôi một cảm tình đặc biệt, có một tấm biển được treo ngay trên sạp hàng của cô, cho thấy tên thánh của cô là Venus. Quý cô Venus này đã không ngồi xuống, cô rút từ trong túi xách tay một bao thuốc lá hiệu Start, và lấy một điếu ra châm lửa - tôi thấy đôi bàn tay cô run run. Que diêm từ từ tắt lịm đi trước khi những sợi thuốc kịp bén lửa, và Venus làu bàu chửi tục. Giọng của cô run rẩy vì hơi men, nó chỉ được phát ra từ sâu trong cuống họng và âm điệu của giọng nói ấy hoàn toàn tương xứng với cái vẻ bề ngoài của cô tới mức các nữ diễn viên thượng thặng tại những nhà hát lớn nhất, những người thường phải rất cố gắng để hóa thân thành những nữ nhân vật tầm thường, có thể sẽ rút ra được vô khối bài học về cách diễn xuất trong động tác vừa rồi.
2 Thành phố nằm trên dãy núi Sangre de Cris.to cao gần 7000 feet, thuộc tiểu bang New Mexico của Mỹ.
Tiếp sau đó là mấy người đàn ông đứng tuổi có vẻ ngoài chẳng mấy ấn tượng. Ở góc sân, một anh béo lùn với dáng điệu nhếch nhác đã bắt đầu thay sang bộ đồ bảo hộ lao động. Giống như cậu bé lẩn thẩn ngồi cạnh tôi, anh ta cũng có riêng một ngăn tủ để đồ. Anh đã lôi từ đó ra một bộ áo liền quần bằng vải ka ki rộng lùng thùng.
Đúng sáu giờ, người phụ nữ ngồi trong văn phòng khi nãy bước vào và đọc to tên những người được phân công quét dọn cho cái quận này của thành phố trong ngày hôm đó. Đầu tiên, bà ta đọc thật to tên của những người được phân công dựng lại các cột biển báo giao thông, sau đó tới nhóm ba người có trách nhiệm đi đổ các thùng rác công cộng. Cuối cùng, bà ta đưa cho người đàn ông béo mặc áo liền quần ấy một tờ giấy và tuyên bố rằng những người có tên sau đây sẽ làm việc theo nhóm: Zoulová, Pinz, Rada, Štych và người sau cùng chính là tôi. Tới lúc này bà ta đưa cho tôi một cái áo bảo hộ màu vàng cam dành cho người quét rác. Tôi nhận lấy nó rồi nhanh nhẹn bước vòng qua chiếc bàn và chọn lấy một ngăn tủ gần góc trong cùng nhất. Tôi mở cửa tủ, mặt sau của cánh cửa có mấy chữ Bui dinh Thi được viết bằng phấn, tôi lấy tất cả giấy tờ tùy thân, mấy cái bánh, cuốn sách và cả cuốn sổ tay ra khỏi chiếc cặp da, rồi nhét chúng vào trong túi áo khoác trước khi đóng cánh cửa đó lại.
Tất cả chúng tôi bước xuống cái sân ảm đạm, nơi mấy chiếc xe tải chở rác đang rú máy ầm ầm và hai chàng trai trẻ đang quẳng mấy cái xẻng, chổi quét cán dài, mai dũi đất, xe goòng, biển báo giao thông và cả đám thùng đựng rác han gỉ, méo mó lên trên chiếc thùng sau không có mui. Lúc đó mới là sáu giờ mười lăm phút sáng, và tôi đã cảm nhận được một ngày dài, căng thẳng và mệt mỏi đang chờ đón mình ở phía trước.
Người đàn ông mặc bộ đồ bảo hộ áo liền quần, người rõ ràng đã được chỉ định làm trưởng nhóm của chúng tôi, sải bước về phía cổng chính, bốn người khác cũng tách mình ra khỏi đám công nhân quét rác và bước theo anh ta, trong số này có cả người phụ nữ duy nhất, rồi một chàng trai có khuôn mặt nhợt nhạt như con gái với một cái túi kiểu của người đưa thư to đùng khoác trên vai, và người đàn ông khiến tôi nhớ tới bác sĩ chuyên khoa tai - mũi - họng. Người cuối cùng trong bọn họ là người đội chiếc mũ thuyền trưởng. Những người này dường như đang sống ở một thế giới hoàn toàn khác với tôi cũng giống như cái công việc mà tôi chuẩn bị làm, thế nhưng tôi vẫn chạy theo bọn họ, cũng giống hệt như họ đã làm và cả nhóm tạo thành một đoàn công nhân thất thểu có dáng vẻ đáng ra chỉ thích hợp với một đám tang. Với những nhịp chân đều đặn, chúng tôi sải bước qua các con phố của quận Nusle3 trong bộ đồng phục màu vàng cam của mình, tất cả mọi người xung quanh chúng tôi đều đang vội vã đi làm, còn chúng tôi chẳng việc gì phải vội, bởi vì tất cả chúng tôi đều đang làm việc rồi.
3 Một quận của thành phố Prague thuộc Cộng hòa Czech.
Đây không phải là trạng thái tinh thần mà tôi thường tự tìm thấy: trong phần lớn cuộc đời mình, tôi đã luôn phải vội vàng, bị ám ảnh bởi ý nghĩ về những gì tôi phải hoàn thành nếu tôi muốn trở thành một nhà văn tài năng. Tôi những muốn trở thành một nhà văn từ khi còn nhỏ, và trong một thời gian khá dài cái gọi là địa vị của một tác giả dường như đã trở thành một nghề nghiệp đáng tự hào đối với tôi. Tôi tin rằng một nhà văn luôn thông minh như thể một nhà tiên tri, trong sáng và ít gặp giống như một vị thánh, khéo léo và can đảm giống như một diễn viên xiếc cừ khôi đang biểu diễn tiết mục đu bay. Thế nhưng giờ đây tôi biết rằng chẳng có nghề nào là không cao quý, và cái gì được cho là sự thông minh, sự thuần khiết, đặc tính hiếm hoi, can đảm và khéo léo ở người này lại có thể là tính lập dị, điên khùng, buồn tẻ và vô tích sự ở người khác, và cái ý tưởng cổ xưa đó đã có tác động thật lớn, ngược lại với ước nguyện của tôi ở trong ý thức và cả tiềm thức, đó có thể là lý do tại sao tôi cảm thấy e ngại mỗi khi tự mô tả mình bằng cụm từ “nhà văn”. Mỗi khi người ta hỏi tôi làm nghề gì, tôi thường cố gắng tránh câu trả lời. Thêm vào đó, có ai dám tự nói ra rằng anh ta là một nhà văn kia chứ? Cùng lắm anh ta chỉ có thể trả lời: Tôi đã viết vài cuốn sách. Tới giờ tôi còn cho rằng tôi không thể định nghĩa một cách rõ ràng chủ đề trong tác phẩm của tôi là gì nữa, hay điều gì tạo ra sự khác biệt giữa văn học thực thụ với việc chỉ ngồi đó mà viết, một thể thức mà bất cứ ai cũng có thể làm được, ngay cả khi người đó chưa từng đến trường để học lấy một chữ nào.
Giờ đây tôi đã có thể an hưởng một lần cuốc bộ thoải mái và cảm thấy thật thanh thản khi nhận ra mình đã biết chính xác mình được người khác trông đợi những gì. Chúng tôi chậm rãi bước qua tòa nhà Quốc hội và tòa nhà của Tòa án tối cao, đi tới nơi vẫn được dùng làm sân tập Sokol, ở đó tất cả các dụng cụ lao động của chúng tôi đều đã được chở tới và đang đợi chúng tôi tới nhận: chổi, xẻng, mai dũi đất và một chiếc xe đẩy chở rác to bằng nửa cái thùng đựng rác công cộng. Để thể hiện thiện chí của mình, tôi chọn cái xẻng to nhất.
Khi còn nhỏ, tôi đã được sống ở vùng ngoại ô thành phố Prague, cách sân bay Kbely một đoạn không xa lắm, trong một tòa biệt thự ngay gần một quán rượu nhỏ vốn là nơi tụ tập của những người chở hàng thuê. Ngày nào cũng vậy, trước khi chiều xuống, một người quét rác trong thành phố lại tới đó. Ông kéo chiếc xe chở rác của mình tới bãi đất trống, nơi những người chở hàng thuê thường buộc ngựa để chúng nghỉ ngơi, rồi lấy ra một chiếc xẻng to và gần như là một động tác mang tính nghi thức, ông hót sạch đám phân ngựa hay rác rưởi rơi lung tung ở đó, đổ vào trong thùng của chiếc xe đẩy. Sau đó ông mới kéo chiếc xe của mình, đẩy sát vào bức tường sau nhà rồi bước vào quầy bar. Tôi rất thích ông: ông luôn đội một chiếc mũ lưỡi trai, nhưng đương nhiên không phải là một chiếc mũ thủy thủ, với bộ ria mép vểnh lên giống như vị hoàng đế cuối cùng của đất nước chúng tôi. Tôi cũng thích cái nghề của ông, cái nghề mà tôi nghĩ chắc chắn là một trong những nghề nghiệp quan trọng nhất một người đàn ông thực thụ có thể làm. Và vì thế, tôi đã tin rằng những người quét rác trên phố sẽ luôn nhận được sự ngưỡng mộ của mọi người xung quanh. Trên thực tế, mọi thứ không như ta nghĩ. Những người đã dọn sạch cái thế giới của rác rưởi hay chuột cống chưa bao giờ nhận được bất cứ sự tôn trọng nào. Vài ngày trước đây, tôi đã đọc một câu chuyện từng xảy ra từ hai trăm năm trước tại nhà thờ Thánh George. Câu chuyện kể về một tay thợ trát vữa bị bỏ rơi đã đang tâm rạch nát mặt và hai vai người tình của hắn. Vì hành động dã man này, hắn đã bị tống giam và phải chịu án tử hình, nhưng sau đó hắn lại được giảm án và bị buộc phải đi quét dọn những con phố ở thủ đô Prague trong thời hạn ba năm. Sự kính trọng như là một nguyên tắc chỉ được dâng tặng cho những ai đã quét sạch những gì thừa thãi trong xã hội con người, đó chính là các viên chức phụ trách thực thi pháp luật cho quận trưởng, các thẩm phán và những viên thanh tra.
Hơn hai mươi năm về trước, khi tôi viết một truyện ngắn về việc giết thịt những con ngựa, tôi đã sáng tạo ra một cảnh khải huyền về vụ hỏa thiêu những cái xác của chúng. Tôi đã cố xâm nhập vào lò hỏa táng ở Prague, nơi khi còn là một đứa trẻ, tôi thường được nhìn thấy người ta đốt xác từ một khoảng cách khá xa, và tất cả đều được quy về thành một đống tro tàn, thế nhưng người quản lý ở đó đã không cho tôi vào. Có lẽ ông ta e ngại rằng có thể tôi sẽ khám phá ra một vài sai sót trong quá trình thực hiện việc hỏa thiêu của ông ta.
Nhiều năm sau đó, khi làm một người quét dọn tại bệnh viện Krč, vào mỗi buổi sáng, tôi thường phải chở tất cả rác thải tới một cái lò thiêu hủy rất to: những mẩu bông băng đầy máu, những chiếc gạc thấm đầy mủ và tóc, những mảnh vải bẩn thỉu sực mùi phân người, và dĩ nhiên là cả đống giấy lau đã vấy bẩn đủ loại, những chiếc hộp rỗng làm bằng thiếc, những mẩu kính vỡ hay những đồ dùng bằng nhựa. Tôi dùng xẻng hắt tất cả mọi thứ vào trong lò thiêu hủy và đứng lặng ở đó, mãn nguyện ngắm nhìn đống rác rưởi ấy quằn quại như thể chúng đang trong trạng thái đau đớn cùng cực cả về thể xác lẫn tinh thần, cho tới khi chúng chảy ra trong lò lửa hừng hực. Tôi nghe thấy cả những tiếng lách tách, tiếng nổ vỡ của những mảnh kính và cả tiếng reo mừng chiến thắng của ngọn lửa. Có lần, tôi không thể nhớ được tại sao, không biết có phải là do ngọn lửa quá hung dữ hay, ngược lại, do chưa đủ độ nóng, hay có thể là do gió thổi quá mạnh không, đống phế thải mà tôi cho vào đã không kịp cháy mà luồng hơi trong lò thiêu hủy đã nuốt chửng lấy và thổi phụt tất cả chúng ra ngoài qua cái ống khói cao ngất rồi bay tứ tung lên bầu trời. Và tôi đứng lặng đó chứng kiến cảnh tượng trong sự hãi hùng và khiếp sợ khi tất cả đồ phế thải của tôi - những mẩu vải bẩn thỉu, đủ mọi loại giấy lau và cả những mảnh băng, mảnh gạc thấm đầy máu và mủ - từ từ rơi xuống đất, chúng vương lại trên những cành cây quanh đấy hay rơi lả tả trên những luống hoa, hay bị gió thổi tứ tung tới tận những cánh cửa sổ của các phòng bệnh. Khi đó, các bệnh nhân tâm thần và thiểu năng của Viện Phúc lợi Xã hội đang dọn dẹp khoảnh sân và vườn hoa của bệnh viện, đều chạy túa ra mọi hướng, gào lên một cách sung sướng và họ cùng nhau chỉ lên một cái cây bu-lô vỏ trắng hếu cao ngất nghểu đã bị phủ đầy rác trông giống như một cây thông ngày Giáng sinh.
Tôi chợt nảy ra ý nghĩ rằng những gì vừa xảy ra chẳng khác nào một hành động mang tính răn dạy với những sự kiện tưởng như bình thường vẫn xảy ra hằng ngày. Cho dù chúng có biến mất trước mắt ta như thế nào đi chăng nữa, thì cũng chỉ là được chuyển từ thể này sang thể khác mà thôi. Rác rưởi luôn là thứ bất diệt, nó lan tràn khắp mọi nơi, trong bầu khí quyển, tan vào trong nước, bị thối rữa, bị phân hủy, bị biến thành khí gas, thành khói, thành bồ hóng, khi đó, nó sẽ đi khắp nơi và từ từ nhấn chìm chính thế giới này.
Chúng tôi bắt đầu công việc trên phố Lomnického. Quý cô Venus của chúng tôi, tên thật là Zoulová, đang quét bằng một chiếc chổi, và người đàn ông đội chiếc mũ thuyền trưởng lúc nào cũng nhai chóp chép và thi thoảng lại nhổ nước bọt phì phì, đang cùng quét với cô bằng một chiếc chổi khác. Họ cùng nhau quét rác lên chiếc xẻng của tôi và tôi hót hết đống rác bẩn thỉu dơ dáy đó đổ vào cái thùng rác trên chiếc xe đẩy của chúng tôi. Khi chiếc thùng đã đầy, chúng tôi lật ngược nó để đổ hết rác xuống bên lề đường, tất cả rác rưởi sẽ được chất thành một đống, đống rác này sau đó sẽ được đưa lên và chuyển đi nơi khác bằng xe tải. Theo cách này, chúng tôi đánh dấu tiến độ công việc của mình bằng những đống rác như thế và cứ từ từ tiến dần tới Vyšehrad4. Tôi đưa mắt nhìn lên tán lá sẫm màu của hàng cây, chúng đang vẫy gọi tôi cho dù chẳng có ai đang đợi tôi dưới hàng cây đó, thậm chí cả cô ấy cũng không còn đợi tôi nữa. Tôi nghĩ về cô ấy chỉ như là chính “cô ấy” thôi. Sâu trong tâm khảm mình, tôi gần như không thể đặt cho cô ấy một cái tên. Nhiều cái tên đã được tính đến và sau đấy lại bị lãng quên như những từ ngữ đơn điệu.
4 Vyšehrad (hay còn gọi là Thượng thành) lấy theo tên một vách đá dốc đứng, nơi có thể quan sát toàn cảnh Prague.
Thi thoảng, trong đầu mình, tôi đã gọi cô ấy là một nhà tiên tri, bởi vì cô ấy thường đoán trước hậu vận của người ta và cô ấy dường như biết về tôi nữa. Cô ấy cũng bị bao bọc bởi sự huyền bí, và chính nó càng làm cho cô ấy đẹp hơn rất nhiều. Khi được đặt tên thánh, cô ấy được gọi là Daria.
Tôi không thể nhớ nổi là chúng tôi đã từng tới đây cùng nhau hay chưa. Những cuộc hẹn hò của chúng tôi trong chừng ấy năm đã chồng chất lên nhau như những bài dân ca nói về người nông dân vậy. Tôi gặp cô ấy sau cuộc viếng thăm một người bạn đang sống trên một chiếc xe moóc, anh này đang luyện tập để trở thành phụ tá cho một nhà địa chất. Tất cả tâm trí tôi như bị mê hoặc bởi một bức tượng nho nhỏ có phong cách khác thường khiến cho nó trở nên nổi bật hơn trong khung cảnh đơn sơ của chiếc thùng xe moóc. Anh bạn tôi, người vừa mới đây có viết mấy bài bình luận về nghệ thuật, đã kể cho tôi nghe về một nữ nghệ sĩ mà với cô cả thế giới bị bao bọc bởi những giấc mơ, những ảo tưởng, những đam mê và cả sự dịu dàng. Anh bảo đảm với tôi rằng chỉ một lần ghé thăm xưởng điêu khắc của cô, tôi sẽ có một kỷ niệm sâu sắc, và tôi ghi ngay địa chỉ. Rồi một hôm, khi đang tìm mua món quà sinh nhật cho vợ mình, tôi chợt nhớ ra cái địa chỉ đó.
Xưởng điêu khắc của cô nghệ sĩ nằm trong một tầng hầm có mái vòm cỡ trung bình ở quận Little City của thành phố Prague. Một phần ba căn phòng được dùng để chứa những chiếc kệ gỗ trưng bày tác phẩm của cô ấy.
Cô ấy tiếp đón tôi một cách rất lịch thiệp và chúng tôi tán gẫu với nhau một lúc, cô ấy thậm chí còn kể cho tôi nghe về đứa con gái bé bỏng của mình và hỏi vợ chồng tôi đang làm nghề gì. Thế nhưng tôi nghĩ rằng cô ấy quan tâm như vậy cũng chỉ vì tôi đã đến nhà cô với tư cách một khách hàng.
Cô nhẹ nhàng lướt qua những chiếc kệ để đồ của mình. Khi cô ấy bước đi, những cặp mắt nâu và những đôi môi đỏ tươi in trên chiếc váy dài của cô cũng như đang chuyển động. Đôi mắt cô ấy màu xanh dương và đôi môi tái nhợt. Liệu chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi ôm chặt lấy cô ấy ở giữa những chiếc kệ đó? Thế nhưng, tôi biết là tôi không thể.
Tôi đã mua một con chim có chiếc cổ mỏng manh và cái đầu nhọn với đôi mắt người tinh quái nhỏ xíu. Cô ấy đã bọc món đồ tôi mua bằng giấy ăn và tiễn tôi đến tận cửa. Sau đó chúng tôi không gặp lại nhau trong nhiều tháng liền. Thế nhưng, đêm trước ngày sinh nhật lần thứ bốn mươi bảy của tôi, cô ấy bất ngờ xuất hiện trước cửa nhà tôi: cô muốn mượn bức tượng nhỏ của mình để đem tới một buổi triển lãm sẽ được tổ chức tại Budapest5. Tôi đã mời cô ấy vào trong nhà và giới thiệu cô ấy với vợ tôi, người rất vui được làm quen với cô. Ba người chúng tôi cùng ngồi trong phòng làm việc của tôi. Lída, người luôn thích làm người khác hài lòng, đã thổ lộ rằng cô thích bức tượng bé nhỏ đó biết chừng nào.
5 Thủ đô của Hungary.
Chúng tôi đã uống rượu, bản thân tôi và vợ tôi cũng tỏ ra rất lịch thiệp. Daria kể về cuộc triển lãm sắp tới của mình và sau đó kể về những chuyến đi của cô. Cô đã kể cho chúng tôi về Campuchia, một đất nước cô đã có dịp ghé thăm. Cô kể về đất nước đó giống như một thiên đường của những con người thánh thiện và hạnh phúc - chuyện này đã mê hoặc vợ tôi, người vốn rất thích giải thoát cảm giác tội lỗi của những người khác - rồi chúng tôi tiếp tục chuyển sang nói về bản chất văn hóa của chính chúng tôi, một thứ vẫn được dựa trên sự hiểu biết về tội lỗi cũng như về cả những tội lỗi siêu hình. Daria xác nhận rằng học thuyết về tội lỗi là một lời nguyền của chúng tôi, bởi vì nó đã tước mất tự do của chúng tôi và tự đặt nó vào giữa con người này với con người khác cũng như giữa nhân loại với Đức Chúa Trời. Vợ tôi không mấy đồng tình. Cô ấy tin rằng tự do cần phải bị giới hạn bởi một số luật lệ nội bộ nhất định, tới lúc này cuộc nói chuyện lại chuyển sang đề tài về con cái và cách nuôi dạy chúng. Tuy thế, tôi càng lúc càng ít quan tâm hơn đến những gì đang được bàn luận và thay vào đó tôi nhận thức được một điều hoàn toàn khác: một giọng nói không thành lời của người đàn bà kia. Tôi có cảm giác như nó đang kêu gọi tôi với hy vọng tôi sẽ nghe thấy nó và hiểu được nó.
Bóng chiều đã tràn ngập cả căn phòng và dường như những tia sáng yếu ớt cuối cùng đang soi rọi lên vầng trán cao của cô, thật kỳ lạ, vầng trán ấy trông giống hệt như vầng trán của vợ tôi. Điều lạ lùng là ánh sáng đó không tắt theo ngày tàn. Dường như nó bắt đầu tỏa sáng từ chính cô, từ một ngọn lửa không còn nghi ngờ gì nữa, đang hừng hực cháy trong con người cô, và tôi nghĩ rằng ngọn lửa này đang vươn đến tôi và nhấn chìm tôi bằng hơi thở nóng hổi của nó.
Sau khi cô ấy đã ra về, tôi dường như vẫn đang lú lẫn trong trạng thái bị khuất phục bởi sức mạnh của ngọn lửa ấy. Lída cho rằng nữ nghệ sĩ điêu khắc kia là một phụ nữ rất thú vị và cô gợi ý chúng tôi có thể mời cô ấy tới chơi, và có thể thì nên mời cả chồng cô ấy nữa, nhưng bản thân tôi, có thể do xuất phát từ một nỗi sợ hãi mơ hồ hay từ một linh cảm về một sự thông đồng nào đó, đã không ủng hộ ý tưởng này mà quay sang nói chuyện về một vài chủ đề khác. Vợ tôi trở về phòng mình, còn tôi đã cố gắng một cách vô ích để tập trung vào công việc. Vậy là tôi bật đài lên, một bản nhạc baroque dành cho organ đang được phát sóng, thế nhưng âm nhạc cũng không thể làm tôi bình tĩnh lại được, tôi không thể cảm nhận được nó. Thay vào đó, tôi chỉ nghe thấy những âm hưởng rời rạc của mấy câu nói đang văng vẳng đâu đây: tiếng nguyện cầu của một giọng nói xa lạ đã lan tỏa khắp người tôi giống như sức nóng của việc tắm hơi. Cái giọng nói ấy thật sự giống như thế nào nhỉ? Tôi cố tìm một từ thích hợp để mô tả nó. Nó không phải là từ gây ấn tượng, ngọt ngào hay êm ái, cũng không phải nhiều màu sắc hay khó chịu - tôi không thể nói được cái gì đã làm tôi mê mệt đến thế.
Đêm hôm đó, khi tôi ôm lấy vợ tôi, người vốn rất dịu dàng và bình tĩnh mỗi khi làm tình, giống như một dòng sông êm đềm chảy trong mùa hạ, tôi lại nghe thấy giọng nói đó và bỗng nhiên tôi nhận ra rằng chỉ có một từ đúng nghĩa nhất dành cho nó: đó là say đắm. Tôi đã cố xua đuổi nó ra khỏi tâm trí mình - vào đúng cái khoảnh khắc chẳng hợp lý tí nào ấy - nhưng tôi không thể làm được gì.
Chúng tôi đã qua một khúc cua và giờ đây đang di chuyển ra xa khỏi phố Vyšehrad. Tôi vẫn đang dùng chiếc xẻng to đùng của người thợ mỏ để hót những mẩu giấy, những cái cốc nhựa và mấy vỏ bao diêm rồi hất lên trên chiếc xe đẩy, cả một cái đầu búp bê, một chiếc giày tennis, một ống kem đánh răng đã hết, một lá thư mờ nhòe - và nhiều nhất trong số đó được vứt đầy trên mặt đất - là những đầu mẩu thuốc lá. Tất cả những thứ rác rưởi đó được tôi hất vào trong chiếc thùng xe đẩy, và khi chiếc thùng ấy đã đầy đến tận miệng, anh “thuyền trưởng” cùng tôi túm lấy nó và đẩy nó ra lề đường rồi trút ụp nó xuống, từ đấy những cơn gió, vẫn đang mạnh dần lên, thổi ào qua nó, làm cho đống rác bay tung tóe khắp mọi nơi, thế nhưng điều đó chẳng thành vấn đề: dù sao thì rác cũng không thể bị hủy diệt một cách dễ dàng.
