Hồi đó quê tôi bị giặc Pháp chiếm. Bọn chúng từ Đồng Mới, Đông Biên thường kéo về lùng sục càn quét. Thỉnh thoảng chúng lại câu đại bác từ Lạc Quần về. Nhân dân phải chịu biết bao nỗi cay cực. Có gia đình như gia đình bà Tốn đã tan nát cả nhà vì đạn đại bác của chúng. Gia đình Thủy ở cạnh nhà tôi cũng mất hai người. Hôm trước mẹ Thủy vừa mất vì sức ép, thì tối hôm sau bà Thủy lại tắt thở vì một mảnh đạn xuyên trúng ngực. Ngay chính Thủy cũng bị thương ở đầu gối đấy. Còn tôi lần đó suýt nữa cũng bị nguy rồi. May mà bố tôi đã kịp bế tôi chạy ra hầm khi tôi đang nhởn nhơ đuổi bắt một chú chuồn chuồn đậu ở hàng giậu trước nhà. Trận ấy nhà tôi bị đổ mấy gian nhà phụ và chết một con lợn sề. Thật tiếc quá. Con lợn sề to bằng chiếc cối xay lúa, lại hiền nữa chứ. Ngày nào theo mẹ vào xem nó ăn, tôi cũng nhảy lên lưng nó cưỡi làm ngựa.
Từ đấy cứ nghe tiếng súng giặc là dân làng lại chạy tản ra những chiếc hầm ngoài đồng. Vào một đêm cuối đông, trong chiếc hầm giữa cánh đồng Cói trước làng tôi đã bị cảm. Sáng ra mẹ vội vàng bế tôi về nhà. Cơn sốt mỗi lúc một tăng, tôi mê man không biết gì nữa. Bố cuống cuồng lo sợ. Song không biết chạy đâu ra thuốc men cả, vì quanh vùng tôi bốn bên đều có đồn giặc đóng. Bọn chúng sẵn sàng bắn vào bất cứ ai qua đường. Không biết làm cách nào, bố tôi đành đi mời hết ông lang này đến ông lang khác trong các làng bên. Còn mẹ tôi thì đi cầu cúng.
Một ngày, hai ngày rồi ba ngày, sau những giờ thoi thóp trên giường bệnh, tôi thấy mình đã tỉnh. Tôi ngồi dậy được, trong bụng thấy đói. Mẹ tôi đưa một quả cam đã bóc sẵn. Tôi thèm ăn quá, định đưa tay cầm lấy. Ôi, sao kỳ lạ thế này, hai cánh tay tôi bỗng trở nên nặng trịch. Tôi không còn đủ sức giơ nó lên nữa!
Ít ngày sau người khỏe hẳn, tôi dậy đi được. Nhưng đôi tay của tôi đã chẳng còn nguyên vẹn. Nó như hai cục thịt lủng lẳng đeo vào hai bên mình tôi. Tôi cảm thấy nằng nặng như không phải chính tay của mình.
Hồi đó tôi vừa tròn bốn tuổi.