Rác giống như cái chết. Làm gì có một thứ nào bền vững đến vậy?
Gia đình người chủ quán rượu, hàng xóm của chúng tôi, có năm đứa con, đứa nhỏ nhất cùng tên với tôi và trạc tuổi tôi. Chúng tôi thường chơi với nhau, và tình bạn với nó đã khiến tôi có thể thâm nhập vào những nơi bí hiểm nhất trong cái quán rượu ấy, chẳng hạn như hầm rượu, nơi, thậm chí trong cái nóng nực của mùa hè, vẫn còn tồn tại những tảng đá khổng lồ đang tỏa sáng lung linh, cũng như những thùng bia lạnh kếch xù - chí ít ra chúng dường như rất lớn đối với tôi lúc bấy giờ - hay những gian chuồng ngựa có những bức tường, những con ngựa ở đó đã được thay thế bằng một chiếc xe Praga màu đen, vẫn còn bốc mùi hôi hám nồng nặc của nước đái ngựa hay có những góc khuất đã trở thành những nơi trú ngụ của đủ loại mèo lớn nhỏ với đủ màu sắc.
Cậu bé ấy mắc bệnh bạch hầu và đã chết trong vòng có một tuần. Khi đó tôi mới năm tuổi, tôi không thể hiểu được cái chết có ý nghĩa như thế nào. Cha mẹ tôi không đưa tôi đi dự đám tang của người bạn ấy. Tôi chỉ được nhìn thấy người chủ quán trọ mặc một bộ đồ màu đen và vợ ông ta đang khóc lóc thảm thiết, các vị khách đến dự đám tang qua ô cửa sổ, và tôi chỉ được nghe thấy đội kèn đồng chơi một loại nhạc chậm chạp đến mức không tin được.
Khi tôi hỏi, lúc nào người bạn cùng tên với tôi sẽ quay trở lại, mẹ tôi, sau một chút lưỡng lự, bảo tôi rằng cậu ấy sẽ không bao giờ quay trở lại, cậu ấy đã ra đi mãi mãi rồi. Tôi muốn biết cậu ấy đi đâu nhưng mẹ tôi không trả lời. Tuy thế, bà bõ già phục vụ trong quán rượu, trong một lần tôi lấy hết can đảm để hỏi, đã bảo tôi rằng dĩ nhiên là cậu ấy đã lên thiên đường. Tâm hồn trong trắng bé bỏng của cậu ấy bấy giờ đang bay giữa những bông hoa trên khu vườn địa đàng, cậu ấy đang được đùa vui với các thiên thần, và nếu tôi là một đứa bé ngoan thì một ngày nào đó tôi sẽ được gặp cậu ấy ở trên đó.
Tôi đã lớn lên trong môi trường mà chưa bao giờ được nghe một lời cầu nguyện, và khu vườn duy nhất mà tôi biết đến là khu vườn nho nhỏ nằm ngoài cửa sổ, ở đó chẳng có thiên thần nào cả, cho dù đôi lúc tiếng còi tàu có rú lên từ xa xa vọng qua hàng rào.
Tôi muốn tìm hiểu nhiều hơn về vườn địa đàng và về những linh hồn đang bay lượn trên đó, thế nhưng mẹ tôi lẩn tránh những câu hỏi của tôi và bảo tôi tới hỏi cha.
Người cha tài giỏi của tôi, người mà tôi biết đã từng nghĩ ra những cỗ máy cho những chiếc tàu hỏa chạy nhanh nhất đang rú lên ầm ĩ mỗi khi chạy ngang qua cửa sổ nhà tôi, cũng như những chiếc máy bay gây ra tiếng động ầm ầm như tiếng sấm trên đầu chúng tôi, và cũng vì thế mà luôn nhận được sự kính trọng nhất định từ những người khác, đã rất sửng sốt trước câu hỏi của tôi. Ông cầm lấy tay tôi, dẫn tôi ra ngoài, và nói với tôi rất lâu về nguồn gốc của thế giới, về những khí gas nóng và về các cơ chế làm mát, về những thứ nhỏ xíu và cả những nguyên tử không thể nhìn thấy được đang liên tục vận động ở mọi nơi và trong mọi thứ. Chúng đã tạo nên những khối đất, những phiến đá trên con đường mà chúng tôi bước chân qua, và cả đôi chân đã đưa chúng tôi đi đến mọi nơi. Chúng tôi đi dọc theo đường ray xe lửa, qua khu rừng lưa thưa ở vùng ngoại ô, hướng về phía sân bay. Những đoàn tàu giờ đây đang rít lên ầm ầm dọc theo phía dưới chúng tôi, trong khi những chiếc máy bay quân sự loại hai lớp cánh đang nổ ầm ĩ ngay trên đầu. Cha tôi cũng bảo với tôi rằng con người ta luôn phải chịu đựng việc bị trói buộc với mặt đất, và không thể tự gỡ mình ra khỏi nó. Thế nhưng con người ta luôn mơ ước được rời khỏi nó, vì thế họ đã sáng tạo ra vườn địa đàng, nơi có tất cả mọi thứ mà con người khao khát cháy bỏng nhưng không bao giờ có được trong cuộc đời họ, và họ đã mơ về những sinh vật giống như họ nhưng có thêm đôi cánh. Thế nhưng điều mà trong quá khứ tưởng chừng chỉ có trong những giấc mơ bây giờ đã bắt đầu được hiện thực hóa - cha tôi nói rồi đưa tay chỉ lên bầu trời cao vút. Các thiên thần không hề tồn tại, nhưng giờ đây con người ta có thể bay được. Không có thiên đàng để linh hồn của con người có thể cư ngụ, nhưng một ngày nào đó tôi sẽ hiểu rằng điều quan trọng hơn đối với con người là phải sống một cách vui vẻ và thật hạnh phúc ở đây, trên trái đất này.
Mặc dù tôi không hiểu hết những gì cha tôi đã giải thích, nhưng đôi chút buồn bã vì không thể cắt nghĩa được trong mỗi từ ông nói ra đã khiến tôi òa khóc. Để an ủi tôi, ông hứa sẽ đưa tôi tới dự lễ Ngày mở cửa tại sân bay vào Chủ nhật sau đó và sẽ cho tôi bay trên một chiếc máy bay trên bầu trời Prague.
Và đến ngày Chủ nhật ấy, đúng là ông đã cho tôi vào trong một cỗ máy đang gầm rú, rồi nó chồm lên, lăn bánh dọc theo mặt cỏ và trước sự kinh ngạc đến khiếp sợ của tôi, nó lao vào không trung, đem cả tôi lên trên ấy, tới khi nó lấy được độ cao thì mặt đất bên dưới tôi bắt đầu nghiêng đi và tất cả mọi thứ trên đó dần nhỏ lại tới tận khi chúng nhỏ xíu rồi chẳng còn là gì nữa. Thứ đầu tiên biến mất là con người, sau đó đến lượt những chiếc xe ngựa kéo và ô tô, cuối cùng ngay cả những ngôi nhà cũng biến mất. Tôi nhắm tịt mắt lại và thấy chính mình đang lơ lửng trong bóng tối ồn ào và chính nó đang nhấn chìm tôi. Tôi chợt giật mình vì ý nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ quay trở lại mặt đất được nữa, giống như người bạn cùng tên với tôi, như người ta nói, đã chết.
Chẳng có gì xảy ra vào lúc đó cả. Daria đã ra về và tôi quay trở lại với công việc. Tôi đang viết mấy câu chuyện về tình yêu thời thơ ấu của tôi và tôi đang chìm ngập trong những ký ức về sự náo động của những ngày đó. Khi tôi nhìn trân trân vào góc tối nhất trong phòng làm việc của mình, nhìn vào chiếc ghế bành mà cô ấy vừa mới ngồi, những ký ức xúc động của ngày xưa dường như lại thành hình.
Tôi ra khỏi nhà và đi đến bốt điện thoại công cộng - đường dây điện thoại trong căn hộ của tôi đã bị cắt - và tôi quay số của cô ấy. Tôi vẫn có cảm giác náo nức, cảm giác ấy chỉ thích hợp với độ tuổi của tôi nếu ai đó công nhận rằng cảm giác đó là thích hợp với mọi lứa tuổi. Tôi hỏi thăm xem cuộc triển lãm ở Budapest diễn ra thế nào. Tôi lắng nghe cô ấy liệt kê một hồi từ những bức tranh đến những hầm rượu, rồi sau đó tôi nói qua về công việc của tôi và cũng nhấn mạnh rằng tôi đã nghĩ rất nhiều về cuộc viếng thăm của cô ấy và rằng tôi sẽ rất vui nếu được gặp lại cô ấy vào một lúc nào đó. Nhưng tôi không đưa ra một dự định nhất quán nào, còn cô ấy chỉ cười lặng lẽ nghe những lời tôi nói. Cuộc nói chuyện đó đã làm tôi lúng túng, và thay vì đi về nhà tôi lại lang thang qua mấy con phố nhỏ gần nơi tôi ở, trong tâm trí tôi cuộc nói chuyện ấy vẫn cứ tiếp tục, và nó đã bắt đầu mang tính cá nhân và dễ vỡ hơn. Tôi đã mất đi thói quen tự đối thoại như thế hay đối thoại nói chung. Tôi đã mất đi thói quen nói chuyện với bất cứ ai.
Tôi đã sống theo kiểu lưu đày kỳ lạ trong suốt mười năm trước đó, bị bao bọc bởi sự cấm đoán và phong tỏa đôi khi bởi những thứ hữu hình nhưng đôi khi lại bởi những thứ vô hình và cũng có khi chỉ bởi những người quan sát đã được tôi tưởng tượng ra. Tôi đã không được phép đi vào cuộc đời ngoại trừ như một khách mời, như một vị khách vãng lai hoặc như một người lao động thu nhập theo ngày trong một vài nghề nghiệp được lựa chọn. Trong suốt những năm ấy, trong con người tôi luôn có một niềm khao khát một điều gì đó sẽ xảy ra, một điều gì đó sẽ thay đổi cuộc đời tôi, trong lúc ấy sự rụt rè của tôi, thứ tôi thừa hưởng từ mẹ mình, đã tăng lên và làm cho tôi ngượng ngùng trước bất cứ sự thay đổi nào và trước tất cả những người lạ. Vì thế ngôi nhà của tôi trở thành nơi trốn tránh và cũng là cái cũi cho chính tôi, tôi muốn ẩn mình trong nó nhưng cũng muốn thoát ra khỏi nó, để chắc chắn rằng tôi sẽ không bị lôi ra khỏi và cũng hy vọng rằng tôi sẽ trốn thoát một ngày nào đó. Tôi bám chặt lấy mấy đứa con của mình, hay ít nhất tôi cần chúng hơn tất cả những ông bố bình thường cần đến những đứa con của họ. Tôi cũng cần đến vợ mình theo cái cách tương tự như vậy. Thế giới bên ngoài đến với tôi qua những gì thân thương và gần gũi nhất với tôi, và qua chúng tôi cất bước vào cái thế giới đó, mà cũng chính từ đó tôi bị tống cổ ra ngoài.
Tôi không nghĩ cuộc đời lại dễ dàng hơn đối với bất cứ đứa nào trong bọn trẻ con. Bọn chúng, giống như tôi đã làm trong thời thơ ấu, mang một nguồn gốc không thích hợp, và vợ tôi thì dành đến cả năm để có được một công việc tươm tất nửa chừng. Mệt mỏi vì phải xếp hàng trước các công sở chịu trách nhiệm bảo vệ những nơi làm việc trước những người tham gia hoạt động chính trị mà không qua bỏ phiếu, cô ấy đã chấp nhận một vị trí làm nhiệm vụ thăm dò chính kiến dư luận cho một số chương trình khảo sát xã hội học. Vì đồng lương chỉ mang tính nhục nhã nhiều hơn là khích lệ, cô ấy phải lang thang khắp các ngóc ngách của những khu dân cư và thuyết phục những người chẳng mấy vui vẻ hay những bị đơn đang hoảng sợ trả lời những bảng hỏi của cô ấy. Cô ấy không hề phàn nàn, nhưng đôi lúc tỏ ra rất chán nản. Sau đó cô ấy sẽ phủ lên đầu bọn trẻ và cả tôi những lời trách mắng về một vài thói quen hay hành động mà thông thường cô ấy vẫn bỏ qua. Tôi không phải đi làm. Khi tất cả mọi người trong gia đình đều đã ra khỏi nhà vào buổi sáng, tôi sẽ ngồi xuống bàn của mình, với một chồng giấy trắng cũng như một ngày dài đằng đẵng và cả sự im lặng sâu thẳm ở trước mặt. Điện thoại không thể đổ chuông, và thỉnh thoảng có tiếng bước chân vọng vào trong phòng, nó thường nhắc nhở tôi rằng: có thể tôi sẽ có những vị khách không được đón chào hơn là những vị khách được mời đến.
Tôi viết. Trong nhiều giờ và nhiều ngày rồi nhiều tuần. Những vở kịch mà tôi sẽ chẳng bao giờ được thấy trên sân khấu và những cuốn tiểu thuyết mà tôi khẳng định rằng sẽ chẳng bao giờ được in bằng chính thứ ngôn ngữ được dùng để viết ra. Tôi đang làm việc, nhưng cùng lúc ấy tôi lại sợ rằng sự im lặng đang bao vây lấy tôi cuối cùng sẽ lấn át được mình, làm tê liệt trí tưởng tượng của tôi và giết chết những cốt truyện của tôi. Tôi cứ ngồi ở bàn làm việc mà lo sợ cả sức nặng của cái trần nhà, sức nặng của những bức tường xung quanh và tất cả những thứ có thể chôn vùi tôi bất cứ lúc nào bằng chính sự lãnh đạm của chúng.
Chính vì thế tôi đợi vợ và mấy đứa con quay trở về. Lúc bước chân họ vang lên trên cầu thang là lúc sự im lặng bị phá vỡ và tôi có thể cảm thấy được sự thanh bình quay trở lại với mình - không phải sự thanh bình của im lặng mà là sự thanh bình của cuộc đời.
Dĩ nhiên tôi hiểu rằng lũ trẻ sẽ sớm trưởng thành và rời khỏi ngôi nhà này, tiếng bước chân của chúng thậm chí còn tạm thời hơn cả tính chất tạm thời của bản thân tôi. Tôi đã nói chuyện với chúng, chia sẻ niềm vui với chúng, nhưng tôi cảm thấy chúng đang rời xa tôi và tôi biết mình không thể chống lại hành động đó nếu như tôi không phải chống lại cuộc đời này.
Tôi cũng chứng kiến vợ mình tìm kiếm một khoảng không riêng để cô ấy có thể vẫy vùng, cố gắng lẩn trốn sự đơn điệu của cái công việc đang chết dần chết mòn mà cô ấy đã phải làm và phải học trong cả những giờ nghỉ ngơi của mình. Cô ấy đã quyết định sẽ cố gắng tìm hiểu tâm hồn con người ta là thứ gì, để thâm nhập vào bí ẩn của nó với hy vọng tìm được cách làm dịu bớt nỗi thống khổ của nó. Với tôi cách làm đó táo bạo và dường như là quá liều lĩnh, thêm vào đó tôi còn thấy cô ấy vẫn giống như khi tôi gặp cô lần đầu tiên, quá trẻ con và quá ít kinh nghiệm về cuộc đời để hoàn thiện được những điều mà cô đang thực hiện, nhưng tôi vẫn cố gắng khích lệ cô ấy: con người ta đều bắt đầu theo cái hướng mà từ đó ít nhất anh ta nghe thấy được một tiếng gọi mơ hồ.
Chính bản thân tôi cũng đi theo hướng riêng của mình. Giờ đây tôi ít hào hứng hơn với những gì vẫn thường cuốn hút tôi, những thứ ấy đã không còn làm cho tôi hứng thú. Cho tới gần đây, tôi đã sưu tập được những tấm bản đồ và những cuốn sách cũ mà bụi thời gian đã phủ lên một lớp dày. Tôi không còn cố tìm hiểu xem điều gì đang xảy ra ở bất cứ đâu hay khám phá xem khi nào những điều kiện, có thể được mô tả là không ủng hộ tôi, cuối cùng cũng bắt đầu được cải thiện. Tôi muốn biết liệu còn có điều gì ngoài những điều kiện đó không, liệu còn có điều gì đó có thể nâng cuộc đời chúng tôi khỏi sự vô nghĩa và lãng quên, thế nhưng tôi muốn khám phá nó cho chính bản thân mình, không phải là chấp nhận bất cứ thứ gì được để lộ ra và được người khác đưa đến dưới hình hài theo ý họ. Tôi muốn đạt tới điều đó không phải chỉ đơn giản bởi một kiểu tự hào mà vì tôi nhận ra rằng những điều quan trọng nhất trên cuộc đời này đều không thể truyền đạt được, không thể nén lại được thành lời, cho dù những người tin rằng họ đã ngộ ra được chúng luôn cố gắng để truyền đạt lại chúng, và thậm chí chính bản thân tôi cũng muốn làm như thế. Thế nhưng bất cứ ai tin rằng anh ta đã tìm hiểu được điều gì thật sự đang tồn tại ẩn sâu trong đó, và anh ta có thể truyền đạt lại cho những người khác bản chất thật sự của Đức Chúa, anh ta đã khám phá ra được đức tin đúng đắn cho họ, anh ta cuối cùng đã thoáng thấy bí ẩn của sự sinh tồn, thì đó đúng là một gã khờ hay một tay tùy hứng và thậm chí hơn thế nữa, có thể còn là một tay nguy hiểm.
Tôi về nhà rất muộn, và ngay khi vừa bước chân vào nhà tôi đã cảm nhận thấy bầu không khí căng thẳng. Con gái tôi đang ngồi sau bàn, giương mắt kiểu chống đối nhìn ra ngoài cửa sổ, vợ tôi đang vùng vằng vừa rửa vừa quăng quật bát đĩa, còn chiếc máy cassette của thằng con tôi đang phát oang oang mấy bài hát phản đối xã hội. Tôi không thấy cần phải hỏi bất cứ lý do gì, nhưng Lída ngay lập tức phủ lên đầu tôi cả tràng dài những lời kêu ca, phàn nàn về lũ trẻ, những đứa con mà theo lời nhận xét của cô ấy là quá bẩn thỉu, nhếch nhác và lười chảy thây, rồi cô ấy yêu cầu tôi phải làm điều gì đó để cải thiện tình cảnh này.
Tôi thừa biết rằng bất cứ điều gì tôi có thể nói ra thì chính cô ấy đều đã nói cả với chúng rồi và tôi cũng chẳng có một chút hứng thú nào với việc kiến tạo hòa bình. Tôi đi thẳng vào phòng mình và cố gắng làm việc, nhưng căn hộ này (hoặc chính bản thân tôi) như ong lên với vô vàn những tiếng động ồn ào, khó chịu.
Tôi chợt nhận ra đã từ rất lâu rồi mình chỉ sống qua ngày, ngủ dậy rồi lại leo lên giường ngủ, và trong khi tôi đang sáng tác những cốt truyện, thì chính cốt truyện của riêng tôi đã dừng lại, không phát triển nữa mà đang bắt đầu lả tả rơi xuống những mảnh vụn vô nghĩa cuối cùng. Đáng lẽ ra tôi nên nói chuyện với ai đó về nó, thế nhưng khi cuối cùng chúng tôi cũng được ở riêng bên nhau, tôi cảm thấy sự bực dọc ở vợ mình, và chính điều này làm tôi lánh xa cô ấy. Tôi lập tức hỏi phải chăng tôi đã làm điều gì đó gây tổn thương cho cô ấy. Cô ấy trả lời rằng tôi đang làm tổn thương lũ trẻ bằng việc từ chối nuôi dạy chúng thành người theo đúng nghĩa của một người cha, rằng tôi quá nhu nhược và hay nuông chiều chúng một cách thái quá, rằng tôi đã không uốn nắn những sai sót của chúng, rằng tôi đã cố bợ đỡ chúng. Tôi phản đối rằng cô ấy thật sự không công bằng, thế nhưng ngay tức thì cô ấy xổ ra một trong những bài độc thoại được lắp ghép bởi những lời chỉ trích, lời khuyên răn có dụng ý và cả sự dẫn dắt của một nhà hiền triết. Hết lần này đến lần khác, cô ấy đổ hết lên đầu tôi và lũ trẻ, và cho dù có lý hay không, lần nào cô ấy cũng nghĩ ra chúng vào đúng lúc những người là mục tiêu công kích của màn độc thoại ấy từ chối nghe chúng hoặc chính họ cũng đang có nhu cầu muốn được nói và người khác nghe lời giải thích của họ.
Đã gần chín giờ và nhóm mặc đồ bảo hộ màu vàng cam của chúng tôi đang từ từ đi từ phố Sinkulova tới gần tháp nước. Mặt đường trải sỏi và dọc theo những vết nứt trên vỉa hè, những đám cây bồ công anh, cây mã đề và gần như tất cả các loại cỏ đều đã bén rễ. Cậu thanh niên với khuôn mặt trông như con gái hoặc là dùng tay nhổ bật chúng hoặc dùng chiếc mai dũi đất để rẫy chúng lên. Ngay cả khi cậu ấy cúi đầu xuống đất thì khuôn mặt cậu vẫn xanh xao như đang bị ốm vậy.
Dưới những tán cây bên vỉa hè có mấy chiếc xe hơi đang đỗ. Cả nhóm chúng tôi dừng chân bên xác một chiếc xe Volga cũ kỹ. Người trưởng nhóm nhấc nắp ca-pô lên nhìn ngắm một hồi rồi xác nhận với vẻ hài lòng rằng trong tuần vừa rồi một ai đó đã tháo mất bộ tản nhiệt.
Một chiếc xe con cũng là một thứ rác thải, một tổ hợp phức tạp gồm các linh kiện của đồ thải loại, và một trong số chúng đã len vào cuộc sống của chúng ta gần như ở mỗi bước ta đi.
Mười lăm năm trước tôi đã tới tham dự buổi công diễn đầu tiên của một trong những vở kịch của tôi tại một thành phố cách trung tâm Detroit6không xa lắm. Ông chủ tịch tập đoàn Ford đã mời tôi tới dự bữa tiệc trưa. Khi chúng tôi đang ngồi dưới mái hiên trên tầng thượng, nói chính xác hơn là trên nóc của tòa nhà chọc trời của tập đoàn Ford, từ đây có thể thấy được khung cảnh của toàn bộ thành phố đồ sộ gớm ghiếc qua những con phố đầy ắp những chiếc xe hơi đang nối đuôi nhau chạy hối hả, thay vì hỏi ông ấy về phiên bản xe hơi mới nhất của tập đoàn này - một câu hỏi chắc chắn sẽ làm cha tôi hài lòng - tôi lại muốn biết làm cách nào ông ấy có thể loại bỏ khỏi thế giới này tất cả những chiếc xe hơi khi chúng đã hết hạn sử dụng. Ông ấy đã trả lời rằng điều này không thành vấn đề. Bất cứ cái gì được sản xuất ra cũng đều có thể biến mất mà không hề để lại một chút dấu vết nào, nó đơn giản chỉ là một vấn đề mang tính kỹ thuật. Và ông đã phải bật cười trước cái ý nghĩ hoàn toàn rỗng tuếch - làm sạch thế giới. Sau bữa tiệc, ngài Chủ tịch cho tôi mượn cả xe và tài xế riêng của ông. Tôi đã được đưa đến tận vùng ngoại ô của thành phố ấy, nơi có một bãi đất rộng mông mênh với vô số những chiếc xe con kiểu sedan méo mó bẩn thỉu đang nằm chỏng chơ, cái nọ chồng lên cái kia. Những người thợ da đen mặc những bộ quần áo bảo hộ lao động sáng màu đang tháo tung những chiếc xe đó bằng những cặp kìm điện khổng lồ, họ lột sạch những chiếc lốp, những chiếc cửa sổ và ghế ngồi, sau đó đẩy phần còn lại của chiếc xe vào hàm của mấy cái máy ép to đùng. Chính những chiếc máy này sẽ biến những chiếc xe kia thành những khối kim loại có thể điều chỉnh được về mặt kích cỡ. Thế nhưng ngay cả những khối kim loại đó cũng không thể dễ dàng biến mất khỏi thế giới này, chứ chưa nói gì tới những chiếc kính, chiếc lốp hỏng hay dầu máy đã qua sử dụng, cho dù chúng có được đốt sạch trong những chiếc lò tiêu hủy chất thải. Rồi đến khối lượng xăng dầu khổng lồ đã được sử dụng cho tất cả những chuyến đi cần thiết hay không cần thiết, cũng không thể dễ dàng biến mất một cách tự nhiên. Họ có thể nung chảy khối kim loại đã bị ép thành hộp ấy để tái chế thành sắt, thép và hợp kim mới cho những chiếc xe hơi mới, vậy là rác cũ lại được chuyển đổi thành loại rác mới hơn, chỉ tăng thêm một chút về mặt khối lượng. Nếu như tôi có gặp lại cái ông Chủ tịch tập đoàn đầy tự phụ ấy, tôi sẽ nói với ông ta rằng: Không, đây không thể chỉ là vấn đề kỹ thuật.
6 Thành phố lớn nhất của tiểu bang Michigan, Mỹ, là thủ phủ của quận Wayne. Thành phố Detroit được biết đến như là trung tâm ô tô truyền thống của thế giới nói chung và của nước Mỹ nói riêng.
Bởi vì linh hồn của những thứ đã bị vứt đi đang mọc lên trên khắp mặt đất cũng như trong lòng của tất cả các đại dương và hơi thở của nó là điềm báo về tội lỗi.
Trong chiến tranh, những loại rác rưởi đã đột ngột tấn công chúng ta: Theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nó nhấn chìm chúng ta giống như cái chết, và đôi khi thật khó tách bạch rạch ròi giữa hai thứ ấy. Chúng chắc chắn đã hòa làm một trong thâm tâm mẹ tôi - cái chết và rác rưởi, bà đã tin rằng cuộc sống luôn gắn liền với sự sạch sẽ tinh tươm theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
Cuộc chiến ấy đã qua đi, chúng ta đang mong được sống trong tình yêu và hòa bình, thế nhưng bà vẫn đang phải vật lộn để có được sự sạch sẽ. Bà muốn biết những suy nghĩ của chúng tôi và bà khiếp sợ những đôi ủng của chúng tôi, bàn tay của chúng tôi và cả những từ ngữ mà chúng tôi nói ra nữa. Bà kiểm tra thư viện của chúng tôi và lấy đi những cuốn sách có thể làm vấy bẩn tâm hồn chúng tôi, bà đã mua một chiếc nồi thật lớn để luộc tất cả đồ lót của chúng tôi hàng ngày. Thế nhưng như thế vẫn chưa đủ, bà cảm thấy ghê tởm chúng và bà lúc nào cũng bắt chúng tôi phải rửa tay, bà sẽ chỉ đụng vào đồ vật của người khác và những chiếc nắm đấm cửa khi đã đeo đôi găng tay vệ sinh được hấp thật sạch.
Thi thoảng vào buổi đêm, tôi nghe thấy tiếng bà thở dài và cả tiếng bà than khóc nữa. Bà đang than khóc cho những người thân đã mất trong chiến tranh, nhưng chắc chắn bà cũng khóc cho sự bẩn thỉu của cái thế giới bà đang phải sống. Vì thế trong ngôi nhà của chúng tôi luôn chỉ có sự sạch sẽ và nỗi cô đơn ngự trị. Cha tôi rất hiếm khi về nhà, ông đã tìm một công việc ở Plzeň để có thể thở được theo cách tự do hơn. Khi ông quay về vào những ngày Chủ nhật, ông thường đi chân trần tới phòng làm việc trên một con đường làm bằng những tờ báo, thế nhưng ngay cả lúc bước nhanh qua đại sảnh cũng đủ để nó bị nhấn chìm bởi cái mùi mà trong đó mẹ tôi đã luôn nhận thấy sự hôi hám của mấy người đàn bà phóng đãng cũng như mấy con điếm nào đấy. Cha đã cố gột rửa nó cho thật sạch, phủ lên tấm thảm trên sàn bằng những tờ báo mới tinh nhưng tất cả đều vô ích.
Tôi đã chờ sẵn việc cha tôi không quay trở về một ngày nào đó, việc ông cứ ở lại với người đàn bà lạ lẫm, hôi hám của ông và tôi sẽ không trách ông. Thế nhưng ông vẫn xuất hiện một cách đều đặn vào mỗi dịp cuối tuần, và thậm chí đôi khi ông thuyết phục tôi đừng bao giờ phán xét mẹ: Bà là một người phụ nữ tốt bụng, chỉ là hơi ốm yếu, và không phải ai cũng có đủ sức mạnh để có thể dễ dàng vượt qua tất cả những gì chúng ta đã phải trải qua đâu.
Rồi họ bắt giam ông. Nỗi đau mà những người khác mang lại cho bà ít nhất cũng giúp bà thoát khỏi nỗi đau mà chính bà gây ra cho mình.
Một chiếc xe chở nước thải vượt qua chúng tôi và dừng lại trước chúng tôi một đoạn vừa phải. Những người ngồi trên buồng lái trao đổi mấy câu chào hỏi với người trưởng nhóm của chúng tôi và họ bắt đầu đi kiểm tra miệng cống thoát nước gần nhất.
“Họ đang tìm kiếm cái gì thế?” - Tôi hỏi quý cô Venus.
“Họ chỉ đang muốn chắc chắn rằng những chiếc cống thoát nước không bị tắc”, cô giải thích. “Chúng ta không được phép bỏ bất cứ cái gì vào trong cống thoát nước. Có một lần anh bạn trẻ Jarda này”, cô chỉ tay về phía cậu thanh niên có khuôn mặt như con gái, “đã quẳng mấy bông hoa xuống đó, đúng lúc người thanh tra của họ lái xe đi ngang qua và ngay lập tức ông ấy đã định phạt cậu ta năm mươi curon7. Và lúc nào bọn họ cũng lượn qua lượn lại như thế, giống như những người bắt chuột vậy”.
7 Curon: đơn vị tiền tệ của Cộng hòa Czech.
“Đừng nói với tôi về những người bắt chuột”, người trưởng nhóm tham gia vào câu chuyện. “Ở Plzeň, bên dưới lò mổ, những con chuột đã hóa điên và thường chui lên từ miệng cống lúc đêm tối và chạy trên các con phố giống như những con sóc và kêu ré lên. Bọn họ đang ráo riết tìm kiếm người bắt chuột, thực tình họ sẵn sàng trả cho ông ta tới hai mươi nghìn đô la mỗi tháng, nhưng không có ai dám nhận bởi rõ ràng nếu một con chuột dại cắn anh, thì anh cầm chắc cái chết! Tôi có một người bạn ở Plzeň vừa ra khỏi quân đoàn lính dù, anh ta đã rất khó chịu với chuyện ấy và tuyên bố: “Tôi chẳng ngán mấy con chuột vớ vẩn này!”. Vậy là anh ta lấy một bộ đồ thợ lặn và chuẩn bị một tấm cao su dày đã được phủ một lớp amiăng để bọc kín lấy thân mình nếu như lũ chuột có tấn công anh ta.”
“Bọn chúng sẽ làm thế nào?” Tôi ngạc nhiên hỏi. “Chắc chắn rồi. Tôi chẳng bảo anh rằng bọn chúng là lũ chuột dại đấy sao. Ta đuổi theo chúng, nhưng khi chúng không còn nơi nào để lẩn trốn nữa thì chúng sẽ quay sang tấn công chúng ta. Nếu điều đó xảy ra thì ta phải nằm xuống, quẳng tấm mền chắn bằng cao su lên trên và bọn chúng sẽ chạy thẳng qua người ta. Và đó cũng là cách mà anh bạn tôi đã làm. Lúc anh ta nằm bất động dưới tấm mền cao su ấy thì không có chuyện gì xảy ra với anh ta cả, thế nhưng khi những con chuột dại ấy đồng loạt giẫm lên người anh ta thì chúng thực sự khiến anh hoảng sợ.”
Vài ngày sau, cô nghệ sĩ đã gửi cho tôi một tấm thiếp báo cô ấy sẽ ghé qua thăm tôi, thông báo trước ngày giờ cụ thể, cô ấy hy vọng là sẽ được gặp tôi.
Cô ấy xuất hiện đúng như đã hứa. Ngoài cửa sổ, những đám mây mùa thu đang trôi trên bầu trời và căn phòng lại một lần nữa rơi vào trạng thái tranh tối tranh sáng. Tôi không biết liệu có thứ ánh sáng tương tự như thế tỏa ra từ tôi không. Một người chưa từng được nhìn thấy ánh sáng của chính mình trong đôi mắt của người khác hay chỉ là những khoảnh khắc nhất thời của một cái liếc mắt đầy ẩn ý. Thế nhưng sau tất cả cô ấy có thể đã nhìn thấy cái gì đó, bởi vì nếu không cô ấy đã chẳng mong mỏi gặp lại tôi như thế, cô ấy sẽ không tự nguyện thực hiện một chuyến đi, thứ mà trong lúc tức giận, cô ấy đã phải thừa nhận rằng chỉ làm cho cô đau đớn. Tự tôi cũng rất kinh ngạc rằng cô ấy đã chủ động đến quá gần tôi.
Trong vài tuần đầu tiên, chúng tôi đi dạo ở vùng thôn quê, qua những khu rừng thưa và những công viên hoang dã. Cô biết tên của nhiều loại cây, ngay cả những loại cây rất hiếm cũng như nguồn gốc xuất xứ của chúng. Và cô đã đưa tôi qua tất cả những nơi đó, như thể đi qua miền đất của người Khmer và dọc theo dòng sông Hằng hùng vĩ của người Ấn Độ, qua những đám đông chen chúc trên những con phố ngột ngạt khó chịu, cô thậm chí còn dẫn tôi qua một khu rừng rậm và vào một tu viện của người Ấn Độ để tôi có thể nghe một thầy pháp thông thái răn dạy về cách sống trên cõi đời này. Cô còn kể cho tôi về gia đình cô, một gia đình có các nhà tư bản công nghiệp, các nhà giáo thuộc trường phái Phục hưng Dân tộc nổi tiếng ở Czech, một kẻ lầm đường lạc lối đã an phận ở sườn phía tây của dãy núi Andes, và một người dì lãng mạn khi không thể giữ được người tình của mình đã quyết định tuyệt thực cho tới chết. Trong cái gia đình ấy, còn có một sinh viên ngành luật xuất sắc, người có thể đọc thuộc lòng một cách rất lưu loát cả một cuốn sách luật nhưng lại chán chường với các loại luật lệ và quay sang nghiên cứu triết học và sau đấy không thể cưỡng lại được sự phù phiếm trong các nỗ lực tột cùng của con người, đã ngồi xuống viết chúc thư của chính mình trong đó kết luận rằng hạnh phúc chỉ là một giấc chiêm bao và cuộc đời là một chuỗi những đắng cay, tủi nhục và ngay sau khi viết xong bản chúc thư đó, ông đã tự gí súng vào đầu mình mà bóp cò để cho những giọt máu chảy ra từ vết thương tạo thành những dấu chấm cuối cùng cho kiệt tác của ông.
Tất thảy mọi người bên đằng nội nhà cô, cô giải thích, đều có một chút tài năng thiên phú, một ý chí cứng rắn, và tầm nhìn rất khoáng đạt - và cha cô chính là người xuất sắc nhất trong số đó. Cô thường xuyên kể về ông cho tôi nghe và dù chưa bao giờ được gặp ông, nhưng điều đó đã gợi cho tôi nhớ đến cha mình, không chỉ vì ông cũng là một kỹ sư có bằng cấp mà còn bởi ông cũng là người không biết đến hạnh phúc nào khác ngoài công việc của mình, ngoài các phép tính mà khi ông làm nó không ai được phép quấy rầy, và bởi vì ông là người mạnh mẽ, khỏe mạnh và cũng rất yêu đời một khi ông đã quyết định xếp mọi công việc của mình sang một bên.
Tôi cũng muốn kể cho cô nghe những điều tương tự về các cụ tổ nhà tôi, thế nhưng tôi lại không biết chút gì về họ cả. Tôi biết rằng một vài người trong số họ đã đến từ một nơi rất xa, nhưng tôi không rõ rằng thời gian đó là hai trăm năm hay là một nghìn năm về trước nữa. Tôi khẳng định vào thời kỳ bấy giờ họ đã biết đọc, cho dù đó là một thứ văn tự khác hoàn toàn với thứ văn tự tôi có thể đọc bây giờ, và họ đã cầu nguyện bằng một thứ ngôn ngữ mà tôi chẳng còn hiểu nổi lấy một từ. Tôi không biết họ đã làm gì để kiếm sống. Cả bà nội và bà ngoại tôi đều đã tới Prague để thử kiếm sống bằng nghề buôn bán ở đó nhưng họ đã không thành công. Các ông tôi cũng đến từ nông thôn. Ông nội tôi từng học ngành hóa học và đã làm một kỹ sư trong một nhà máy luyện đường ở vùng thuộc địa của đế quốc Hungary. Tại đó, khi cha tôi mới chỉ là một cậu bé mười một tuổi, ông đã vướng vào một sợi dây, ngã xuống một luống cày và bị thương rất nặng. Trong khi đó, ông ngoại tôi, lại sống rất thọ: ông đã là một thư ký tại các tòa án và vào cái tuổi tám mươi ông đã sống kinh qua cuộc Thế chiến lần hai cũng như đã từng nhận được một ngôi sao vàng trước khi bị ép buộc phải lưu đày tới khu vực dành cho người Do Thái. Cho dù vẫn còn giữ được ấn tượng rất mạnh mẽ với người ông lực lưỡng có bộ ria mép màu xám sặc mùi thuốc lá này, nhưng tôi vẫn không thể nói ra điều gì thật sự có thể gây được sự chú ý, ngoại trừ khả năng, giống như các cụ kỵ của mình, là ông tôi vẫn luôn tin tưởng đến mức ngang ngạnh vào sự trở về của Messiah8, nhưng với ông điều này còn có nghĩa là một ước vọng về cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa. Chính ước vọng này đã giúp ông tôi sống sót qua những cơn bão táp của số phận, vượt qua cái chết của người vợ thân thương, việc bị tịch biên hết tài sản, việc bị làm nhục và mất hết danh dự, chuyện bị bỏ đói và cả cuộc sống khổ sai của kiếp tù đày. Lần nào cũng thế, trong hoàn cảnh đau khổ đến cùng cực, ông đã luôn ra sức thuyết phục những ai có thể nghe ông nói và lần nào cũng vậy chỉ còn có tôi là thính giả cuối cùng còn sót lại. Ông cũng thuyết phục tôi đừng bao giờ tin vào Chúa vì đó chỉ là một khái niệm mà con người tạo ra, người đã lừa gạt những kẻ nghèo hèn đến mức họ sẵn sàng chống chọi với cả số phận của mình. Khi ông già hơn, những bài kinh cầu nguyện của ông trở thành lời cầu nguyện vĩnh viễn không hề thay đổi và tôi đã thuộc lòng chúng cho dù tôi chẳng còn nghe thấy chúng nữa. Và rồi một đêm nọ tôi chợt giật mình tỉnh giấc. Mọi người trong nhà đều đang ngủ rất say, và từ một góc của căn phòng nơi ông tôi ngủ, tôi nghe thấy tiếng rì rầm kỳ lạ. Tôi nhận ra đó là giọng nói của ông tôi với ngữ điệu ai oán của một lời cầu nguyện được nói ra bằng một thứ ngôn ngữ mà ông vẫn biết nhưng bản thân tôi không còn hiểu một tí nào, một lời cầu nguyện gửi tới Đức Chúa. Tôi không dám cựa quậy và kinh ngạc lắng nghe giọng nói dường như xuất phát từ một nơi xa xăm nào đó, từ sâu thẳm trong quá khứ. Đó là lần đầu tiên trong cuộc đời mình tôi ngộ ra rằng chiều sâu của tâm hồn con người ta không thể nào đo cho hết được.
8 Theo đức tin của người Do Thái là Chúa Cứu Thế.
Thi thoảng cha cô lại rời bỏ chiếc bàn vẽ để lang thang khắp các dãy núi và trèo lên những vách đá cheo leo nhất. Ông thường đem con gái mình đi theo và dạy cô không nên sợ độ cao. Còn cha tôi chỉ đi lang thang qua các dãy số chồng chéo lên nhau để từ đó những phiên bản mới của các cỗ máy chợt hiện ra trong đầu ông. Ông thậm chí còn đem theo cả máy tính bỏ túi vào những kỳ nghỉ, và khi ông bị cuốn hút bởi một ý tưởng nào đấy, mà chuyện đó lại thường xuyên xảy ra, thì ông quên sạch bọn tôi. Rồi sau đấy khi tìm thấy chúng tôi ở bên bàn ăn hay bên ngoài cửa sổ phòng làm việc của ông, ông sẽ rất ngạc nhiên vì chẳng hiểu chúng tôi từ đâu xuất hiện. Thế nhưng họ đã dùng vũ lực để lôi ông ra khỏi khung cảnh đó, mặc cho ông bộ quần áo tù nhân và khóa ông ở phía sau những sợi dây điện mà số vòng cuốn của nó thật quá dễ để tính ra. Ông đã tập trung tất cả nghị lực và sức mạnh của mình vào việc sống sót, sống sót trong danh dự, để ông có thể một lần nữa quay lại với khung cảnh yêu mến của mình. Ngoài các con số và các cỗ máy, sau này tôi mới biết cha tôi còn yêu những phụ nữ xinh đẹp và những hình ảnh về một thế giới tốt đẹp hơn. Giống như tất cả những người đàn ông đang yêu, ông đã hiến dâng cho đối tượng sùng bái của mình những hy vọng quá mức và nhầm lẫn.
Anh có nghĩ là mọi tình yêu đều ham mê những hy vọng ngang trái hay không? Cô ấy hỏi.
Tôi nhận ra rằng cô ấy đang hỏi về chúng tôi, và tôi không dám trả lời là đúng thế, cho dù tôi chẳng thể nhìn thấy lý do tại sao chúng tôi là trường hợp ngoại lệ.
“Nó giống như những nghĩa địa nằm trên đường cao tốc vậy”, cô Venus nói. “Khi phá hủy những nghĩa địa ấy, người ta phải đào hết hài cốt lên và họ đưa cái giá một trăm đô la cho một giờ làm việc, cộng thêm một chai rượu mạnh mỗi ngày và ngay cả với cái giá cao như thế mọi người vẫn đều bảo rằng họ không thể làm được công việc ấy. Người ta đã phải đưa tù nhân tới làm việc này và dĩ nhiên họ sẽ chẳng được trả gì cả.” Nói đến đây cô ngừng lại, vươn vai, dựng chiếc xẻng dựa vào bức tường gần đó rồi châm một điếu thuốc. “Những hài cốt của người đã khuất không phải là trò đùa, trong đó luôn có nhiều loại độc tố có thể xuyên qua găng tay cao su của ta, và một khi nó đã ngấm vào máu thì ta tiêu đời.” Cô đang hút thuốc và dường như đang nhìn chằm chằm vào một cõi hư vô nào đấy, một nơi chỉ mình cô mới thấy được. Nếu tôi gặp cô nhiều năm trước, chắc chắn là tôi đã nhẩm lại từng từ của cô cho chính mình, tôi sẽ vội vã ghi ngay chúng lại để có thể giữ được bài diễn văn của cô trung thực hết mức có thể. Lúc đó, tôi tin rằng tất cả những gì mà tôi đã nhìn thấy hay nghe được đều sẽ trở nên hữu dụng cho một truyện nào đấy. Thế nhưng lâu nay tôi hiểu ra rằng tôi hoàn toàn không thể tìm thấy bất cứ một sự kiện nào ngoài những sự kiện mà bản thân tôi đang phải trải qua. Con người ta không thể giành được quyền kiểm soát cuộc đời của bất cứ ai, và thậm chí nếu như anh ta có thể thì anh ta cũng không thể sáng tạo ra được một truyện mới hơn. Trên thế giới có tới gần năm tỷ người và mỗi người trong số này đều tin rằng cuộc đời anh ta rất mẫu mực cho ít nhất một câu chuyện nào đấy. Ý tưởng này đã quá đủ để khiến cho đầu óc ta phải quay cuồng rồi. Nếu có một nhà văn xuất hiện, hoặc tốt hơn thế là được sản sinh ra, một người đã bị ám ảnh đến mức có thể ghi lại tất cả năm tỷ câu chuyện, và sau đó loại ra tất cả những gì chung nhất, thì thử hỏi sẽ còn lại bao nhiêu? Chỉ cần một câu từ mỗi truyện, từ mỗi số phận, một khoảnh khắc chẳng khác nào một giọt nước nhỏ nhoi trong đại dương bao la, một lần e sợ không thể lặp lại hay một cuộc gặp gỡ, một cách nhìn nhận sắc sảo hay sự đau đớn - vậy nhưng ai có thể xác định được cái giọt nước ấy, ai có thể tách bạch nó ra khỏi dòng chảy khôn cùng của cả một đại dương? Và tại sao người ta lại phải sáng tạo ra những truyện mới?
Daria, đã có lần vừa khóc vừa buộc tội tôi vì đã coi cô ấy như một con bọ cánh cứng mà tôi đã ghim chặt nó lại bằng một cái ghim kẹp để mô tả nó được tốt hơn. Vậy nhưng cô ấy đã sai: trước mặt cô ấy, tôi thường xuyên quên mất rằng đôi khi tôi đã phải cố gắng hết sức để sáng tạo ra những truyện, và tôi thường ngắm nhìn cô ấy một cách quá tường tận chỉ là vì tôi mong muốn có thể hiểu được thứ ngôn ngữ mà cô ấy nói với tôi khi cô ấy ở bên tôi trong im lặng.
“Thế nhưng tôi đã rất vui vẻ khi ở bên những cái xác như thế. Tự tôi đã nhận một công việc ở đó”, quý cô Venus đưa tay chỉ về phía tường thành Vyšehrad. “Trên cái dốc ấy là chỗ mà họ đã chở những cái xác cứng đơ đã bị cắt đứt cổ hay bị đâm nhiều nhát dao. Tôi có được công việc ấy nhờ một cô bạn gái, một công việc nguy hiểm, cô nói, với tiền công rất hậu hĩnh và cả tiền thưởng, nhưng cuối cùng họ chẳng trả cho tôi cái cóc khô gì. Nhưng dù sao tôi cũng chỉ làm công việc đó bởi vì đã có một ông già moi hết ruột của những cái xác ấy rồi, ông ta là một gã điên khùng và mê những cái xác cứng đơ. “Zoulová ơi”, ông ta thường gọi tôi, “cô có mấy cánh tay này. Tôi rất muốn được nhìn thấy cái xương cẳng tay của cô vào một ngày nào đấy”. Và quý cô Venus giơ tay ra - cánh tay cô dài và mảnh mai.
Cái mùi thối rữa đến buồn nôn dường như nhấn chìm tôi. Khi tôi nhận công việc quét dọn ở một bệnh viện, một đồng nghiệp của tôi đã không thể từ chối vinh dự được đưa tôi đến nhà xác ngay ngày đầu tiên để chỉ cho tôi tận mắt thấy những xác chết trên những chiếc bàn, sàn nhà và trong tủ đá, và trong khi làm như thế anh ta đã đưa mắt để ý xem liệu mặt tôi có tái nhợt đi hay bán sống bán chết bỏ chạy ra ngoài cửa hay không. Thế nhưng tôi đã quá quen với vô vàn xác người chết từ thuở còn thơ dại, đến mức một vài xác người mới chết ăn mặc theo kiểu nghi thức như thế thật khó làm tôi sợ hãi hay ghê sợ đến ói mửa.
Bây giờ, tôi có thể nhớ lại không chỉ căn phòng lát đá ấy mà còn chính xác đến từng góc cạnh của chiếc bàn rộng, thứ mà tôi nhìn thấy rõ như trong một giấc mơ, và nằm trên đó là cha tôi.
Cha tôi đã ốm rất nặng, căn bệnh đó từ từ hủy hoại ông từ bên trong, vì thế, ông - người đã luôn luôn mạnh mẽ và không mấy khi phải lo lắng đến sức khỏe của mình, giờ đây khó lòng cầm nổi dù là một cây bút chì. Khi tôi nhìn vào những dòng ghi chú của ông, chen chúc với những con số và công thức mà tôi chẳng hiểu tí gì, những con số quá run rẩy đến mức tôi khó mà đọc nổi chúng. Bất cứ khi nào để ý đến những con số và những công thức ấy, tôi bị rơi vào một nỗi buồn vô hạn. Tôi biết rằng ông đã không công bố những tính toán của mình trong nhiều năm liền, cho dù ông vẫn đang được yêu cầu làm như thế, và tôi cũng biết rằng những con số đó là một con đường mở tới một kho tàng kiến thức mới hơn và kiến thức đó với ông chính là cuộc đời ông, thế nhưng từ đó chúng tôi có thể thấy rằng cuộc đời của cha tôi đã không còn được vững chãi nữa, rằng những con số ấy đang sẵn sàng cùng ông lên đường tới nơi chẳng có một con số nào hết.
Tôi muốn xua đuổi hết cái ảo ảnh đau buồn đó, nhưng cho dù tôi có chủ định dán mắt vào chiếc xe đẩy của mình tới đâu, cái thi thể bất động của cha tôi vẫn hiện lên rõ mồn một trước mặt tôi tới đó. Mục đích của những nỗi đau khổ trong cuộc đời con người ta là gì? Nó có thể dạy một người đàn ông cúi đầu trước những gì không thể tránh khỏi, thế nhưng anh ta vẫn sẽ bị giằng xé bởi cái chết đang đến gần những người thân yêu nhất của anh ta.
Thế nhưng tôi vẫn cố tự khẳng định với mình rằng cha tôi, người đã phải trải qua quá nhiều thử thách trong cuộc đời mình, lần này cũng sẽ không chịu thua.
Vào cái ngày rất xa xôi ấy, cha tôi đã phải bồng tôi ra khỏi chiếc máy bay khi nó vừa hạ cánh. Tôi đang run lẩy bẩy, khóc thút thít và nhất định không chịu ngước nhìn lên bầu trời, nơi mấy chiếc máy bay biểu diễn nhào lộn đang thực hiện những vòng quay thẳng tắp lên tới tận những đám mây rồi bổ nhào xuống mặt đất. Cha tôi đã kiệu tôi trên vai. Ông thậm chí không dỗ dành: Ôi, đứa con bé bỏng của tôi. Ông không quở trách tôi, ông chỉ kiệu tôi và trên đường đi chỉ cho tôi xem những đoàn tàu hỏa đang vụt qua ở phía bên dưới, ông gọi tên chúng như thể chúng là những người thân thích hay những đứa con của ông vậy. Ông đã kiệu tôi đi tới tận cây cầu dành cho người đi bộ được làm bằng gỗ ở phía trên đường ray xe lửa và nói rằng tôi có thể ngồi đó mà nhổ nước bọt vào trong ống khói của một chiếc đầu tàu hỏa nếu nó đi tới đây. Và cuối cùng khi một chiếc xe lửa chạy đến nơi, thổi ra những tia lửa và cả những đám khói lớn, tự ông đã nhoài người qua thanh lan can để làm mẫu cho tôi. Một cột khói đen sì cùng hơi nước từ chiếc ống khói phụt ra đã thổi bay chiếc mũ ông đang đội trên đầu và tất cả những gì chúng tôi có thể làm là nhìn chiếc mũ rơi xuống một đống than trên một toa xe goòng phía sau rồi cùng với cả đoàn tàu đi xa dần. Cha tôi cười phá lên và nói rằng cái mũ của ông cũng đang chơi trò nhào lộn, tôi nhìn theo đầy phấn khích cho tới tận khi chiếc mũ hoàn toàn biến mất và chính tôi đã cũng quên bẵng nỗi khiếp sợ về chuyến bay ban nãy.
Tối hôm đó, cha tôi đã lấy lại được chiếc mũ của ông từ đâu đó, nó được phủ một lớp bụi, muội than và đất, và trước sự ngạc nhiên của tôi, ông đã gấp nó thành một chiếc mũ quả dưa, đội nó lên đầu và pha trò với nó một lúc, giống hệt như vua hề Charlie Chaplin. Ông thích pha trò cho người khác, và mỗi khi cười, miệng ông ngoác đến tận mang tai và ông cười đến chảy cả nước mắt. Ông có thể cười vì những thứ mà bình thường con người ta vẫn cười, thế nhưng ông cũng cười cả những gì mà vì nó người ta phải cáu giận hay cả những thứ mà vì nó người ta phải thất vọng. Tôi thường ước mình biết cách để được vui vẻ và thoải mái, thế nhưng tôi không có được nghị lực, sự nhanh nhẹn và sự tập trung cao độ như cha mình.
Quý cô Venus hất một xẻng rác vào trong chiếc xe của tôi. “Anh có biết là đã có bao nhiêu người chết từng nằm trên cái bàn của ông ta không?”
Tôi không biết, và cô hoan hỉ nói tiếp: “Năm vạn người cơ đấy”.
“Đúng là vớ vẩn”, cậu thanh niên phía sau tôi nói chen vào. “Rõ ràng là chị bịa ra. Chừng ấy người phải tương đương đến vài trung đoàn là ít.”
“Nhưng đúng là như thế đấy, chú em Jarda ạ. Và tất cả bọn họ đều đã chết một cách hết sức đau đớn!” Venus cười phá lên như thể cô vừa nói ra điều gì vui lắm.
Rồi ngay trước lễ Giáng sinh chúng tôi đã làm tình trong một căn phòng áp mái với những ô cửa sổ nhỏ xíu và những bờ tường dày dưới mái của một ngôi nhà được thiết kế theo phong cách nghệ thuật baroque. Đối diện với nó là một ngôi nhà kiểu quý tộc thành thị với nhiều cửa sổ lớn và trên ngưỡng cửa có trang trí mấy con chim bồ câu lạnh lẽo đến vô hồn. Trong căn phòng ấy, có mùi dầu hỏa và thoang thoảng mùi khí gas, và mặc dù lúc đó là giữa trưa nhưng căn phòng ấy vẫn khá tối. Hơn nữa, những cánh cửa sổ nhỏ còn bị che khuất bởi một bức tượng Thánh Stephen tử vì đạo. Việc phục chế lại bức tượng đó đã sắp sửa hoàn tất, thế nhưng người tình của tôi tạm ngừng lại, cô ấy không thích đôi tay mình bị sai khiến bởi sự chỉ đạo của bất cứ ai khác.
Tôi muốn cô ấy thật hứng thú với cuộc làm tình của chúng tôi. Tôi đã nghĩ về nó quá nhiều nên đã rất hứng khởi và cô ấy cũng cuồng nhiệt không kém. Xét cho cùng, cô ấy còn có một người chồng và một đứa con gái nhỏ đang đợi ở nhà, nhưng bây giờ, cô ấy đang nằm cuộn tròn trong vòng tay tôi và cô ấy cho phép mình được đưa đến một nơi mà từ đó sẽ chẳng có đường quay lại. Thế là tôi bế người tình tuyệt vời của mình lên và qua mỗi bước đi tôi cảm thấy cô ấy như nặng thêm một chút tới tận khi tôi gần như không còn mang nổi cô ấy nữa. Tôi đã sợ, chúng tôi quá sợ hãi và e dè với nhau vì chúng tôi đã ham muốn nhau đến tột độ. Chiếc giường lớn cũng bị bất ngờ và liên tục kêu lên cót két sau mỗi nhịp của tình yêu còn chúng tôi cố nhấn chìm cả không gian xung quanh bằng những tiếng rên rỉ, hổn hển và những lời thì thầm đê mê.
Chúng tôi nhìn vào mắt nhau và tôi thật kinh ngạc trước cái cách thay đổi của cô ấy, cô ấy thật mềm mại, với những đường cong cổ điển, những nét cổ điển nhất cả về hình thể lẫn màu sắc. Có thể đó là một hình thể đã bị lãng quên của mẹ tôi hay của một trong những thân hình tôi thường mơ tưởng về một người phụ nữ mà tôi sẽ yêu một ngày nào đấy.
Tôi trở về nhà rất khuya và leo luôn lên giường bên cạnh vợ tôi. Cô ấy chẳng có chút nghi ngờ nào mà còn xích lại gần tôi cho ấm. Cô ấy vẫn dễ tin như một đứa trẻ vậy. Khi tôi nhắm mắt lại, tôi nhận ra rằng giấc ngủ không đến với tôi. Trong khu vườn, một chú chim đang hót lanh lảnh, những đoàn tàu đang rít bánh trên đường ray ở nơi nào đó rất xa, và trong bóng tối trước mặt tôi, chợt hiện lên khuôn mặt của người phụ nữ khác: trầm lặng, đẹp mê hồn, như thể nó đã luôn gắn chặt vào tâm khảm tôi, nhưng nó bất động một cách vô hồn giống như bao khuôn mặt những bức tượng của cô ấy. Vì thế cô ấy nhìn xuống tôi, một cái nhìn lửng lơ trong không trung trên tất cả mọi thứ và mọi lúc, và tôi cảm thấy một điều gì đó như nỗi luyến tiếc quá khứ, sự bứt rứt, sự thèm khát và cả nỗi buồn chán.
Mùa đông năm ấy, tuyết rơi rất nhiều. Một hôm như thường lệ, cô ấy dẫn đứa con gái bé bỏng của mình đi học dương cầm. Tôi lặng lẽ bước sau họ, không để cho đứa trẻ nhìn thấy mình. Tôi luôn bị thụt lún vào trong những đám tuyết dày bởi tôi đâu có để mắt tới nơi mà tôi đang đặt chân tới, tôi chỉ nhìn như dán đôi mắt mình vào cô: Trong cái cách bước đi của cô ấy phảng phất một chút vội vã giả tạo, hoặc có thể là một chút háo hức với cuộc đời. Cô nắm lấy tay đứa con gái bé bỏng của mình và thi thoảng mới liếc mắt nhìn về phía sau. Ngay cả khi đi cách cô một đoạn khá xa, tôi vẫn như cảm nhận được tình yêu của cô ấy.
Mấy lần khác, chúng tôi đã đi qua những cánh đồng phủ đầy tuyết trắng nằm cách thành phố không xa lắm. Bên dưới chúng tôi là một cái trang trại bị bỏ hoang và một khu rừng thưa, trên đầu chúng tôi bầu trời băng giá vần vũ bị bao bọc bởi một lớp sương mù ảm đạm. Chúng tôi dừng lại, cô ấy dựa cả thân mình lên người tôi, tôi đã ôm chặt cô ấy vào lòng - một thân hình hơi tròn trịa trong chiếc áo khoác mùa đông - và trong chớp mắt, cả hai chúng tôi như cùng rơi vào cõi hư vô bất diệt, bỏ qua tất cả mọi thước đo của thời gian, rời bỏ mọi nỗi sợ hãi mơ hồ và cả những thú vui tầm thường, quên mất cái lạnh thấu xương cũng như tiếng gió gầm rít trong cái khắc nghiệt nhất của mùa đông, và cô ấy nói trong tiếng rên rỉ: Phải chăng hai chúng ta đã yêu nhau quá mất rồi?
Trên mặt hồ, giống hệt như trong các bức họa của Brueghel9, đám trẻ con đang vui đùa với trò trượt tuyết. Căn nhà trọ gần như không còn ai, tiếng lửa cháy reo lách tách trong chiếc lò sưởi lớn, và một bức tranh mô tả một trang trại đang bị cháy với những người lính cứu hỏa dũng cảm đang chiến đấu một cách tuyệt vọng với ngọn lửa đó. Bà chủ nhà trọ đem tới cho chúng tôi một ít rượu whisky nóng, bà vặn một cái núm, và ngọn lửa trong bức tranh bùng lên bởi ngọn lửa thật đang hồng rực từ phía sau.
9 Pieter Bruegel (1525 - 1569): họa sĩ thiên tài người Hà Lan theo trường phái Phục hưng, người nổi tiếng với những bức tranh phong cảnh và chủ đề người nông dân.
Daria vui vẻ như một đứa trẻ: đám cháy ấy có cháy rực đến đâu đi chăng nữa cũng không khiến chúng tôi đếm xỉa tới.
Tôi thật sự cảm thấy một sự nồng ấm từ bên trong đang bao bọc lấy mình, tôi như cảm thấy nó ở trong cơ thể mình, tôi cảm nhận được nó giống như một hạt mầm nằm trong lòng đất mùa xuân, đang thức tỉnh một cách vội vã và vươn mình lên hướng thẳng về phía ánh sáng mặt trời.
Cô ấy đã đọc được ý nghĩ của tôi và nói: Anh thấy không, bây giờ thì anh cũng đã đạt được một cái gì đấy!
Điều gì khiến em nghĩ thế?
Chỉ là vì bây giờ anh mới đang bắt đầu sống.
Cô ấy tin rằng tôi chưa được sống cho tới tận thời khắc ấy. Rằng tôi đã bị trói buộc, bị tống ra ngoài bởi sự ghẻ lạnh, rằng những mùa xuân trong tôi chỉ sản sinh ra một vài giọt giá lạnh. Cô ấy nói thêm: Anh đã chỉ được sống với cái đầu của mình, nhưng những gì anh đang làm lại không thể được thực hiện chỉ nhờ cái đầu. Anh có thể điều khiển được một cỗ máy chỉ bằng cái đầu của mình. Cô ấy hứa sẽ dạy tôi biết cách lắng nghe những giọng nói đã được giấu đi.
Tôi muốn biết tôi sẽ dạy cô ấy cái gì.
Chắc chắn là cô ấy sẽ lắng nghe những giọng nói ấy cùng với tôi. Sau đó cô nói: Em đang lắng nghe anh, bây giờ em không cần phải học cái gì cả, cái em cần là được ở bên anh!
Bà chủ nhà trọ lại tắt bức tranh phát sáng đó đi và chúng tôi bước ra ngoài hoàng hôn lạnh giá. Trước khi chia tay chúng tôi đã hôn từ biệt, môi chúng tôi gắn chặt vào nhau như thể chẳng còn gì đáng phải bận tâm ở phía trước cũng như chẳng có gì để lại ở phía sau, như thể chúng tôi muốn ép chặt cả hai cuộc đời mình vào trong nụ hôn ấy. Sau đó, cô ấy hỏi: Anh đã bao giờ yêu một ai đó thật lòng chưa?
Dĩ nhiên là cô ấy không muốn nghe về vợ tôi hay về những đứa con của tôi, hay về cha tôi, cô ấy không muốn nghe về bất cứ ai đang sống, cô ấy chỉ muốn nghe rằng cô ấy là người duy nhất được tôi yêu thật lòng. Thế nhưng có thể là tôi đã nhầm lẫn, có thể cô ấy chỉ hỏi câu đó vì đau đớn, cô ấy đã sửng sốt tới nhường nào bởi tôi đang rời xa cô ấy, rằng tại sao tôi lại không đem theo cô ấy đến một nơi nào đó, cô ấy sợ sự phản bội, cô ấy hoài nghi về những gì mà tôi có thể làm khiến cô ấy phải khiếp sợ.
Vợ tôi cũng thường nghi ngờ về những nơi như thế. Trong những lần đột ngột chì chiết do tính ích kỷ, cô ấy thường hay cho rằng tôi đã không thể cố gắng để được gần gũi cô ấy, rằng trong thời niên thiếu của mình, khi cái chết liên tục lởn vởn quanh mình, tôi đã phải chịu một thương tổn rất lớn trong tâm hồn và rằng tôi sẽ chẳng bao giờ thoát ra khỏi vết thương ấy.
Liệu con người ta có thể cảm thấy cái gì ở nơi mà thần chết dang rộng đôi cánh để bay quanh ta nhiều lần hơn cả bầy chim?
Đã có rất nhiều cô gái trong trại giam giữ những người Do Thái ấy, tôi đã được nói chuyện với họ, tôi đã đi ngang qua họ, từ thuở tôi chưa đến mười hai. Giữa tất cả sự hãi hùng ấy, làm sao tôi có thể nảy ra ý nghĩ rằng có cái gì đó có thể cảnh báo cô ấy, ngay cả khi những tên lính canh có vũ trang, cái đói và sự trục xuất đang vây quanh tất cả chúng tôi?
Họ đưa cô vào trại hồi đầu năm 1943. Tôi đã gặp cô, trong cơn hoảng loạn, ở một trong những dãy hành lang của những khu trại giam của chúng tôi: cô bị lạc đường. Cô đã nhờ tôi chỉ đường cho, và tôi - một kẻ đã định cư quá lâu trong cái trại giam đó - đã không chút khó khăn đưa được cô tới lối vào căn phòng mà cô đã được biên chế.
Trên đường đi, cô chỉ cố nói với tôi cô từ đâu tới, rằng cô không còn cha, và cô rất sợ phải ở lại đó.
Tôi đã khẳng định với cô rằng không cần phải quá bi quan và sợ sệt, rằng sống ở đó cũng được - và ngoài ra, nếu cô muốn, tôi sẽ bảo vệ cô.
Cô nói sẽ không bao giờ quên lòng tốt của tôi với cô.
Ngày hôm sau tôi đã đón và đưa cô tới gặp những người bạn của tôi, không ai trong bọn họ sẽ làm đau cô và tôi cũng chẳng cần phải bảo vệ cô trước họ - thế nhưng tôi nhận ra rằng cô nhìn nhận mọi thứ theo một cách khác, và rằng cô cần có sự hiện diện của tôi, và rằng khi ở bên tôi cô cảm thấy an toàn hơn.
Cô cũng trạc tuổi tôi, và cô khác hẳn với những người con gái khác ở mái tóc rất đẹp, một mái tóc màu bạch kim hoặc có thể là sẫm màu hơn một chút. Chúng tôi chưa từng ở riêng bên nhau, tách hẳn khỏi nhóm bạn bè, thế nhưng tôi luôn cố gắng để càng được gần gũi với cô càng tốt. Chúng tôi cũng cho nhau mượn những cuốn truyện hay cuốn sách mà chúng tôi có, thế nhưng chúng tôi không dám tiến xa hơn một chút nào, thực tế là tôi không dám tiến xa hơn chút nào, và rồi mọi thứ bỗng nhiên thay đổi hoàn toàn, cuộc đời bắt đầu bị cuốn đi giữa những cái mốc quan trọng khác nhau, chẳng còn đơn giản từ buổi sáng này tới buổi sáng khác hay từ bữa ăn này tới bữa ăn khác, mà chỉ còn từ lần gặp gỡ này đến lần gặp gỡ khác. Khu trại giam đã hết sạch muối ăn, những củ khoai tây đã thâm đen và thối rữa còn bánh mì thì mốc meo, thế nhưng tôi chẳng quan tâm, họ đã đưa ông nội tôi tới bệnh xá của trại và chúng tôi đều đoán rằng ông sẽ chẳng bao giờ quay trở về nữa, thế nhưng tôi vẫn hoàn toàn dửng dưng trước cái tin ấy. Những hành lang trong trại vẫn thường quá đông đúc, nhưng với tôi chúng dường như hoàn toàn vắng tanh mỗi khi cô bước bên cạnh, và khoảng không gian nhỏ xíu ngăn giữa chúng tôi trở nên lớn hơn hoặc tự nó bị bó hẹp lại và vì thế trở thành một cái gì đó riêng tư đến vô tận.
Tôi có mấy cái bút chì màu cùng tờ giấy trắng và có một buổi tối, tôi đã cố vẽ lại khuôn mặt của cô bằng trí nhớ của mình. Thế nhưng tôi đã không thể làm được. Rồi một ý nghĩ chợt lóe lên trong tâm trí tôi rằng tôi có thể sáng tác một bài thơ cho cô, và thực tế là tôi đã ghép được vài câu thơ, mà cũng phải thừa nhận rằng nó chỉ đề cập đến những hiện tượng thời tiết hơn là những cảm giác của tôi, và tôi đã đem nó tặng cho cô. Cô nói cô rất thích bài thơ đó và cô đã tạc cho tôi một con búp bê bằng gỗ cây dẻ ngựa với khuôn mặt đang cười rạng rỡ. Tôi đã treo nó lên cái cọc màn ngay trên đầu để có thể nhìn thấy nó trước khi chìm vào giấc ngủ. Đó là quãng thời gian trong ngày mà tôi được ở bên cô một cách thân mật nhất, bởi vì lúc đó tôi đang giải thoát cô khỏi nỗi hiểm nguy. Tôi sẽ ôm cô trong vòng tay mình, mang cô ra khỏi nơi mà tôi đã cải trang để lọt vào và cứu cô khi cô đang bị nhốt, bị lột trần và sắp bị tra tấn. Vậy là hết đêm này tới đêm khác tôi bày tỏ lòng dũng cảm và lòng chung thủy của mình cho tới khi rơi vào giấc ngủ.
Cô đã mang theo một cái cốc bằng sứ nho nhỏ, cái cốc bằng sứ ấy hơi trong mờ mờ với những con rồng và những bông hoa kiểu Trung Quốc. Đã mấy lần cô cho tôi uống chung với cô một chút trà thảo mộc bằng chiếc cốc ấy và mỗi lần như thế cô đều thể hiện một cách rất trang trọng. Có một hôm, ai đó vội vã chạy qua một cách bất cẩn và làm rơi chiếc cốc ấy xuống sàn nhà. Khi cô òa khóc vì tiếc nó, tôi đã hỏi xin cô những mảnh vỡ, rồi rất cẩn thận bỏ chúng vào trong bếp lò và nhìn xem chuyện gì sẽ xảy ra. Dường như tôi đã thấy ngọn lửa đỏ nuốt chửng chúng, những mảnh vỡ ấy đã bừng sáng lên theo một cách đặc biệt nào đó, thế nhưng sau đấy, khi gạt bỏ đám tàn tro ra, tôi lại thấy những mảnh vỡ ấy chẳng hề thay đổi, có chăng là chỉ bị bám thêm một chút muội nhưng tất cả gần như vẫn còn nguyên vẹn. Tôi nhặt chúng ra khỏi đống tro, chùi sạch và giữ lấy một mảnh lạ nhất. Tất cả chỗ còn lại tôi đem trả cho cô. Tôi cảm thấy như có một sự quyến luyến nào với chúng hay một sự ngưỡng mộ vì rằng chúng đã sống sót sau khi bị ném vào ngọn lửa hung tàn và bị nung nóng đến cực độ như thế. Có thể chúng sẽ cứu rỗi được chúng tôi, có thể tới một ngày nào đó chúng tôi sẽ được bới ra khỏi đống tro tàn và vẫn còn nguyên vẹn.
Trong trí tưởng tượng của mình, tôi đã luôn bảo vệ cho cô chống lại bầy ác quỷ, thế nhưng trong đời sống thực tôi đã không thể cứu được cô. Cô bị chỉ định phải chuyển đi, giống như hầu hết những cư dân khác trong trại giam này.
Cô đã bỏ chạy khỏi gian phòng, một gian phòng đang náo loạn và ngập ngụa trong nước mắt, nơi những đồ dùng cá nhân tối thiểu của những người bạn cùng phòng đang bị lục soát và bị vứt bừa bãi ra nền nhà trước khi được gói ghém lại một cách vội vã đến tuyệt vọng, cô chỉ có một vài phút ngắn ngủi, cô muốn được ở bên người mẹ, người phụ nữ đang gào thét trong nỗi tuyệt vọng khôn cùng. Chúng tôi biết có một chỗ hẻo lánh nhất sau những bức tường thành đó, sườn dốc ấy bị cỏ mọc phủ kín và được che phủ bởi tán của những cây chanh già nua. Đó là nơi yên tĩnh hơn bất cứ chỗ nào khác trong cái trại giam ấy. Đó là nơi chúng tôi vẫn thường ở với nhau cùng những người bạn khác, nhưng giờ đây không còn lấy một ai. Ở đó chúng tôi kể cho nhau nghe về những người bạn của mình, những người đã có tên trong danh sách bị trục xuất và chúng tôi cũng khẳng định với nhau rằng chiến tranh sẽ sớm kết thúc, rằng tự do đã ở rất gần nên chúng tôi không cần phải sợ bất cứ điều gì nữa, và rồi chúng tôi sẽ lại được gặp nhau, tất cả chúng tôi sẽ lại được gặp nhau, cho dù chúng tôi không biết mình sẽ gặp lại nhau ở đâu nhưng điều đó đã không còn quan trọng nữa. Rồi chúng tôi lại im lặng. Trong khoảnh khắc đó điều gì phải nói ra là cần thiết nhất đây? Chúng tôi cùng nhau rảo bước quanh chỗ đó và rồi cô nói rằng cô phải quay về. Cô ngập ngừng dừng lại trong giây lát, rồi bỗng nhiên cô tiến sát đến bên tôi và tôi cảm thấy đôi môi nồng nàn của cô gắn chặt lên môi mình. Hơi thở vội vã đến đau khổ của cô phả lên mặt tôi và cả người tôi như bị đóng băng lạnh ngắt. Rồi cô quay ngoắt lại và bỏ chạy. Khi tôi đuổi kịp cô, cô bảo tôi đừng đi theo cô nữa, chúng tôi đã nói với nhau lời từ biệt, một lời từ biệt thấm đẫm những giọt nước mắt.
Chiều hôm đó cô phải ra đi. Tôi đứng bên khung cửa sổ ở căn hầm của mình, tôi không được ra ngoài. Tôi đã cố tìm kiếm hình bóng của cô trong đám đông đang từ từ dịch chuyển trên đường, nhưng tôi đã không nhìn thấy cô. Đột nhiên tôi chợt nảy ra ý nghĩ rằng cô chưa hề ra đi, rằng cô không thể biến mất, rằng cô đã không có mặt trong số những người ở đó.
Tôi lập tức rời cửa sổ và gõ cánh cửa căn phòng kế bên, và khi chẳng có ai trả lời, tôi tự mở nó ra. Căn phòng đó chỉ một lúc trước còn đông nghịt người với những tiếng động ầm ĩ còn bây giờ mọi thứ trở nên trống rỗng. Tôi thấy dường như mình đang đứng trên một mỏm đá, trên một mỏm đá trơ trọi cao ngất nghểu và dựng đứng đến mức tôi không thể nào nhìn thấy được mặt đất ở bên dưới. Và tôi bị rơi hẳn vào trạng thái mất thăng bằng, tôi nhận thấy là mình đang rơi xuống, chẳng có cách nào thoát ra khỏi cái cảm giác ấy, đó chỉ còn là vấn đề của thời gian. Những gì tưởng như bền vững nhất bỗng nhiên sụp đổ trong chớp mắt, và những gì dường như gắn chặt với mặt đất như thể không thể chia cắt được giờ đây đều tan vào cõi hư vô.
Tôi chạy trốn khỏi căn phòng trống rỗng ấy, rồi nằm vật lên chiếc đệm của mình và nhắm chặt mắt lại như không muốn nhìn thấy thứ gì nữa. Đúng lúc ấy khuôn mặt của cô lại từ từ hiện lên trước mắt tôi giống như một vầng trăng rạng ngời và cô đang nhìn xuống tôi từ trên bầu trời đêm thanh tịnh, xa xăm không thể tới gần được và tôi bị nhấn chìm trong cả niềm hạnh phúc hòa lẫn với nỗi đau đớn và tuyệt vọng.
Đúng chín giờ, chúng tôi vào quán rượu Boženka. Đó là một nơi rất tầm thường. Chẳng có gì khiến bức tường bị bôi bẩn nham nhở sáng sủa hơn ngoại trừ mấy khẩu hiệu và mấy lời ghi cấm đoán. Những chiếc khăn trải bàn cáu bẩn những vết thức ăn rơi rớt lại từ mấy hôm trước. Trong góc phòng, một chiếc bàn bi-a khá lớn bị bỏ lại, lớp vải màu xanh của nó đã phai màu từ lâu và trở nên xám ngoét bởi tàn và khói thuốc.
Quán rượu của những người phu xe goòng thuở thiếu thời của tôi mang nhiều màu sắc sặc sỡ. Sau cái chết của người bạn, tôi không còn thường xuyên tới đó nữa, chỉ tới khi nào cha tôi bảo tôi sang mua bia, và ông cũng chỉ uống bia chừng mỗi tháng một lần. Ngay đằng sau cánh cửa ra vào là hình một con chim trĩ màu tía đang dang rộng đôi cánh và trên tường là những bức tranh sáng màu mô tả những người phu xe cùng những chiếc xe và những con ngựa, tác phẩm của một họa sĩ địa phương chuyên vẽ biển hiệu và những tấm bia để tập bắn súng. Và người chủ quán bận một chiếc tạp dề kẻ ca rô sạch sẽ. Sau khi đã rót bia cho tôi, ông thường đi vòng ra phía sau quầy để đặt cái bình đựng lên tay tôi một cách cẩn thận. Trong quán rượu thuở thiếu thời của tôi vẫn còn đó tinh thần của sự tự do.
Cha tôi chưa bao giờ cố gắng dạy dỗ tôi, ông chưa bao giờ ra lệnh hay cấm đoán tôi làm bất cứ thứ gì. Thay vào đó, ông thường tản bộ cùng với mẹ và tôi, phần lớn mọi chuyến đi đều hướng về phía sân bay, bởi vì cha tôi cho dù rất yêu quý những cánh rừng, những công viên hay bất cứ nơi nào có nước, thì mối quan tâm và niềm say mê hàng đầu của ông chính là những cỗ máy, và trong những thứ này chủ yếu vẫn là những cỗ máy có thể bay lên được. Khi chúng tôi tới sân bay, ông thường ngắm nhìn chiếc máy bay chở khách, những chiếc máy bay hai tầng cánh và những chiếc tàu lượn được chế tạo khá đơn giản, và lúc ấy, chắc chắn ông đã quên mất sự có mặt của chúng tôi, thậm chí ông còn chạy theo những người đàn ông khác và nói chuyện với họ trong khi chúng tôi thơ thẩn quanh sân bay trong tiếng gió rít ù ù.
Cha tôi quan tâm đến bất cứ cái gì có thể bay lên được. Ông dạy tôi làm những quả tên lửa gấp bằng giấy, không phải những quả tên lửa quá đỗi bình thường vẫn được dùng để phóng lên trong giờ học mỗi khi thầy giáo vừa quay lưng đi, mà là những chiếc phi thuyền có thể nhẹ nhàng bay lên không trung một cách mê hồn, một vài cái trong số đó thậm chí còn có thể lượn vài vòng thật ngoạn mục trước khi hạ cánh nhẹ nhàng xuống đất.
Chúng tôi làm cả diều nữa, và ngay trước khi tất cả những trò chơi của chúng tôi bị buộc phải kết thúc, chúng tôi đã chế tạo được một chiếc máy bay mẫu thật to từ những cái que, mảnh gỗ dán và bìa cứng. Chúng tôi luồn một sợi dây thun qua thân máy bay, một khi cuộn sợi dây này lại, nó sẽ giúp ta giữ lại một lượng cơ năng nhất định để làm quay cánh quạt. Cha tôi cam đoan rằng nó có đủ lực để bay qua tháp chuông nhà thờ ở Prosek.
Và khi chúng tôi đem nó đến cuối sân bay vào một buổi sáng Chủ nhật và lên dây cót cho cánh quạt, chiếc máy bay nhỏ vọt lên, chồm về phía trước và một tích tắc sau nó lao thẳng lên bầu trời, từ đấy nó bắt đầu lượn một vòng lớn. Thế nhưng nó đã không thể hoàn thành được cú lượn vòng ấy, nhất định đã có điều bất thường gì đó xảy ra, chiếc máy bay lắc rất mạnh và bỗng nhiên vỡ tung, rồi chúi đầu xuống và lao thẳng xuống đất.
Khi chạy tới nơi, chúng tôi chỉ tìm thấy một đống những mảnh gỗ dán vỡ vụn, những mẩu gỗ gãy và những mảnh giấy rách tả tơi.
Tôi xuýt xoa than vãn và gần như khóc lặng đi vì mất nó, và đó cũng chính là lúc cha nói với tôi: Hãy nhớ rằng đàn ông không bao giờ được nhỏ lệ! Đó là một trong số rất ít những bài học tôi đã nhận được từ ông. Ông đã cười một cách khoái chí trước đống rác của cái máy bay bị vỡ vụn khi ông nhặt chúng lên, và nói rằng mọi vật đều có số phận của nó và ai quá lo lắng vì nó sẽ chỉ tự làm tổn thương bản thân mình.
Tôi gọi một tách trà trong khi những người khác, chẳng cần phải hỏi, đều được người phục vụ mang tới một vại bia lớn. Cậu thanh niên trẻ tuổi uống nước khoáng. Venus tiếp tục cho phép mình tận hưởng một điếu thuốc mới, cô chìa bao thuốc cho người ngồi bên cạnh và cho cả tôi. Tôi cảm ơn cô và giải thích rằng tôi không hút thuốc.
“Đúng là rất mẫu mực đấy, anh bạn!” Cô nói. “Vợ anh nhất định sẽ rất hài lòng về anh.”
“Nếu mà tôi không say khướt”, người trưởng nhóm kể lể, “thì tôi đã chẳng kết hôn làm gì. Bởi vì tôi luôn tin rằng hôn nhân là dấu chấm hết của cuộc đời”.
Tôi đã không gặp được Lída cho tới khi tôi học xong đại học. Không có gì gọi là ngoại lệ về cuộc hội ngộ của chúng tôi, nó không được đánh dấu bằng bất kỳ sự kiện đặc biệt nào hay bất cứ một điềm gở nào. Mọi thứ chỉ đơn giản là chúng tôi gặp nhau và nhận ra rằng chúng tôi thích nhau. Cô ấy ít hơn tôi sáu tuổi, nhưng tôi luôn cảm tưởng như thể chúng tôi cách nhau đến cả một cuộc đời.
Thứ làm cho tôi thất vọng chắc chắn không phải là sự hoài nghi về tính đúng sai của những gì tôi đã lựa chọn mà chính là sự ngộ nhận rằng tôi đã từng đưa ra một quyết định dứt khoát. Tôi nghi ngờ rằng với tôi cái viễn cảnh hạnh phúc nhất không chỉ là luôn có người mình yêu ở bên như là một nhu cầu mà đôi khi cũng cần phải có sự xa vắng, để cho lòng ham muốn mãnh liệt tự nó giằng xé trong tôi tới cái ngưỡng của sự đau đớn cực độ về thể xác và tinh thần, để cho nỗi đau vì sự xa cách ấy sẽ cùng tồn tại với niềm tin mãnh liệt rằng sự hồi sinh đang đến rất gần với cơ hội có thể trốn thoát và quay lại - đang lởn vởn như bóng ma vật vờ, với niềm hy vọng rằng cuộc đối đầu vẫn còn đang đợi tôi ở phía trước.
Con người ta thường hay miễn cưỡng chấp nhận rằng cuộc đời mình đã đi đến hồi kết nếu xét trên một khía cạnh quan trọng nhất là khi tất cả mọi hy vọng của anh ta đều đã được toại nguyện. Anh ta ngại ngùng đối diện với cái chết vậy mà vẫn có một chút gì đó thật gần gũi giữa cái chết với tình yêu đã viên mãn.
Để đi hưởng tuần trăng mật, chúng tôi đã đáp máy bay tới vùng núi Tatra10.
10 Tatra hay còn gọi là Tatry, là đường biên giới tự nhiên giữa Cộng hòa Slovakia và Ba Lan. Tại đây có rất nhiều phong cảnh thiên nhiên kỳ thú và có nhiều khu du lịch nổi tiếng.
Đó là lúc đầu thu đầy gió, những tán lá thông đang chuyển dần sang màu vàng và những thảm cỏ xanh mướt ngày nào đã thơm mùi cỏ chín. Chúng tôi trèo lên tới tận đường giới hạn của cây cối, nơi mà những cánh rừng rơi rớt lại đoạn cuối cùng và phía trên chúng tôi là những đỉnh núi đá trơ trụi. Tôi ngả mình xuống thảm cỏ, Lída ngâm nga đôi câu hát và tôi cảm tưởng như tiếng hát của cô đang lấp đầy khoảng trống giữa bầu trời cao ngất với thung lũng của những mỏm đá, nó vạch ra một khoảng không mà tôi sẽ vĩnh viễn tan biến vào trong đó.
“Anh nhất định là nhân vật số một đấy, Marek ạ”, Venus nói. “Khi lão già nhà tôi quay về nhà, tôi thề là tôi sẽ để cho lão ấy ngủ với những con ngựa hoặc là ngủ trong ga ra.”
“Vậy là chị lấy được mấy cái bánh xe lúc nào chứ?” - Người trưởng nhóm tò mò hỏi.
“Dĩ nhiên là lúc chúng tôi ở Slovakia rồi. Míla đã kiếm được một chiếc xe Wartburg11 cũ. Trong lần đầu tiên chúng tôi đi chơi cùng bọn trẻ, vừa đi qua Topolčianky thì cái ống xả của nó bắt đầu kêu phành phạch và rồi rơi xuống như một cái thùng đáng nguyền rủa. Lão ấy cũng đã đôi chút nghi ngờ về nó nên làm gia công cho nó mấy cái đai trước lúc đi. Sau đó lão ấy phải chui xuống dưới gầm xe và ít nhất cũng có thể buộc chặt nó vào gầm xe bằng một sợi dây. Khi lão làm xong, chúng tôi lại tiếp tục lái xe xuống dốc, và lão ấy tắt động cơ để cái xe không còn kêu phành phạch đến đinh tai nữa, rồi chúng tôi cứ lao đi mỗi lúc một nhanh hơn, bọn trẻ con rất thích trò này, nhất là mỗi lúc lão lượn quanh một khúc cua, nhưng tôi thì gào lên với lão: ‘Úi giời ơi! Míla, anh không muốn tất cả chúng ta biến thành món thịt xay đấy chứ? Hay là anh bị mất trí rồi?’. Và lão ấy trả lời: ‘Không phải anh bị mất trí, mà anh bị mất phanh’”.
11 Một loại xe con được sản xuất tại Cộng hòa Dân chủ Đức và được sử dụng rất nhiều ở các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
Tôi nhận thấy cô Venus đang kể câu chuyện này cho tôi thôi, bởi vì tôi là gã mới đến, thế nên tôi hỏi: “Và chuyến đi ấy kết thúc thế nào?”.
“Lão đã phanh lại bằng số. Lão luôn cố gắng chế ngự bất cứ cái gì hão huyền nhất.”
“Ngoại trừ chị”, người trưởng nhóm thêm vào. Anh ta cười khùng khục và tỏ ra rất hồ hởi với câu nói vừa rồi. Người tỏ ra vui vẻ nhất chính là anh chàng thuyền trưởng, người có khuôn mặt thân thuộc một cách mơ hồ vẫn đang chằm chằm nhìn tôi từ nãy đến giờ. Ánh mắt ấy gợi lên điều gì hay ám chỉ điều gì chỉ có mình tôi không hiểu nổi. Cậu thanh niên với khuôn mặt giống hệt con gái ít khi cười: Trong tâm trí tôi chợt lóe lên một ý nghĩ rằng cái chết như đang lơ lửng đâu đó trên đầu anh ta. Đã nhiều lần tôi có cảm giác đó, đặc biệt là khi tôi còn là một đứa trẻ. Tôi hay nhìn vào ai đó và bỗng nhiên tôi chợt thấy lo sợ rằng người ấy sẽ sớm ra đi. Tôi không định nói tôi có nhãn quan đặc biệt khác người. Tôi đã sai trong rất nhiều trường hợp. Và một vài người từng ngửi thấy hơi thở của tử thần rất nhiều năm khi vẫn còn sống và rất khỏe mạnh.
Trong thời kỳ chiến tranh cha tôi cũng bị quản thúc trong một trại tỵ nạn dành cho người Do Thái với tôi, cùng ở sau những bức tường rào, thế nhưng tôi không thể gặp được ông, có quá nhiều những bức tường ngăn cách và những quy định ngăn cấm giữa chúng tôi. Cho tới một ngày kia cánh cửa bật mở và ông xuất hiện hết sức bất ngờ. Trong bộ dạng gầy gò với cái đầu cạo trọc lốc, một bộ quần áo bảo hộ lao động liền quần, ông xuất hiện trước cửa và đôi mắt ông lướt nhanh qua các góc xa nhất của phòng tập thể. Tôi gào lên và bỗng nhiên ông nhìn thấy tôi và nói: Yên lặng nào, yên lặng nào con trai, bố chỉ được ở đây để sửa lại hệ thống dây điện thôi. Và ông cười với tôi. Sau đấy ông đón tôi bằng đôi tay của mình, mặc dù tôi đã là một đứa trẻ lớn tướng rồi, ông vẫn ôm chặt tôi vào trong lòng mà nói: Con trai bé bỏng của bố! Và lúc ấy ông chỉ mỉm cười, nhưng thật kỳ cục làm sao, đôi mắt ông lại ngấn lệ, và khi tôi nhìn lên khuôn mặt ông, tôi thấy thật lạ kỳ bởi vì người cha to lớn, mạnh mẽ và đầy uy lực của tôi đang khóc.
Sau chiến tranh, khi ngộ ra rằng tất cả những người tôi yêu quý, và tất cả những người tôi biết, đều đã chết, bị nhiễm khí độc giống như những con côn trùng và bị đốt thành tro giống như những vật phế thải, tôi đã mất hết mọi hy vọng. Hầu như đêm nào tôi cũng đi bên cạnh họ, cùng họ bước vào những nơi bị giam hãm. Tất cả chúng tôi đều đã bị lột sạch quần áo, và bỗng nhiên chúng tôi bắt đầu thấy ngạt thở. Tôi đã cố gào lên nhưng không thể, và tôi nghe thấy tiếng nấc hấp hối thoát ra từ trong họng những người khác và tôi nhìn thấy những khuôn mặt họ bị méo mó và mất hẳn hình dạng ban đầu. Tôi giật mình tỉnh giấc trong nỗi kinh hoàng, tôi sợ phải ngủ lại, và đôi mắt tôi trợn trừng hoảng loạn nhìn vào bóng đêm. Lúc bấy giờ tôi đang ngủ trong nhà bếp và nằm gần cái bếp gas. Tôi vội ngồi bật dậy và xem lại để chắc chắn khí gas không bị rò rỉ. Tôi hiểu ngay rằng tôi chỉ được miễn thứ nhờ vào sự sơ suất hay sự chểnh mảng nào đấy. Cuối cùng tôi đã kiệt sức đến đổ bệnh vì quá lo lắng, hãi hùng. Các bác sĩ đều lắc đầu trước căn bệnh của tôi, họ không thể hiểu được tại sao một con vi khuẩn có thể ăn vào tim tôi, nhưng họ chưa bao giờ nghĩ tới cái lối vào thật sự.
Họ kê đơn thuốc và yêu cầu tôi phải nằm im trên giường, và giữ yên lặng tuyệt đối. Thế nhưng sự yên lặng ấy chỉ làm tôi tự bao vây mình bằng những người bạn của tôi, những người đã bị biến thành những bóng ma, tôi chia sẻ với họ quãng thời gian đang trôi đi một cách chậm chạp, và tôi cũng đang bị cuốn vào trong thế giới của họ, cái thế giới mà thời gian chẳng còn kéo dài được bao lâu nữa. Tôi chẳng nói với ai về bọn họ nhưng tôi luôn ở bên họ và họ cũng mời tôi đi với họ, họ nhắc đi nhắc lại lời mời ấy đến mức tôi hiểu rằng tôi cũng sẽ chết.
Thế nhưng tôi vẫn sợ phải chết, tôi sợ cái chết đến mức không dám nhìn mình trong gương. Thế là tôi sống hết tuần này đến tuần khác trong sự bất động, cho tới một ngày mẹ tôi mang cho tôi ba tập của cuốn Chiến tranh và hòa bình, bà đặt chúng lên chiếc bàn bên cạnh giường tôi và bảo tôi đừng tự mình cầm chúng lên vì chúng quá nặng. Tôi thật sự rất yếu, tôi không thể cầm nổi một tập truyện mặc dù chúng cũng chỉ dày như những cuốn sách bình thường khác. Thế nhưng khi mẹ tôi đưa cho tôi một cuốn, tôi phải cố gắng lắm mới dựng được nó tựa vào hai đầu gối mình, vừa nằm vừa từ từ đọc. Và khi đọc, tôi dần dần bị cuốn vào một xã hội khác lạ hoàn toàn. Đôi lúc trong tôi chợt lóe lên một ý tưởng rằng những con người trong cuốn sách mà tôi đang đọc cũng đã chết cả rồi, rằng họ phải chết cho dù cái chết không thể đánh gục được họ trong từng trang sách. Thế nhưng cũng chính vào lúc ấy, dẫu cho họ đã chết từ rất lâu rồi, thì họ vẫn còn sống, họ còn tồn tại. Đó cũng là lúc tôi nhận ra sức mạnh thật kỳ lạ của văn học và của trí tưởng tượng của con người nói chung: Nó có thể làm cho người chết sống lại và làm cho sự sống vĩnh hằng. Tôi bị khuất phục hoàn toàn bởi sự kỳ diệu của phép màu này, bởi uy lực kỳ lạ của tác giả cuốn sách và từ đó trong tôi bắt đầu trỗi dậy ham muốn mãnh liệt là muốn đạt tới một điều gì đó tương tự.
Tôi bảo mẹ tôi mua cho tôi mấy quyển vở nữa, và khi chỉ có một mình tôi bắt đầu chắp nối các kinh nghiệm của bản thân với nhau để đem lại sự sống cho họ, cho những người không còn sống trên cõi đời này. Vào lúc đó, theo một cách diệu kỳ, tất cả những đặc tính phiền muộn, lạnh lùng và cả sự khắt khe do bị hiện thực trong quá khứ chi phối đều mờ nhạt dần đi. Khi các bác sĩ cho phép tôi ngồi dậy sáu tháng sau đó, tất cả khuôn mặt của những người đã khuất đều tan biến hết, như thể không còn có họ trên những con đường tôi đã đi qua. Tôi không còn nhớ tên của họ, và nếu như có ai đó chìa ra cho tôi xem một bức ảnh của bất cứ người bạn đã khuất nào của tôi, tôi cũng sẽ nói rằng: Tôi không biết đó là ai. Thế nhưng đó không phải là sự lãng quên đối với những người đã khuất hay không giống như sự lãng quên mà con người ta vẫn thường cố tình lặp lại trong thời đại của chúng ta khi cái chết và thậm chí không ít những thứ của sự sống được che đậy vĩnh viễn bởi một tấm chăn của sự im lặng, một thứ vẫn thường nuốt trôi tất cả mọi ngôn từ. Thay vào đấy, nó là một dạng khác của sự ghi nhớ, một thứ làm hồi sinh những gì đã bị hỏa thiêu từ những tro tàn sót lại và tôi đã cố để dựng họ lên với một cuộc đời mới.
Vậy là tôi sống lại một lần nữa, và vị bác sĩ ấy đã thật hài lòng với sự kỳ diệu mà vài toa thuốc mới ông ấy đã kê cho tôi đem đến. Thế nhưng tôi biết chắc chắn rằng vì sao tôi vẫn còn sống. Tới chừng nào tôi còn có thể cầm bút viết được, thì tôi sẽ không còn bị ám ảnh bởi những bóng ma ấy. Tôi biết điều đó cho tới tận ngày hôm nay và tôi cũng biết chẳng có cái gì trên trái đất này có thể biến mất được, hình ảnh của một cô gái trẻ bị giết hại một cách dã man từ rất lâu rồi sẽ âm ỉ tồn tại ở đâu đó, có thể là trong tâm trí tôi, cũng có thể nó đang hồi sinh từ trong cõi sâu thẳm giống như tâm hồn của cô ấy đã vượt lên trên trái đất này và lên trên tất cả những đại dương bao la. Và dường như với tôi, khi tôi ngắm nhìn khuôn mặt của người đàn bà mà tôi đang có lúc này, người mà tôi đã gặp ở gần cuối cuộc đời mình, người dường như đã thân thuộc với tôi hơn từ trong sâu thẳm của cuộc đời mình, bởi một sự kỳ diệu nào đấy người đã sớm có mặt ở đoạn đầu đời của tôi đã quay trở lại, và sau tất cả chừng ấy năm tôi lại được nhìn thấy sự tĩnh lặng, giống như mơ, khuôn mặt yêu kiều ngay trước mắt mình. Khi đêm xuống, tôi lại ngập chìm trong con sóng hòa đồng giữa niềm vui sướng và cả nỗi buồn da diết, cho dù tôi cũng biết chắc chắn rằng Daria đã từng là một cô bé ba tuổi trước khi họ nhẫn tâm xả khí độc để giết chết tất cả những người khác.
“Ồ, vậy là chị đang lao như một viên đạn xuống dưới chân đồi”, người trưởng nhóm quay sang hỏi Venus, “nhưng chị sẽ nói gì nếu như chị đang rít vèo vèo và bay thẳng lên không trung cũng với tốc độ như thế?”. Rồi anh ta chỉ lên trần nhà bằng một động tác như ra lệnh khiến tất cả mọi người đều nhìn lên đó.
Ba mươi lăm năm về trước câu chuyện ấy đã xảy ra với anh ta. Anh ta được điều động về đóng tại một sân bay ở gần Stříbro ở miền Tây Bohemia, và ở đó có rất nhiều những chiếc máy bay chiến đấu S-199 bóng loáng, họ đã được tiếp nhận một chiếc khinh khí cầu phục vụ công tác huấn luyện từ tay quân đội Đức Quốc xã. Lần ấy, người trung sĩ tiểu đội trưởng của anh ta đã ra lệnh cho anh ta phải chuẩn bị để chiếc khinh khí cầu luôn ở trong tư thế sẵn sàng, điều đó có nghĩa là phải xếp lên đấy một chiếc dù và những túi cát để làm đằm khinh khí cầu. Chính viên trung sĩ cũng tự mình giúp anh ta chuẩn bị đủ mọi thứ. Thế nhưng đúng lúc họ đang khênh cái bao tải đầy cát đầu tiên vào trong khoang thì bỗng nhiên sợi dây buộc neo bị tụt ra và chỉ trong một tích tắc, họ đã bị bắn lên không trung với một tốc độ rất nhanh, cả hai người bọn họ đều bị lơ lửng trên chín tầng mây. “Tôi có thể bảo đảm là nó bay lên còn nhanh hơn cả quả tạc đạn. Chúng tôi lúc đó chỉ mặc độc áo sơ mi”, người trưởng nhóm say sưa với chính những kinh nghiệm của mình, “bởi lẽ lúc đó đang là giữa mùa hè, và bỗng nhiên chúng tôi lại có mặt ở một nơi lạnh lẽo như ở Bắc cực vậy”. “Đồng chí trung sĩ”, tôi nói. “Binh nhì Marek báo cáo, chúng ta đang bay tới một nơi chưa xác định, thế nhưng rất có thể chúng ta sẽ gặp phiền toái to đấy ạ.” Trung sĩ là một người khá công bằng và chính trực nên anh ấy bảo: “Thôi đi Marek ơi, đó đúng là một mệnh lệnh ngu ngốc mà tôi đã giao cho cậu khi bước chân vào trong cái thứ của nợ này mà lại không mang theo dù. Bây giờ nghe này, cậu hãy tìm xem có cách nào để cậu có thể ra khỏi cái đồ của khỉ này mà vẫn còn sống hay không. Tôi sẽ thử làm bằng cách khác”. Và anh ấy cởi bỏ chiếc dù mà mình đang đeo đưa cho tôi, chiếc duy nhất ở trong khoang lúc bấy giờ. Vậy là tôi trả lời: “Đồng chí trung sĩ, đồng chí có vợ và lũ trẻ đang đợi ở nhà, nếu chúng ta có gặp phiền toái gì thì đồng chí hãy dùng nó mà nhảy ra đi”. Và anh ấy bảo: “Cậu đúng là một gã cục mịch thật, Marek ạ, hai chúng ta hoặc là cùng nhau đối đầu với rủi ro này hoặc là sẽ cùng trở thành những người hùng bất khuất”. Tới lúc bấy giờ, băng tuyết đã đông cứng trên khuôn mặt của anh ấy rồi.”
“Thế nhưng tại sao các anh không thử xả gas ra?” Cậu thanh niên thắc mắc.
“Cậu cho rằng chúng tôi chưa từng nghĩ tới điều ấy chắc? Cái van của nợ đó đã bị đông cứng lại rồi thì chúng tôi còn làm gì được nữa”, người trưởng nhóm tiếp tục kể lại những điều khủng khiếp mà họ đã phải trải qua trên cái độ cao đầy băng giá ấy trong suốt ba tiếng đồng hồ trước khi họ hạ cánh xuống Lysá.
“Ba mươi lăm năm về trước”, người đàn ông có dáng vẻ bề ngoài làm tôi nhớ đến tay bác sĩ chuyên khoa tai - mũi - họng của tôi, tham gia vào. “Tôi đang ở trong một trại giam gần Marianská, nơi chỉ cách mặt trận một đoạn ngắn. Vào lúc đó người Mỹ đang bắt đầu đưa tới đây những chiếc khí cầu loại nhỏ cùng với những tờ truyền đơn. Có một vài tờ đã rơi xuống rất gần chỗ chúng tôi, nhưng không ai dám nhặt chúng vì sợ sẽ bị treo lên cột.”
“Chúng nói về cái gì vậy?” Cậu thanh niên tỏ vẻ quan tâm.
“Chẳng gì bằng quãng thời gian ở trong ấy. À, mà cậu còn trông chờ cái quái gì từ một mẩu giấy như thế nữa kia chứ?”
“Cả khinh khí cầu và tàu thuyền đều có thể được sử dụng rộng rãi hơn nữa trong tương lai, nhưng tôi sẽ chẳng bao giờ bước chân vào một trong những chiếc khinh khí cầu như của anh”, anh “thuyền trưởng” lái câu chuyện về chủ đề lúc trước, “hay bất kỳ cái máy bay nào. Nếu một chiếc thuyền lâm nạn, ta vẫn còn có cơ hội sống sót, nhưng nếu một cái máy bay rơi…”.
“Anh chẳng cần phải bảo tôi biết thế nào đâu!” Người trưởng nhóm cắt ngang lời anh này. “Tất cả những thứ đó đều đã trở thành đồ cổ rồi, không còn nhiều những thứ ấy nữa đâu.” Vừa nói, anh vừa búng búng đầu mẩu thuốc lá bằng ngón tay trỏ rất điệu nghệ. “Và nếu như nhờ có phép màu nào đấy mà một cái trong số đó vẫn còn tới tận bây giờ - thì quả thật nó cũng vĩnh viễn chẳng còn được dùng vào việc gì nữa đâu.”
Cùng với Daria, tôi đang lướt đi trên mặt đất và trên cả các đại dương, hết ngày này tới ngày khác, hết tháng này qua tháng khác. Ngay cả khi đêm xuống, khi khoảng cách ngăn giữa hai chúng tôi, thì những giấc mơ hay cả những ảo ảnh của chúng tôi vẫn thường tương tự nhau.
Đó là vì cô ấy đã giải thích với tôi, khi đêm xuống tâm hồn của hai chúng tôi sẽ gặp gỡ nhau.
Anh có nghĩ rằng tâm hồn có thể rời khỏi thể xác khi mà thể xác vẫn còn sống hay không?
Thế rồi, cô ấy kể cho tôi nghe câu chuyện về một thầy phù thủy đã sống đến vài trăm tuổi, người này đã dùng tà thuật để che giấu vẻ bề ngoài thật sự của mình. Lão ta sống trong một ngôi nhà làm bằng những phiến đá lớn nằm giữa những khu rừng kéo dài đến tận biển Bắc, và lão đã dành phần lớn thời gian của cuộc đời mình cho sự cô độc. Khi cảm thấy quá mệt mỏi vì phải sống một mình, lão đã dùng yêu pháp của mình bỏ bùa mê cho một thiếu nữ trẻ trung và đẹp mê hồn và cố gắng biến cô gái ấy thành vợ mình. Thế nhưng cô gái ấy đã hiểu hết tâm can của lão phù thủy già và cô cũng nhận ra bản chất thật sự của lão. Cô đã rất sợ hãi và cầu xin lão hãy để cho cô được ra đi: Lão ta là một ông già, gần đến những ngày tháng tận cùng của cuộc đời rồi, trong khi cô ấy vẫn còn cả cuộc đời tươi đẹp đang chờ phía trước. Tay phù thủy già trả lời rằng: Tôi có thể rất già nếu như chỉ nhìn ở bên ngoài nhưng tôi sẽ không thể chết bởi vì tâm hồn tôi không trú ngụ trong thân thể tôi. Khi cô gái nói rằng cô muốn biết tâm hồn lão đang trú ngụ ở nơi nào, lão phù thủy đã giải thích với cô gái rằng nó đang ở một nơi rất xa. Ở trên những dãy núi cao, ở dưới những dòng sông đang cuộn sóng giận dữ, ở trong một cái hồ và ở giữa cái hồ ấy có một hòn đảo, và trên hòn đảo ấy có một ngôi đền, một ngôi đền không hề có cửa sổ mà chỉ có một cửa ra vào duy nhất, mà cánh cửa ấy cũng không thể mở ra được. Bên trong đấy có một con chim nhỏ đang bay vòng tròn, và trừ khi một ai đó giết chết nó, nó sẽ không bao giờ chết và bên trong con chim ấy là linh hồn của lão phù thủy. Khi con chim ấy còn sống thì lão ta cũng còn sống.
Cô gái trẻ có một người tình, một người cô đã trao gửi tất cả số phận của mình. Chàng thanh niên trẻ tuổi quyết chí lên đường tìm bằng được hòn đảo và cái đền ấy. Với sự giúp đỡ của Chúa lòng lành, anh đã mở được cánh cửa không thể mở được và anh đã bắt được con chim không thể tự chết được. Mang theo con chim, chàng trai quay trở lại với người mình yêu. Cô gái đã giấu cả hai dưới chiếc giường của lão phù thủy và bảo chàng trai hãy vặn cổ con chim thật chặt. Chàng thanh niên tuân lệnh và ngay lập tức lão phù thủy bỗng trở nên hết sức yếu ớt và khi chàng thanh niên càng vặn chặt hơn thì lão ta càng kiệt sức. Đó cũng chính là lúc lão ta bắt đầu nghi ngờ điều gì đó và đưa mắt tìm kiếm khắp gian phòng. “Giết nó đi, giết nó đi!” Cô gái vội kêu lên. Người tình của cô đã bẻ gãy cổ con chim và đấy chính là lúc lão phù thủy trút hơi thở cuối cùng.
Tôi hiểu rằng cô kể cho tôi nghe câu chuyện này để tôi không bao giờ quên rằng linh hồn của cô ấy là một con chim mà tôi đang nắm trong lòng bàn tay.
Linh hồn thường rời khỏi thể xác sau khi chết và nhập vào một cơ thể khác, một loài động vật hoặc thậm chí là một cái cây nào đó. Đó là lý do vì sao cô ấy thích làm việc với những tảng đá hay với đất sét hơn là với những cây gỗ. Cô ấy có thể nghe thấy tiếng một cái cây than khóc khi nó bị đốn. Trên hành trình tới một cơ thể mới, linh hồn có thể vượt qua bất cứ khoảng cách nào. Vậy thì tại sao nó không thể làm được như thế khi đang ở trong một cơ thể sống? Suy cho cùng thì nó không phải là một thứ hữu hình, vì vậy chẳng có một sức mạnh nào trên trái đất có thể gông cùm được nó hay bỏ được nó vào trong ngục tù khi một linh hồn muốn thoát ra, bay bổng lên và nhập vào một ai đó.
Một lần khác, cô ấy bảo tôi rằng có một lần đi giữa ánh sáng ban ngày, cô ấy đã nhìn thấy một quả cầu bằng vàng di chuyển giữa các luống hoa hồng, những bông hoa được in hình lên trên quả cầu ấy và tất cả mọi thứ đều thật sống động, tự do và đằm thắm. Một thời gian sau, khi cô ấy đang trên đường trở về nhà vào buổi chiều tối, hoặc có thể là vào lúc đêm xuống, cô ấy đã nhìn thấy hình bóng của tôi ở bên lề đường bên kia, đang dựa lưng vào một cây cột đèn, cô ấy liền chạy về phía tôi nhưng tôi đã tan biến vào trong hư vô ngay trước mắt cô ấy. Liệu đó có phải là một thứ ảo giác đã được những thế lực ma quỷ nào đó hay một dấu hiệu nào đó của tình yêu đem lại cho cô ấy?
Tất cả những gì đã xảy ra đều có những nguyên nhân tối thượng của nó, vì thế cô ấy luôn cố gắng tìm kiếm một lời giải thích dựa vào vị trí của các vì tinh tú. Cô ấy đã lập số tử vi cho tôi và xác định được rằng ngôi sao may mắn và hạnh phúc nhất của tôi chính là sao Thái Dương, mà theo đấy tôi có bản mệnh thuộc cung Xử Nữ tức là cung thứ sáu của Hoàng Đạo và đứng ở vị trí thứ mười trong những vị trí cân bằng, và nhờ vào sao Thái Dương tôi đã vượt qua tất cả những gì tôi đã phải trải qua, và nhờ vào nó tôi có thể sống hạnh phúc cho đến khi tôi phải rời bỏ cõi đời này. Tôi sẽ không rời bỏ thể xác cho tới khi đã hoàn tất sứ mệnh của mình và thực hiện được tất cả những công việc mà sứ mệnh bắt tôi phải thực hiện. Thử hỏi trên đời này làm gì có một cuộc đời nào được hạnh phúc hơn thế?
Vào Đêm thứ Mười hai12, chúng tôi cùng nhau đổ chì nóng chảy vào khuôn đúc, bức tượng của tôi là một người phụ nữ bị che mất khuôn mặt và một con thú săn mồi hoặc cũng có thể là thần Hermes13 có cánh. Cô ấy nhận ra bản thân mình trong bức tượng người phụ nữ, và sinh vật có cánh kia chính là tôi. Tôi đang hạ cánh xuống trước mặt cô ấy để đưa cô ấy bay lên hay cũng có thể tôi đang đem tới cho cô ấy một bức thông điệp từ trên thiên đường.
12 Đêm thứ Mười hai: một ngày lễ của những người theo đạo Cơ Đốc được tổ chức sau ngày Thiên Chúa giáng sinh mười hai ngày, tức ngày mùng 5 tháng Giêng hằng năm.
13 Hermes (Thần thoại La Mã gọi là Mercury): sứ giả đưa tin của các vị thần và là người dẫn đường cho các linh hồn sau khi chết xuống địa phủ, con trai của thần Zeus và một nữ thần núi.
Vậy thì tại sao người phụ nữ ấy lại phải che mặt? Có thể là vì cô ấy đang sợ, cô ấy đang sợ chính tôi. Cô ấy có một bộ bài bói nổi tiếng của Mademoiselle Lenormand14 và đôi lúc cô ấy dùng nó để nói về chính bản thân mình hoặc về quá khứ, hiện tại và cả tương lai của tôi, về cả tương lai gần cũng như tương lai xa hơn, và điều kỳ lạ là những lá bài ấy đều nói về một tương lai đầy phấn khởi hay thậm chí rất huy hoàng cho tôi.
14 Mademoiselle Lenormand: nữ chiêm tinh học nổi tiếng và rất huyền bí người Pháp. Những người sùng bái tài tiên đoán của bà phải kể đến các nhân vật nổi tiếng như: Robespierre, Marat, Danton, Hoàng đế Napoléon Bonaparte và Hoàng hậu Joséphine.
Tôi cho là trò bói toán này chỉ giống như một kiểu trò chơi của những kẻ đang say đắm trong tình yêu, thế nhưng tôi vẫn nói với cô ấy rằng, mọi thứ chắc chắn sẽ thành hiện thực bởi vì tôi có một cuộc đời may mắn giống như người đàn ông duy nhất còn sống sót trong một vụ tai nạn máy bay xảy ra vài năm trước khi chiếc máy bay ấy đâm thẳng vào tháp chuông của một nhà thờ ở Munich, hay giống như một cô gái đã sống sót sau vụ tai nạn máy bay ở trên dãy núi Andes và rồi sau đấy một mình trải qua mấy ngày và mấy đêm liền trong đống đổ nát giữa rừng, tự lần theo một con đường đi xuyên qua rừng rậm cho tới khi chút sức lực cuối cùng cũng giúp cô tìm được nơi có người ở. Tình cờ tôi đã được gặp người đàn ông kia cách đây không lâu lắm và chúng tôi rất tâm đầu ý hợp, và mặc dù tôi chưa từng được gặp cô gái nọ nhưng chúng tôi cũng đều đồng ý rằng những gì là va chạm, là tai nạn thảm khốc đối với người khác thì với chúng tôi chúng chẳng có nghĩa lý gì hơn một chuyện lặt vặt không có chút gì đáng gọi là quan trọng.
Trong thực tế, với cô ấy chẳng có gì gọi là trò chơi cả, với cô ấy tất cả mọi thứ đều là cuộc đời, mỗi giây chúng tôi được ở bên nhau là phải được ngập chìm trong tình yêu, khi chúng tôi không được ở bên nhau thì đấy là lúc những bóng ma đang luồn lách, lượn lờ quanh quẩn khắp nơi giống như trong Apocalypse15 và có vô số những con rắn đang cuốn chặt lấy chân cô ấy. Cô ấy đã vùng vẫy trong tuyệt vọng và đã gọi tôi cầu cứu, cô ấy đã cầu xin tôi đừng bỏ lại cô ấy, ở lại với cô ấy nếu tôi yêu cô ấy, và ít nhất thì ở lại thêm một lát cũng được. Thế nhưng tôi gần như đang trốn chạy, trong tâm trí mình, tôi đang vội về nhà, đuổi theo chuyến xe điện vừa lăn bánh để chắc chắn là tôi có thể về đến nhà trước vợ tôi, người chưa bao giờ nghi ngờ điều gì, người vẫn cười hoặc giận dữ theo tâm trạng mình chứ không phải theo những gì tôi đã làm. Vậy là chúng tôi chia tay nhau, hôn nhau thêm một lần nữa tại góc phố, quay trở lại nhìn nhau đắm đuối thêm một lần nữa, vẫy tay từ biệt nhau và tôi chỉ có thể nhìn thấy nụ cười của cô ấy tắt lịm trên đôi môi đằm thắm và những giọt nước mắt đang giàn giụa trên khuôn mặt yêu kiều của cô ấy.
15 Sách Khải huyền: cuốn sách cuối cùng của bộ kinh Tân ước.
Tôi đã luôn cống hiến hết mình cho công việc, tôi đã luôn phải chiến đấu để có thêm mỗi phút cho việc viết lách của mình. Bây giờ đây, tôi đang gọt giũa công trình của mình từng phút, từng phút một và những giây phút ấy được gom lại cẩn thận thành những giờ và những ngày nối tiếp nhau. Vậy nhưng tôi vẫn quyết định làm loạn, tôi quyết định đòi hỏi có được ít nhất một khoảnh khắc để nghỉ ngơi. Sau tất cả, chuyện viết lách đã là cả cuộc đời đối với tôi.
Cô ấy bảo: Làm sao anh có thể nói như thế chứ? Làm gì có thứ nghệ thuật nào lại có thể so sánh được với cuộc đời?
Khi tôi không viết được nữa tôi sẽ chết. Nhưng tôi sẽ mất cả tình yêu.
Cho dù những kỷ niệm thời chiến tranh trong tôi đang mờ dần đi, tôi vẫn cố gắng để quay lại được với chúng. Như thể là tôi phải có trách nhiệm đối với những người mà tôi đã cứu sống, và tôi phải đền ơn Đức Nhân từ, người đã giật tôi ra khỏi cái số phận bình thường và cho phép tôi được sống.
Với gánh nặng ấy, tôi đã đi vào đời. Tôi mới chỉ chưa đầy mười tám tuổi khi bắt đầu viết một vở kịch về một cuộc cách mạng trong một trại tập trung dành cho nữ giới, về một quyết định tuyệt vọng để được sống trong tự do hay để được chết một cách vinh quang. Việc phải chịu đựng hậu quả của một cuộc sống đã mất hết tự do với tôi dường như là thứ quan trọng nhất trong tất cả các chủ đề mà tôi có thể nghĩ đến và viết ra. Vậy là lúc này đây, trong cái thành phố gồm toàn những pháo đài cổ kính như thế này, tôi lại cảm thấy tất cả sự sống của mình đang níu kéo lấy tự do. Tôi đã thuộc lòng để có thể trích dẫn nguyên văn tất cả các triết lý về chủ đề tự do và sự đau đớn của Pierre Bezukhov16 lúc bị bắt, hai điều đó thật ra gần gũi với nhau đến nỗi một người đang ở giữa nỗi tuyệt vọng của sự đau đớn có thể tìm thấy được sự tự do.
16 Bá tước Pierre Bezukhov: một nhân vật trong cuốn tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình của Lev Nikolayevich Tolstoy (1828 - 1910), tiểu thuyết gia nổi tiếng người Nga.
Tôi không hiểu Tolstoy là vì tôi đã không nhận ra rằng chỉ cách nhà tôi một đoạn ngắn những trại giam mới đang được dựng lên17, nơi đó người ta lại có một cơ hội cuối cùng để tìm kiếm sự tự do từ giữa sự đau đớn. Tôi chỉ biết đến những trại giam của thuở thiếu thời.
17 Ở đây tác giả đang ám chỉ tới một nhà tù rất lớn cũng nằm trong khu vực Pankrác, nơi có tòa cao ốc nổi tiếng một thời của thành phố Prague.
Chúng tôi cuốc bộ xuống con phố gọi là phố V Dolinách, một con phố đã sạch như chùi; đi trước chúng tôi là chiếc xe quét đường tự động mà ngày hôm nay do ông Kromholz lái. Nó làm việc cần mẫn đến mức nó khó có thể thuộc về thời đại của chúng tôi, và chính vì thế mà chúng tôi nhanh chóng đến được chỗ tòa cao ốc gớm ghiếc mà họ đã dựng lên trên cao nguyên Pankrác. Lúc mới đầu, người ta đã muốn gọi nó là cung Nghị viện, vì rằng đó là mục đích chính của tòa nhà này: tạo ra một biểu tượng quá đỗi hùng vĩ của Quốc hội của tất cả các tổ chức hữu dụng cũng như vô dụng, đặc biệt là cho cái tổ chức thống trị tất cả mọi thứ và tất cả mọi người, thế nhưng sau đấy, họ gọi nó bằng cái tên có phần lố bịch hơn đôi chút là cung Văn hóa.
“Ồ, ở đây họ có một kiểu cơ giới hóa khác hẳn”, người trưởng nhóm thốt lên sau khi phát hiện thấy tôi đang nhìn cái gì. “Họ có những chiếc máy tự động dọn rác nhỏ xíu chạy tới, chạy lui dọc theo những hành lang, những cái máy lau sàn và cả những cái máy đánh bóng nền nhà nữa - tất cả đều là hàng nhập khẩu cả. Chỉ để cho họ sử dụng, anh có biết bọn họ có bao nhiêu người ở trong đấy không?”
“Đúng là một thứ quái đản!” Anh thuyền trưởng buột miệng thốt ra. “Trong khi chúng ta thì bị đuổi ra vỉa hè sống lang thang không nhà không cửa!”
“Tuần trước”, cô Venus tham gia vào câu chuyện, “một thằng nhóc đã lọt vào bên trong đấy. Bọn họ nghĩ là nó đã bị lạc ở Vyšehrad rồi. Nhưng nó vẫn ở trong đó suốt, nó đã đi vào một trong những căn phòng lễ tân nhỏ hơn và ngủ luôn ở đấy. Và khi tỉnh giấc, nó đã chạy tới chạy lui, chạy loanh quanh trong những đường hành lang và cuối cùng nó đã đi vào trong gian nồi hơi, tới lúc ấy nó đã hoàn toàn bị lạc, nó dò dẫm đi giữa những cái ống và những cái tua bin sơn đủ màu sắc. Khi người ta tìm thấy nó vào buổi sáng hôm sau, nó đã hoàn toàn phát điên rồi”.
Đi tới gặp chúng tôi trong dáng vẻ dửng dưng thô kệch và tự cho rằng ta đây rất quan trọng là hai viên cảnh sát. Một người trong bọn họ có thân hình lực lưỡng cùng khuôn mặt dễ gần được trang điểm bằng một mẩu ria mép kiểu công tử bột, trong khi ấy, người còn lại dường như hơi cao so với tôi nhưng vẫn chỉ là một thằng nhãi con có mái tóc vàng hoe, có vẻ ốm yếu và đôi mắt màu xanh da trời. Trông thấy họ, tôi cứng đờ người. Mặc dù tôi chẳng làm gì sai, nhưng trải nghiệm của tôi với tư cách một người vô tội trước các nhân viên cảnh sát, dù họ mặc đồng phục hay không, chẳng mấy vui vẻ. Vậy mà tôi cũng chẳng nghĩ ra rằng do cái áo bảo hộ lao động màu vàng cam đang khoác trên người nên bây giờ chính tôi cũng đang ngấp nghé trong hàng ngũ của những kẻ mặc đồng phục rồi đấy.
“Ồ, nghe này, mấy người quét rác”, viên cảnh sát có vẻ công tử bột hơn lên giọng nói với chúng tôi, “có bận lắm không hả?”.
“Không quá tồi”, người trưởng nhóm trả lời. “Hôm nay, chúng tôi đã không phải quét dọn ở khu nhà ở - nơi người ta sống bẩn như lũ lợn ấy.”
“À, nhưng chúng tôi đang có trò vui ở quanh đây, tin tôi đi”, viên cảnh sát nhìn có vẻ công tử bột nói và vỗ vỗ lên vai người đội trưởng của nhóm chúng tôi một cách thân thiện. “Ngay ở bên kia kìa”, anh ta đưa tay chỉ về phía Vyšehrad. “Cái thằng dâm ô ấy đã gây ra những thứ thật kinh tởm, chính hắn đã hãm hiếp và bóp cổ mấy người phụ nữ, một mụ già xấu như phù thủy đã nghĩ rằng hắn đi theo mụ và mụ đã kịp thời kêu cứu. Đúng là mụ ấy đã làm nhặng xị thái quá. Để tôi kể cho mấy người biết nhé! Chúng tôi đã đào bới khắp cái công viên này, chúng tôi đã có năm chiếc xe tuần tiễu liên tục đi qua đây, chúng tôi đã kiểm soát tất cả các ngả đường từ Tổng hành dinh Vršovice tới đây và chúng tôi đã nhắm được một tên rồi. Nhưng ngay lập tức chúng tôi nhận thấy rằng đó không phải là hắn, bởi vì thằng dâm ô kia chỉ khoảng gần hai mươi tuổi và cao khoảng trên 1m90 còn tay này thì đã gần năm mươi rồi và hắn lại lùn tịt như một tay gác vườn vậy, nhưng điều chủ yếu là tay này không có gì ngoại trừ một cái vé tàu điện trên người, vậy là chẳng có gì khiến chúng tôi phải bận tâm về hắn nữa.”
“Hắn thuộc dạng như một nhà biên tập ấy”, đồng nghiệp của anh ta nói thêm, “kiểu chuyên giả vờ đi tập thể dục sau một cơn đau tim vậy”.
“Thế có đúng là hắn đã từng cưỡng hiếp và bóp cổ tới bảy người phụ nữ không?” Cô Venus tò mò hỏi.
“Này, ai nói với chị về những điều vớ vẩn ấy đấy?” Chàng cảnh sát có điệu bộ của một công tử bột nói, giọng đầy giận dữ. “Chúng tôi đã được báo là có hai vụ giết người và bốn vụ có hành vi hiếp dâm, và thế đã là quá nhiều rồi.”
“Và khi nào thì các anh tóm được hắn?” Cô Venus hỏi tiếp.
“Chị không phải lo đâu”, chàng công tử bột vỗ vỗ bàn tay lên vỏ bao súng ngắn đang đeo ở bên hông. “Chúng tôi biết phải làm gì. Chúng tôi đã xác định được rằng hắn khá điển trai, cao chừng gần hai mét, người gầy và mắt màu xanh da trời. Thế là được rồi đấy!” Và anh ta đưa mắt nhìn sang người đồng nghiệp, người vẫn đang gật gù tán thưởng vì sự mô tả quá rõ ràng. “Nếu các người có nhìn thấy một gã như thế… hãy gọi cho chúng tôi ngay, được không?”
“Chắc chắn rồi”, người trưởng nhóm của chúng tôi hứa.
Chàng công tử bột lúc này mới quay sang nói với người thuyền trưởng. “Này thế còn cái quần của bố thế nào rồi”, anh ta pha trò. “Khi nào thì bố cho chân mình vào cái khác dài dài một tí chứ?”
“Lúc tôi đang nằm trong quan tài”, người thuyền trưởng trả lời. “Tôi đã có sẵn một bộ ở nhà rồi đấy.”
Viên cảnh sát mỉm cười hóm hỉnh, rồi đứng thẳng người, giơ tay phải lên sát phần lưỡi trai của chiếc mũ cảnh sát đang đội ngay ngắn trên đầu chào chúng tôi theo kiểu điều lệnh. “Vậy là mọi thứ đều đã rõ ràng rồi nhé. Nhiều người để ý hơn thì cũng đồng nghĩa với việc chúng tôi sẽ có nhiều thông tin hơn.”
“Chúng tôi sẽ phải chú ý để không quét sạch các manh mối của các anh”, cô Venus trả lời khi anh chàng này vừa quay đi. “Và vì thế họ sẽ nhận được nhiều hơn là họ làm điều đó một mình.”
Lúc mười một giờ hai mươi phút, chúng tôi đã hoàn thành việc quét dọn xung quanh cung Văn hóa. Chúng tôi đã hoàn thành phần việc của ngày hôm đó. Chúng tôi mang tất cả dụng cụ của mình trở lại phòng tập thể dục Sokol cũ kỹ, và chúng tôi chỉ còn một việc cuối cùng phải làm: đợi cho hết ba giờ còn lại của một ngày làm việc rồi tới nhận lương. Các đồng nghiệp của tôi dĩ nhiên đã chọn cái quán rượu mà bọn họ sẽ tới. Tôi có thể đi cùng họ nhưng tôi không thấy thích nữa. Lê la trong quán rượu một lần trong ngày là quá đủ rồi.
Câu chuyện đầu tiên của Franz Kafka mà tôi được đọc là một trong số ít những tác phẩm văn xuôi dài hơi ông đã hoàn thành. Nó kể về một kẻ lang thang sắp trở thành nạn nhân kế tiếp của một tay sĩ quan trên một hòn đảo nọ. Với tất cả tình yêu và lòng sùng bái điên cuồng của mình, viên sĩ quan này muốn sử dụng cỗ máy hành quyết quái gở của hắn cho lần xử tử người hành khất nọ. Tuy nhiên, trong buổi lễ xử tử kia, cỗ máy hành quyết đã bị hỏng và viên sĩ quan nọ cảm thấy quá nhục nhã đến mức hắn quyết định tự kê đầu mình xuống cái thớt hành quyết. Tác giả mô tả một cách lạnh lùng và thản nhiên mô tả từng chi tiết của cỗ máy đáng sợ đó, như thể làm như vậy ông có thể che giấu sự bí ẩn và nghịch lý khó hiểu của sự kiện đã được ghi lại ấy.
Tôi ngạc nhiên và bị mê hoặc bởi sự kỳ bí dường như không thể khám phá được của một sự kiện mà chính nó cũng đã làm tôi thất vọng. Thế nhưng tôi chỉ có thể hiểu được nó ở mức độ nông cạn nhất. Viên sĩ quan kia - một kẻ tàn nhẫn, ra vẻ mô phạm và hứng thú với cái trách nhiệm đồ tể của hắn - dường như với tôi cũng giống như một phiên bản đã được tiên liệu từ trước của tất cả những viên sĩ quan mà tôi đã từng gặp, một hình ảnh đã được đoán trước của tên Hoess ở Auschwitz18, và tôi cũng thấy thật ngạc nhiên rằng văn học không chỉ làm những người đã chết sống lại mà còn đoán được tính cách của cả những người chưa từng được sinh ra.
18 Rudolf Hoess: tên chỉ huy khét tiếng tàn ác của lực lượng Đức Quốc xã ở trại tập trung Auschwitz, tên này đã bị bắt và đưa ra làm chứng trước phiên tòa xử các tội phạm chiến tranh được tổ chức tại Nuremberg sau Đại chiến thế giới thứ hai.
Bỗng nhiên tôi tự nhận thấy mình đang quay lại đồi Vyšehrad. Tôi cuốc bộ qua khu công viên tới tận nghĩa trang và tới gần ngôi nhà thờ có mái vòm hình tròn cổ kính được bao quanh bởi những chiếc cột làm giàn giáo. Từ trước tới nay, tôi chưa từng một lần bước chân vào bên trong nhà thờ này mặc dù tôi có thể nhìn thấy nó từ khoảng cách khá xa tận trên đỉnh dốc ở phía sau tòa nhà tôi đang ở và thành thực mà nói thì tôi cũng có một bản in khắc cổ về cái nhà thờ này: Sacro-Sancta, Regia, et exempta Ecclesia Wissehradensis SS Apostolorum Petri et Pauli ad modum Vaticanae Romanae a Wratislao 1. Bohemiae Rege A.o 1068. aedificata, et prout ante disturbja Hussitica stetit, vere et genujne delineata, et effigiata. A.o 1420. 2. Novembris ab Hussitis destructa, ruinata et devastata.
Tòa nhà trong bức tranh nhìn khác xa so với hình dạng thật sự của nó ngay trước mắt tôi lúc này, không chỉ vì nó đã từng là destructa, ruinata et devastata bởi những người đi theo và ủng hộ phong trào Hussites, mà còn vì nhà thờ này đã được xây dựng lại một vài lần kể từ những ngày bản in khắc của tôi được làm ra, và điều tệ hại là mỗi lần tu sửa như vậy nó lại trở nên tồi tệ hơn. Ở đất nước chúng tôi, tất cả mọi thứ đều đang vĩnh viễn được tái chế: niềm tin, những tòa nhà và cả tên của những con phố. Thi thoảng những dấu ấn của thời gian bị che giấu đi và vào những lúc khác thì chúng lại được làm giả tới mức mà chẳng có gì còn giữ được vẻ chân thực như vốn có nữa.
Khi đi dạo quanh ngôi nhà thờ nhỏ bé ấy, tôi chợt nhận thấy cánh cửa ra vào chỉ được khép hờ. Tôi đưa mắt nhìn vào bên trong - có một đống ngổn ngang đủ loại vật liệu của những người thợ xây dựng, những tấm ván cốp pha, những chiếc cột để làm giàn giáo, những cái thùng và mấy chiếc ghế dài được bọc bằng một tấm vải dầu. Ở một bên của bệ thờ, tôi chợt nhìn thấy một người bạn cùng đi làm với mình lúc sáng, người đàn ông gợi tôi nhớ đến tay bác sĩ chuyên khoa đã cắt a-mi-đan cho tôi năm nào. Giờ đây, khi không còn chiếc áo khoác bảo hộ lao động màu vàng cam trên người, rõ ràng anh ta đang ở đó để tham gia vào một nghi lễ thiền định.
Tôi không thích vào bên trong. Tôi không muốn làm anh ta mất tập trung, cũng như không muốn bắt chuyện với anh ta lúc này.
Anh ta đã đuổi kịp tôi lúc tôi ở công viên. “Thật vô lý!” Anh ta phàn nàn. “Ý tôi là lúc anh phải lang thang để đợi cho tới khi được trả tiền ấy.”
Tôi gật đầu tán thành. Anh ta bảo tôi rằng tên anh ta là Rada. Anh ta đã để ý đến tên tôi ngay từ lúc mới gặp hồi sáng. Anh ta đã ở chung phòng tại trường dòng Litoměřice với một người đàn ông mang cái tên đó bốn mươi năm trước đây.
Tôi nói rằng tất cả những người thân của tôi đều đã chết trong chiến tranh, rằng người duy nhất còn sống sót tới giờ là em tôi, người trẻ hơn tôi rất nhiều.
Anh ta có hai cậu em trai. Cậu em kế sau anh ta đang sống ở Toronto, Canada và cậu em út hiện là một bác sĩ, một chuyên gia về ngành X quang, và chắc chắn đây là một người có tay nghề rất cừ, thế nhưng cậu ta lại thích trở thành một người du hành, cậu ta chỉ thật sự thích thú khi được nhìn thấy những quang cảnh ở nước ngoài. Thực tế là, cậu ta gần như lúc nào cũng ở nước ngoài, mà gần đây nhất là ở Campuchia. “Anh có tin được không, nó đã học nói tiếng của người Khmer đấy. Với nó, điều đó chỉ là một trò chơi thôi, nó có thể học được một thứ ngôn ngữ chỉ trong vài tuần.”
Chúng tôi rảo bước qua chiếc cổng lớn xây bằng gạch và cùng nhau bước tới những chỗ mà chúng tôi vừa quét dọn sáng hôm ấy. Tôi mừng vì ca làm việc của tôi đã kết thúc và giờ đây tôi có thể bước qua con phố nhỏ yên tĩnh mà trên đó bấy giờ đã có thêm nhiều chiếc lá vàng rơi xuống từ những khu vườn ngay kề bên đường, qua những đôi mắt đen sì của những ngôi nhà đang trừng trừng nhìn tôi một cách mệt mỏi nhưng cũng rất mãn nguyện.
Bỗng nhiên tôi như chết lặng người. Trên một trong những cái cửa sổ ấy, tôi thấy một người đàn ông bị treo cổ, khuôn mặt ông ta áp chặt vào khung cửa sổ và cái lưỡi rất dài của ông ta đang thè lè ra từ chiếc miệng há hốc. Phía dưới ông ta bị ngập ngụa trong thứ ánh sáng màu đỏ tươi.
Anh Rada nhận ra tôi đang nhìn chằm chằm vào cái gì và nói: “Nào, chúng ta hãy cùng tới xem tay nghệ sĩ của chúng ta cho chúng ta xem cái gì vào ngày hôm nay nào”.
Tôi nhận ra rằng hình dáng bên trong cửa sổ ấy chỉ là một hình nộm được tạo ra một cách rất điệu nghệ. Khi nhìn gần hơn một chút nữa, tôi thấy một cái đầu khác, một cái đầu nửa người nửa chó, những chiếc răng từ cái đầu này đang cắm ngập vào một bên đùi của người đàn ông bị treo cổ.
“Ôi, Chúa ơi”, người bạn đồng hành của tôi kêu lên không mấy vui vẻ. “Anh ấy nhất định là đã xuống nhầm bên giường lúc mới ngủ dậy vào sáng nay rồi. Anh ấy vẫn để những thứ gì đó mang tính giải trí hơn lên trên cửa sổ. Vừa lúc nãy, anh ấy còn để hình nộm của mấy người nghệ sĩ nhào lộn ăn mặc rất sặc sỡ lên cửa sổ nhà mình kia mà. Tôi thỉnh thoảng cũng hay tới đây để xem xem anh ấy có ý tưởng gì đặc biệt hay không. Cậu em tôi cũng đã từng tới đây với tôi một lần, và cậu ấy tuyên bố rằng chúng là tác phẩm của một kẻ mất trí.” Rada lại một lần nữa quay về chủ đề cậu em trai mình, một người dường như đã đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc đời của anh ta. “Với nó ấy à, tất cả những ai mà nó thấy không hợp sẽ đều bị coi là người mất trí. Nó thật sự tin rằng tất cả cái thế giới này đang bị điên, nó nói thế giới này cần phải có một cơn chấn động thật khủng khiếp, một cuộc cách mạng vĩ đại thì mới có thể làm cân bằng những khác biệt quá lớn giữa những kẻ quá no nê và những người đang phải chịu cảnh đói khát. Chúng tôi đã tranh luận với nhau rất nhiều. Ít nhất là mãi tới tận gần đây, khi nó quay về nhà và kể cho tôi nghe về một cuộc cách mạng mà thậm chí đến bản thân tôi cũng không thể tin được. Ngay cạnh một bệnh viện, có hàng đống người chết. Những xác chết đang thối rữa có ở khắp mọi nơi, nó đã không thể tưởng tượng nổi là có những cảnh như thế. Có thể nó mới chỉ nhìn thấy những gì mà bất cứ cuộc cách mạng nào cũng có thể đem lại cho con người ta.” Nói tới đây, Rada ngừng lại và đưa mắt nhìn xung quanh, nhưng chỉ còn lại mỗi hai chúng tôi trên đường phố đã được quét sạch trơn.
“Apocalypse! Đó chính là từ mà thằng em tôi đã phải thốt ra cho dù nó chưa bao giờ đi đến quyết định tin tưởng vào Sự phán xét cuối cùng và coi Apocalypse cùng lắm chỉ là một ảo tưởng đầy thi vị.”
Phòng tư vấn của vợ tôi cách chỗ chúng tôi đang đứng một đoạn không xa lắm.
Rất may lúc đó trong phòng đợi của cô ấy không còn ai. Tôi gõ cửa. Một lát sau, một cô y tá còn rất trẻ thò đầu ra sau cánh cửa ra vào, cố nén lại mấy câu quở trách đã ra đến đầu lưỡi mà bảo tôi đi vào bên trong.
Tôi thấy Lída đang ngồi sau một cái bàn, trên nửa mặt bàn là cả một bó hoa đồng tiền rất lớn. Cô đang kiểm tra mấy tờ giấy in các câu hỏi trắc nghiệm tâm lý dạng Rorschach19.
19 Rorschach Test (RT) là một loại trắc nghiệm tâm lý do nhà phân tâm học người Thụy Sĩ tên Rorschach sáng lập từ năm 1917.
“Anh ghé thăm em ư? Anh thật đáng yêu quá đấy.”
“Anh chỉ đi bộ qua đây thôi.”
“Anh sẽ đi thẳng về nhà bây giờ chứ?”
“Anh nghĩ có thể anh muốn qua thăm bố trước.” “Anh có biết anh rất tử tế khi ghé vào đây hay không. Anh có muốn uống một chút cà phê không?” “Không, cảm ơn.” Vợ tôi đã mời tôi uống cà phê, suốt hai mươi lăm năm qua, tôi rất muốn biết liệu cô ấy có nhận ra rằng tôi không bao giờ uống cà phê không.
Cô y tá trẻ đã biến mất vào chỗ nào đấy, tôi chỉ có thể nghe thấy tiếng cánh cửa khép lại rất nhẹ nhàng. Tôi ngồi xuống chiếc ghế bành, nơi thường ngồi của những người đang có tâm trạng u uất, âu sầu, háo hức, thất tình hay bị rơi vào trạng thái mặc cảm Oedipus hay thậm chí là cả những người đang có khuynh hướng muốn tự tìm đến cái chết. Hai chân tôi đã mỏi nhừ ra rồi.
“Anh thấy những bông hoa em mới nhận được này có đẹp không?” Cô chỉ xuống bó hoa đặt trên bàn.
Tôi nói rằng chúng rất đẹp và hỏi ai đã tặng bó hoa này cho cô vậy. Đó là những bệnh nhân quý mến cô. Cô đã rất thân thiện với họ và cô đã dành cho họ nhiều thời gian hơn trách nhiệm cô phải làm, và để bày tỏ lòng biết ơn của mình, họ đã mua tặng cô những bông hoa này. Tôi tự hỏi mình lần cuối cùng tôi mua tặng cô những bông hoa là khi nào vậy nhỉ?
Tôi thường tặng hoa cho một người phụ nữ khác và nhắc đi nhắc lại đến phát ngán với cô ấy rằng tôi yêu cô ấy đến chừng nào, và lần nào cũng thế, cô ấy luôn trở nên quá mềm yếu và thật đắm say.
Vợ tôi đã nhận được bó hoa ấy từ một nữ bệnh nhân, một người mà vợ tôi đã từng hết sức lo ngại đến tình trạng bệnh tình đặc biệt của cô ta. Một cô gái trẻ gần mười chín tuổi, nhưng vẫn không thể chấp nhận được việc cha mẹ cô bé chia tay nhau. Cô bé ấy đã bỏ bê chuyện học hành, ngừng hẳn việc tự chăm sóc bản thân, tôi cũng không tin được rằng cô bé có thể khá lên được bao nhiêu chỉ sau có mấy tuần điều trị.
Trong một lúc khá lâu, vợ tôi cứ tiếp tục kể lể cho tôi nghe về cô gái có tương lai mờ mịt đang làm cho cô quá lo lắng ấy. Vợ tôi vẫn luôn nhận lấy những trách nhiệm nặng nề trước các bệnh nhân của mình. Cô ấy luôn cố gắng giúp họ và cũng tự dằn vặt mình nếu cô thất bại. Có thể cô ấy kể cho tôi về cô gái đó để khiến tôi nhận ra cái tác hại thảm khốc mà một cuộc hôn nhân tan vỡ có thể đem lại. Chắc chắn là cô ấy đã rất nhiều lần gặp những tình huống tương tự như thế và cũng rất gần gũi với chúng đến mức cô ấy có thể lường trước được những hậu quả nghiêm trọng của nó.
Ngày hôm nay, cô gái đó đã kể cho vợ tôi nghe về một giấc mơ của cô bé: Lúc đó trời đang chạng vạng tối, cô đang bước đi dọc theo một con đường nhỏ xuyên qua một cánh đồng thì bỗng nhiên cô nhìn thấy một quầng sáng rực rỡ ngay trước mắt mình. Quầng sáng đó đang tiến thẳng về phía cô, và cô đã kịp nhận ra rằng mặt đất trước mắt cô đang nứt toác ra thành một cái rãnh sâu thăm thẳm và từ tận đáy sâu ấy những ngọn lửa khổng lồ đang thò ra liếm lấy tất cả những gì xung quanh cô. Cô biết rằng cô không thể trốn thoát khỏi những lưỡi lửa ấy, nhưng cô vẫn không hề sợ hãi, cô không tìm cách bỏ chạy, cô chỉ đứng đó, lặng lẽ ngắm nhìn mặt đất đang nứt ra trước mắt cô.
Tôi ngắm nhìn vợ tôi, ngắm nhìn cả những đường nét đặc trưng đầy sức sống của cô ấy. Cô ấy vẫn còn rất đẹp, trên khuôn mặt vẫn chưa hề có một nếp nhăn, hoặc nếu có đi chăng nữa thì tôi cũng không phát hiện ra chúng. Cho dù tôi có thích hay không thì trong mắt tôi cô ấy vẫn là hiện thân của chính cô ấy từ nhiều năm về trước.
“Em cứ sợ là cô bé ấy có thể làm điều gì đó thật dại dột!”
Tôi đứng dậy và trìu mến vuốt ve mái tóc của cô ấy.
“Anh muốn đi ngay bây giờ sao?” Cô ấy hé mở cánh cửa rồi ngó ra bên ngoài phòng đợi. “Chẳng có ai phải đợi cả, làm gì mà anh phải về sớm thế. Anh thậm chí còn chưa kể gì cho em.” Bỗng nhiên, cô ấy nhận ra: “Nó giống như thế nào nhỉ… làm cái công việc… ấy”. Cô ấy không thể tìm được một từ thích hợp cho cái công việc làm người quét rác của tôi.
“Thôi, để tối nay anh kể cho em nghe về nó nhé!” “Vâng, thế cũng được, chúng mình hãy cùng chuẩn bị cho một buổi tối thoải mái dễ chịu nhé.” Cô ấy tiễn tôi ra tận cửa. Cô ấy nói rằng tôi đã làm cho cô ấy rất hạnh phúc. Cô ấy vẫn luôn rất vui vẻ khi cô ấy gặp tôi một cách bất ngờ.
Tôi cũng đã muốn nói một điều gì đó tương tự như thế với cô ấy, chẳng hạn như tôi rất phấn khởi trước sự hiện diện của cô ấy, rằng tôi luôn cảm thấy thật ấm cúng và dễ chịu khi tôi được ở bên cô ấy, vậy nhưng tôi đã không thể nói ra được điều ấy.
Cô ấy quay vào trong phòng, lôi bông hoa to nhất đang cắm trong lọ ra và đưa cho tôi, để tôi mang đến chỗ cha tôi. Đó là một bông hoa tươi tắn với những chóp cánh hoa màu hổ phách rực rỡ.
Cô ấy không biết, rõ ràng là cô ấy chưa bao giờ nhận ra rằng cha tôi chẳng bao giờ thích những thứ vô dụng và không cần thiết như những bông hoa.
Tôi hôn cô ấy rất nhanh và chúng tôi chia tay nhau.
“Và vị thiên sứ thứ tư kêu lên.” Về nhà tôi lấy cuốn Apocalypse ra đọc. “Và một phần ba của mặt trời bị mê hoặc, và một phần ba của mặt trăng, một phần ba của các vì sao cũng như một phần ba của tất cả vũ trụ bị bao trùm bởi bóng tối, ánh sáng ban ngày chỉ còn mạnh mẽ được bằng một phần ba bình thường và bóng đêm cũng chỉ còn có một phần ba so với bình thường… Và khi vị thiên sứ thứ năm kêu lên, tôi đã nhìn thấy một vì sao rớt từ trên thiên đường xuống mặt đất: và tôi đã thấy cả hỏa ngục được lộ ra từ miệng hố sâu thăm thẳm. Và hỏa ngục đã mở ra đến tận vô cùng tận, và có một cột khói khổng lồ đang phụt ra từ cái hỏa ngục ấy, cột khói ấy cuồn cuộn trào lên như từ một lò lửa khổng lồ, và cả mặt trời lẫn không gian rộng lớn đều bị che phủ bởi chính cột khói khổng lồ từ hỏa ngục ấy”, và ở vài đoạn khác tôi lại đọc thấy, “và khi mà cả nghìn năm bị đoạn tuyệt, quỷ Satan sẽ sổng ra khỏi ngục tù của hắn, và hắn sẽ đi lừa gạt tất cả các dân tộc trên trái đất… để gộp tất cả bọn họ lại để chiến đấu: con số những con người quả cảm ấy chỉ nhỏ nhoi giống như một hạt cát trên đại dương bao la… và bỗng đâu xuất hiện một ngọn lửa từ Đức Chúa Trời trên thiên đường và thiêu rụi tất cả bọn chúng. Và tên ác quỷ đã lừa gạt họ bị ném vào trong chiếc hồ lửa và lưu huỳnh… Và tôi đã nhìn thấy một ngai vàng lớn màu trắng, và đức Ngài đang ngồi trên đấy, từ trong đôi mắt Ngài cả trái đất và thiên đường đều biến mất; và chẳng ở đâu còn chỗ cho họ”.
Trải qua biết bao nhiêu thế hệ, có thể là từ khi con người biết cách suy ngẫm về thời gian, và quá khứ của chính mình, người ta đã cho rằng thuở ban đầu đã từng có một thiên đường, nơi mà con người được sống hạnh phúc trên trái đất, nơi đó:
Non galeae, non enses erant: sine militis usu
Mollia securae peragebant otia gentes…
Thế nhưng cũng đúng vào lúc ấy họ đã tiên đoán được sự xuất hiện của sự suy tàn. Điều đó là không thể tránh được, bởi vì nó phải xảy ra theo quyết định của thiên đường.
Tới buổi tối, một nữ phóng viên người Pháp bỗng đâu xuất hiện trước cửa nhà chúng tôi. Cô ấy rất trẻ, xức nước hoa của Pháp và rất tự tin. Cô ấy nhoẻn miệng cười với tôi một cách rất thân thiện như thể chúng tôi đã là những người bạn lâu năm. Cô ấy muốn biết cuộc đấu tranh vì nhân quyền của đất nước chúng tôi sẽ phát triển như thế nào, và thái độ của những người dân ở đất nước chúng tôi đối với những người dân ở đất nước cô ấy, rằng liệu người dân Pháp có được chào đón nếu họ đến đây với tư cách là những người giải phóng cho tự do. Cô ấy cũng quan tâm đến việc tìm hiểu xem liệu tôi có coi chiến tranh là điều có thể xảy ra, phong trào diễn biến hòa bình là hữu ích và chủ nghĩa xã hội là thực tế hay không.
Có thể là cô nàng phóng viên ấy đã thật sự tin rằng bất cứ câu hỏi nào của cô ấy cũng sẽ được trả lời theo một cách thật phù hợp với đường lối của tờ báo ấy. Cô ấy chất vấn tôi như thể tôi là đại diện cho một phong trào chính trị nào đấy, hay ít nhất cũng phải là một con người có sứ mệnh chung nào đó. Cô ấy chẳng nhận ra rằng nếu tôi mà là đại diện cho bất cứ cái gì, bất cứ tổ chức hay đoàn thể nào, thì tôi sẽ chẳng còn là một nhà văn nữa, tôi sẽ chỉ đơn giản là một phát ngôn viên. Thế mà điều đó cũng không làm cô ấy cảm thấy áy náy, cô ấy không cần tôi với tư cách một nhà văn, dù sao đi nữa thì cô ấy cũng sẽ chẳng thèm đọc bất cứ cuốn sách nào của tôi đâu.
Mới gần đây, tôi đã đọc một bài viết đăng trên một tờ tuần báo của Mỹ, kể về chuyện làm thế nào mà mười bốn người vẫn được cho là hoàn toàn bị thiểu năng trí tuệ và không có khả năng sử dụng ngôn từ một cách đơn giản nhất lại có thể học được tiếng “jerkish20”. Đó là cái tên của một thứ ngôn ngữ chỉ có 225 từ, được phát triển ở Atlanta nhằm hỗ trợ cho việc trao đổi lẫn nhau giữa các chuyên gia về động vật linh trưởng với những con tinh tinh. Vậy là không còn gì phải nghi ngờ - tác giả bài báo ấy cho là - sẽ càng ngày càng có nhiều người kém may mắn có thể trò chuyện với nhau bằng tiếng jerkish. Ngay lập tức, trong đầu tôi đã lóe lên ý nghĩ rằng cuối cùng thì người ta đã tìm ra được một thứ ngôn ngữ mà trong đó tinh thần của thế hệ chúng ta có thể nói ra được và bởi vì thứ ngôn ngữ đó có thể phổ biến một cách nhanh chóng từ địa cực này đến địa cực kia và từ phương Đông sang tận phương Tây, nó sẽ là thứ ngôn ngữ của tương lai.
20 Nghĩa là “xuẩn ngốc”.
Tôi không hiểu hay không làm cho bản thân mình được hiểu bởi những ai chỉ thừa nhận thứ văn học mà họ tự kiểm soát được và vì họ mà chúng được viết bằng tiếng jerkish, và tôi sợ rằng tôi sẽ không thể trao đổi thông tin về ý nghĩ của mình với cô nàng phóng viên đáng yêu đó cho dù cô ấy khẳng định với tôi rằng cô ấy mong muốn tự do tuyệt đối cho tôi và cho dân tộc chúng tôi giống như những gì mà cô ấy mong muốn cho chính bản thân cô ấy cũng như dân tộc mình. Tôi sợ rằng chúng tôi đang nói bằng những thứ ngôn ngữ mà chính bản thân chúng đã dịch chuyển cách xa nhau một khoảng cách lớn đến mức không còn có thể gặp lại nhau được nữa.
Khi chuẩn bị ra về, cô phóng viên đã hỏi theo phép lịch sự rằng lúc này tôi đang viết về cái gì. Cô ấy đã rất ngạc nhiên nghe thấy rằng tôi đang viết về nhà văn Kafka. Rõ ràng cô ấy đã tin rằng những người ở cương vị như tôi nên viết về những gì đó có trọng lượng hơn một chút - chẳng hạn như: sự đàn áp, những cuộc sống vất vưởng trong chốn lao tù, những hành động phi pháp từ phía chính quyền. Dù sao, cô ấy cũng đã hỏi có phải tôi quan tâm đến các tác phẩm của Kafka bởi chúng đã bị cấm không.
Thế nhưng, thực tế tôi đang viết về Kafka bởi vì tôi ngưỡng mộ ông. Tôi cảm thấy ông đang nói chuyện trực tiếp và riêng tư với tôi từ một quá khứ xa xăm. Vì muốn chỉ ra một cách chính xác, tôi đã nói thêm rằng các tác phẩm của ông không hề bị cấm đoán, người ta chỉ đang cố gắng loại bỏ nó ra khỏi các thư viện công cộng và loại bỏ luồng tư lưởng của nó ra khỏi tâm trí nhân loại.
Cô ấy muốn biết tại sao người ta chỉ làm thế với các tác phẩm của ông. Phải chăng các tác phẩm ấy mang tính phản động? Hay bởi vì Kafka là một người Do Thái?
Tôi nghĩ trong cái thế kỷ của chúng ta, thật khó để tìm ra nhiều nhà văn ít quan tâm đến chính trị hay các hoạt động xã hội hơn Kafka. Các tác phẩm của ông không bao giờ đề cập đến chiến tranh, cách mạng hay những gì có thể giúp hình thành nên những chuyện đó, cũng chẳng bao giờ thẳng thắn chỉ ra nguồn gốc Do Thái của chính ông. Những lý do khiến cho tác phẩm của Kafka bị tiễu trừ ở đất nước chúng tôi hoàn toàn khác. Tôi không biết liệu chúng có thể được định nghĩa một cách đơn giản nhất hay không, nhưng tôi khẳng định rằng điều khiến ông bị công kích nhiều nhất chính là sự trung thực của ông.
Cô nàng phóng viên trẻ cười ngặt nghẽo. Thử hỏi làm gì có ai lại không cười trước một lý do ngô nghê đến vậy chứ?
Cô ấy rời khỏi nhà tôi vào lúc đã gần nửa đêm. Tôi vội vã leo lên giường đi ngủ. Tôi mệt mỏi sau một ngày vất vả, phải dậy từ năm giờ sáng.
Vợ tôi nằm cuộn tròn bên tôi trong giấc ngủ say nồng, vậy nhưng tôi không làm sao ru ngủ được những ý nghĩ cứ quẩn quanh trong đầu. Một bàn tay nặng nề cứ đè lên ngực tôi đến nghẹt thở.
Khá lâu rồi, kể từ ngày tôi khỏe trở lại, tôi không còn kiên nhẫn được trong những buổi tối cho tới tận sáng ngày hôm sau. Đêm tối như một con chó dữ dằn đang nằm chềnh ềnh trên con đường tôi đang đi qua. Gần như ngay lúc thức giấc vào buổi sáng, tôi vội vàng bước qua tất cả những chiếc cửa sổ trong căn hộ của chúng tôi, những cánh cửa vẫn nhìn ra cả ba hướng quanh nhà, để thưởng thức quang cảnh xa xăm được phủ lên bởi một màu xanh trinh trắng hay bởi màu trắng của những lớp tuyết lạnh lẽo. Tôi rất thích công việc của mình cũng như những người đang làm việc trong văn phòng báo chí, tôi trông chờ được gặp họ và có được những cuộc gặp gỡ bất ngờ với họ. Tôi cũng thường xuyên mở những lá thư với tràn trề hy vọng: Tôi vĩnh viễn mong mỏi những tin tức tốt lành, những tiết lộ thú vị hay những lời thổ lộ tâm tình. Và tôi trông ngóng vào những cuốn sách mà tôi đã từng đọc. Tôi thường đọc vào tất cả những lúc rảnh rỗi: trên xe điện, trong phòng đợi của bác sĩ, trên tàu hỏa và thậm chí cả trong lúc ăn. Tôi đã ngấm chìm vào trong vô số các sự kiện, vào trong những kịch bản và chúng cũng quấn lấy nhau trong tâm trí tôi và tôi cũng chẳng còn phân biệt được cái nào thuộc về chỗ nào nữa. Tôi cảm thấy hài lòng với cuộc đời ấy và vì thế tôi mải miết chạy theo hết kinh nghiệm này tới kinh nghiệm khác, cho tới khi tôi trở nên giống như một kẻ háu đói vì bị ám ảnh, một kẻ không lúc nào hết thèm khát cho một bữa ăn tiếp theo, và chính hắn chẳng bao giờ có thể thưởng thức được hết những mùi vị thực thụ của món ăn mà hắn đang nuốt vào dạ dày. Tôi không uống rượu cũng như hút thuốc - không phải là xuất phát từ bất cứ quan điểm thanh tao nào mà chỉ là từ nỗi sợ hãi mơ hồ rằng chúng có thể làm cùn mất năng lực tri giác của mình và vì thế mà bị tước mất một kinh nghiệm hay hoặc một cuộc gặp gỡ nào đó có thể xảy ra. Kể từ thuở thiếu thời sống trong chiến tranh, tôi đã biết rằng tất cả chúng ta đều đang sống trên bờ vực sâu thăm thẳm, trên đó là một hố đen mà một ngày nào đó chúng ta sẽ phải rơi vào, nhưng tôi đã cảm thấy rằng cái hàm của nó giờ đây đã chừa tôi ra và tôi đã bị trói buộc vào cuộc đời này bởi vô số những sợi chỉ mà chính những sợi chỉ ấy đã đan kết lại với nhau thành một tấm lưới bọc lấy tôi. Và lúc này đây, tấm lưới ấy đang lắc lư ở cái độ cao đến chóng mặt của cuộc đời.
Thế nhưng những sợi chỉ đó đang lặng lẽ đứt dần, vài sợi đã bị mục vì tuổi tác, vài sợi khác bị giật đứt bởi chính sự vụng về của bản thân tôi, và cũng còn có nhiều sợi khác bị những người khác kéo căng quá mức. Hoặc tôi có thể nói rằng: bởi cái thời điểm mà chúng ta đang sống.
Cũng chính vì thế, thi thoảng khi tôi nằm xuống, tôi lại cảm thấy một bàn tay nặng nề đang đè lên ngực mình. Tới sáng, khi thức giấc, tôi muốn nhắm tịt mắt lại và ngủ tiếp.
Thời gian trước, có một cậu học sinh cùng lớp với đứa con gái tôi tới gặp tôi, một cậu bé đã từng một lần tự cắt đứt mạch máu ở cổ tay mình, để hỏi tôi rằng: Tại sao con người ta lại nên sống?
Tôi còn có thể nói gì với cậu bé ấy nữa chứ? Chúng ta sống bởi vì đó là quy luật sinh tồn, chúng ta sống để chúng ta có thể đi tiếp theo bức thông điệp mang một ý nghĩa nào đó mà chúng ta không thể hiểu được hết bởi vì nó luôn là sự bí ẩn và không thể khám phá được. Chẳng hạn như cha tôi đã sống vì công việc của ông: bất cứ khi nào ông giải quyết được một vấn đề hóc búa nào đó thì tâm trạng ông thật mãn nguyện, đến mức ông chẳng nghĩ đến bất cứ một thứ gì khác, và vì mục tiêu đó, ông sẵn sàng từ bỏ tất cả các thú vui khác, thậm chí ông từ bỏ cả giấc ngủ của mình. Nhưng cũng có thể vì thế mà ông đã phải giật mình khi nhìn thấy mặt trời lên hay khi nghe tiếng một bản ngũ tấu của Schubert21. Tôi cũng chợt hiểu ra rằng chúng ta sống bởi vì có vô số những cuộc gặp gỡ đang đợi chúng ta ở phía trước và cũng chính vì chúng mà ta phải sống sao cho có ý nghĩa hơn. Những cuộc gặp gỡ bất ngờ với những con người chỉ xuất hiện vào lúc ta ít mong ngóng họ nhất. Hay ít ra cũng là những cuộc gặp gỡ với những sinh vật mà cuộc sống của chúng sẽ luôn đụng chạm đến chúng ta, đôi khi chỉ là một ánh mắt tầm thường. Tôi còn có thể nói với cậu bé ấy cái gì hơn nữa chứ?
21 Franz Schubert (1707 - 1828): nhạc sĩ thiên tài người Áo.
Dẫu thế vào một buổi tối kia, cậu bé vẫn tự cắt đứt mạnh máu trên tay mình một lần nữa, và với hai bàn tay đang chảy máu rất nhiều, cậu ta đã cố gắng treo cổ trên một cái cây ở mãi tận điểm cực bắc của đảo Žofín ở Vltava trong khi bạn bè cậu bé đang chơi đùa vui vẻ trong sàn nhảy cổ điển ở ngay trên hòn đảo ấy. Con gái tôi đã òa khóc trong cay đắng khi nó kể với tôi về chuyện ấy, và những lời kết luận của nó về người bạn học xấu số ấy là: “Nhưng cậu ấy cũng chỉ là một người quá đỗi bình thường”.
Khi tôi tới thăm cha tôi vào buổi chiều ấy, ông bỗng nhiên bị lên cơn sốt cao. Hai hàm răng của ông va vào nhau lập cập và đôi mắt ông mờ dại hẳn đi. Tôi đắp lên trán ông chiếc khăn ướt và cố gắng đắp lên tấm thân gầy gò, tiều tụy của ông một tấm vải ướt, thế nhưng ông đã khước từ tất cả, ông giật lấy tờ giấy khỏi tay tôi và mấy lần liền ông kêu lên trong hoảng loạn: Cầm lấy nó và đốt nó đi!
Vâng, thưa cha, tôi trả lời. Con sẽ cầm lấy nó và đốt nó ngay bây giờ.
Trong đời mình, cha tôi đã bị bắt đi tù hai lần, đã có hai loại cảnh sát mật khác nhau tới lục soát căn hộ của chúng tôi - có thể ông đang nói về một vài lá thư hay thứ giấy tờ gì đó. Nhưng cuối cùng, tôi vẫn hỏi ông: Nhưng đó là cái gì mà con lại phải cầm lấy và đốt đi chứ?
Ông đưa đôi mắt màu xanh xám nhìn tôi bằng ánh mắt vô hồn, đôi mắt ấy, khi tôi còn là một đứa trẻ, là đôi mắt có màu xanh của địa y, và ông trả lời: Dĩ nhiên là cơn sốt!
Vậy là tôi cầm lấy cơn sốt của ông và đốt nó thành một đống lửa từ mảnh giấy báo và mấy bản thảo viết tay của tôi đang nằm chỏng chơ một cách vô dụng trên tủ bếp đã gần ba mươi năm nay. Và khi đốt cơn sốt ấy, tôi đã nhìn thấy khuôn mặt của nó trong ánh lửa, giống khuôn mặt của một con búp bê bằng sứ xám ngoét mà tôi đang đợi cho nó chảy ra hoặc ít nhất cũng vỡ vụn ra, nhưng nó vẫn đứng trân trân ở đó trong ngọn lửa, chỉ quằn quại trong sự đau đớn cực độ và tôi chợt nhận ra rằng con búp bê ấy đang khóc, giữa ngọn lửa bạo tàn những giọt nước mắt ấy sáng long lanh trên hai gò má của nó.
Ngọn lửa ấy lụi hẳn đi. Tôi bước về phía cha tôi và đặt tay lên trán ông. Nó đã mát lạnh và đẫm mồ hôi. Cha tôi mở mắt ngơ ngác và cố gắng nở một nụ cười đầy cảm giác tội lỗi. Ông có thể cười một cách thật dịu dàng và chân thật đến mức bất cứ ai nhìn thấy ông lần đầu tiên cũng không thể không nhận ra rằng đó là một con người thật đặc biệt.
Tôi tự nhìn lại mình. Cơn sốt giờ chỉ còn là một nhúm tro tàn, khuôn mặt búp bê sứ của nó giờ đã khô cong và trông thật tham lam.
Tôi muốn được chìm vào giấc ngủ nhưng tôi vẫn có thể cảm nhận được màn đêm đang nhẹ nhàng trườn quanh người mình, giống như một con mèo khôn ngoan đang săn mồi, chẳng có gì là quan trọng đối với nó ngoại trừ con mồi đã được nhắm từ trước. Tôi đã kiểm tra lại từng sợi chỉ mà nhờ nó cuộc đời vẫn đang đan chặt tôi vào với chính nó, vẫn đang cố giữ tôi lơ lửng trên miệng hố đen, đôi hàm gớm ghiếc của nó đã quá gần đến mức đôi khi tôi có thể nhận ra từng gờ miệng trơn tru của nó.
Cái buộc tôi lại với cuộc đời này một cách chắc chắn nhất chính là nghiệp cầm bút của tôi: bất cứ cái gì mà tôi đã trải qua sẽ đều hiển hiện trong tôi như những bức tranh sinh động. Đôi khi chúng vây chặt lấy tôi đến mức tôi cảm thấy mình như đang sống ở một thế giới khác hoàn toàn, và sự hiện diện của tôi ở trong thế giới đó đã giúp tôi được hạnh phúc hay ít nhất cũng tạo cho tôi một cảm giác thư thái hơn. Nhiều năm trước, tôi đã tự thuyết phục mình rằng tôi có thể chia sẻ và truyền đạt lại những hình ảnh ấy cho những ai đang thật lòng chờ đón chúng để chia sẻ tất cả những niềm vui và những nỗi buồn của tôi. Tôi đã làm tất cả những gì có thể để đáp ứng được sự mong mỏi và kỳ vọng mà họ đã dành cho tôi: tôi đang làm điều này không phải vì lòng tự hào hay bất cứ sự ngộ nhận về địa vị cao siêu nào của mình mà bởi vì tôi muốn có ai đó chia sẻ với tôi cái thế giới của chính tôi.
Sau này, tôi đã nhận ra rằng trong cái thời đại có quá nhiều người luôn muốn ôm ấp lấy cái tinh thần xuẩn ngốc một cách ngoan ngoãn và tận tụy, chỉ để tránh phải đối diện với những tay kỵ sĩ của Apocalypse, thì sẽ có rất ít người quan tâm đến những hình ảnh hay ngôn từ của một ai đó.
Vậy nhưng tôi vẫn cứ viết, vẫn cứ đặt những ngôn từ và những câu văn lại bên nhau để tạo ra những sự việc và cả những cảnh mộng. Thường thì tôi làm việc miệt mài hết ngày này đến ngày khác chỉ để trau chuốt một đoạn văn đơn giản, tôi viết kín các trang giấy, rồi sau đấy lại quẳng chúng đi, tôi cố gắng khắc họa những cảm giác chính xác nhất và hoàn hảo nhất về tất cả những gì đang nằm trong đầu mình, để tránh bị hiểu nhầm, để khẳng định chắc chắn rằng không một đối tượng mà tôi đang viết nào có thể cảm thấy là mình đang bị lừa gạt. Bất cứ khi nào tôi hoàn thành một cuốn sách hay một vở kịch, thân thể tôi lại nổi loạn và trừng phạt tôi với những nỗi đau khốn cùng, và lần nào tôi cũng biết rằng khi tôi gửi bản thảo của mình tới các nhà xuất bản thì tôi đều nhận được một câu trả lời duy nhất: Chúng tôi phải gửi trả anh bản thảo này bởi vì nó không phù hợp với các kế hoạch xuất bản của chúng tôi. Khi đó, tôi lại gửi nó cho một vài người bạn, và một vài người trong số đó vẫn còn chưa chịu phục tùng cái tư tưởng xuẩn ngốc có thể sẽ sao lại nó và gửi nó tới một vài người bạn. Tôi cũng gửi bản thảo của mình ra nước ngoài, trong trường hợp nó không bị thất lạc trong quá trình vận chuyển, thì nó sẽ được xuất bản ở bên đó. Vậy là sau tất cả những gì tôi đã làm và tất cả những gì tự bản thân nó xảy ra - điều này chính là sợi dây quan trọng nhất mà tôi đang cố bám chặt vào - có thể vẫn còn một số người trên thế giới, bất chấp sự khó chịu của tôi đối với họ, mà tôi có thể kết thân được.
Tôi đã cố gắng viết liên tục trong suốt những năm tháng ấy khi mà chỉ cần một dòng chữ mang tên tôi cũng không được phép xuất bản tại đất nước tôi, khi mà không ít những người bạn thân thiết cũng cố tránh tôi bởi họ không chắc rằng việc gặp gỡ tôi có tạo ra một đám mây u ám che phủ lên tư cách đáng trọng của họ không. Tôi đã viết một cách ngang ngạnh, dẫu cho đôi lúc trọng lượng ngày càng tăng của sự cô đơn trong tôi đã đè nặng lên tôi đến mức không thể chịu đựng hơn được nữa. Tôi ngồi sau bàn làm việc và lắng nghe sự im lặng đang nuốt chửng tôi. Tôi chẳng thể nghe thấy gì hết, ngoại trừ một tiếng nổ lách tách rất khó cảm nhận được khi một vài sợi dây mỏng manh đứt vụn ra, và tôi nóng lòng được khám phá một hy vọng tôi có thể tự buộc mình vào với nó. Đó chính là lúc cô ấy xuất hiện. Nếu chúng tôi gặp nhau một lúc nào trước đó, có thể chúng tôi đã bỏ qua nhau rồi, nhưng đúng vào lúc ấy tôi đã chạy theo cô ấy giống như một gã nghiện ma túy, và tôi đã phải mất không ít năm mới thấy lại được cái cảm giác săn đuổi này. Cũng vào lúc đó tôi chưa bao giờ ngừng việc thôi thúc một cuộc tranh luận trong câm lặng với cô ấy. Thậm chí, ngay cả khi tôi đang gắng sức để theo đuổi cô ấy thì phần lớn những từ ngữ của tôi đều đã tắt lịm từ sâu trong cuống họng mỗi lúc cô ấy đưa mắt nhìn tôi, hễ khi nào bóng đêm ngăn cách tôi với những ánh mắt êm ái và đắm đuối của cô ấy thì tôi lại soạn ra những câu trả lời để biện minh cho những câu hỏi, những lời quở trách, những ao ước và cả những sự mong mỏi mà cho tới tận lúc ấy tôi vẫn chưa kịp trả lời.
Và giờ đây, khi bóng đêm đang lười nhác kéo dài tấm lưng mỏng mảnh của nó lên tôi thì tôi đang tiếp tục, bởi sức mạnh của thói quen, với một lá thư câm lặng mà trong đó tôi đang cố tự biện hộ cho mình và cố chứng minh rằng tôi đã không muốn làm tổn thương cô ấy. Trước khi quẳng nó vào trong chiếc thùng to tướng đựng đầy những lá thư vô dụng và cả những lời ước nguyện đâu đâu, những lời hứa hão huyền, những lời thỉnh cầu hay những hy vọng nửa thì thầm, tôi lại cố thêm một lần nữa để mường tượng ra lúc bấy giờ cô ấy đang làm gì, hay ít nhất cũng để mường tượng ra căn phòng của cô ấy. Ai mà biết được liệu cô ấy có đang ở trong đó hay không. Tôi chẳng còn biết cô ấy đã qua đêm như thế nào. Có thể cô ấy vẫn đang trên đường trở về nhà, những bước chân nhanh thoăn thoắt đang đến rất gần cái vòng tròn ấy rồi. Nếu như tôi vùng dậy ngay lúc này và chạy theo cô ấy, có thể tôi sẽ cắt cho cái vòng tròn ấy mở hẳn ra, có thể ôm chặt lấy cô ấy, từ bên trong sự giam hãm của cái vòng tròn ấy tôi có thể sẽ quên hết tất cả thế giới bên ngoài, tất cả những gì đã là, đang là và chắc hẳn sẽ là. Thế nhưng tôi cũng biết tôi sẽ không thể làm được điều đó. Tôi sẽ chỉ thức giấc vào buổi sáng và lên đường đi tới những con phố tôi đã quyết định sẽ quét sạch chúng. Bỗng đâu tôi chợt nghĩ rằng điều này đã trở thành lý do giải thích tại sao tôi tự tìm thấy chính mình trong một góc phố với một chiếc xe đẩy chở rác vào sáng hôm qua. Tôi cần phải đi đâu đó vào buổi sáng, hay ít nhất bây giờ tôi cần phải có một mục đích cụ thể nào đấy trong một lúc: cần phải đi ra ngoài, thực hiện bất cứ hành động nào và lắng nghe bất cứ kiểu trò chuyện nào, chỉ có thế tôi mới không phải ngồi giữa sự câm lặng để lắng nghe tiếng đứt phừn phựt của những sợi dây ấy.
Có thể, tôi chợt có ý nghĩ rằng tôi đang ở một chỗ nào đó mới mẻ. Tôi đã đi vào cái nơi mà sự quên lãng được ra đời. Hay cả nỗi thất vọng, cũng như cả sự hiểu biết. Hoặc thậm chí cả tình yêu - không giống như một ảo ảnh mà giống như một vũ trụ cho tâm hồn được bay bổng.