H
arry đã quen với việc được đánh thức bởi tiếng chim hót líu lo đầy hân hoan trên những tán cây mọc quanh Barrington Hall, cũng như việc Sebastian ào ào chạy vào thư phòng không báo trước cũng chẳng đợi được mời, hay tiếng Emma quay về ăn sáng sau khi cưỡi ngựa đi dạo lúc sáng sớm.
Nhưng hôm nay có gì đó khác biệt.
Anh bị đánh thức bởi ánh đèn đường, tiếng ồn của dòng xe đi lại và đồng hồ Big Ben cứ mười lăm phút lại không ngừng đổ chuông để nhắc nhở anh còn lại bao nhiêu giờ nữa trước khi Lord Harvey đứng lên mở đầu cuộc tranh tụng mà sau đó những người mà anh chưa gặp một lần trong đời sẽ quyết định tương lai của anh và Giles trong cả nghìn năm sau.
Anh tắm thật lâu, vì vẫn còn quá sớm để xuống nhà ăn sáng. Mặc quần áo xong, anh gọi điện về Barrington Hall, để rồi được người quản gia báo cho biết cô Barrington đã ra ga. Harry ngớ người. Tại sao Emma phải bắt chuyến tàu sớm như vậy trong khi họ đã dự kiến chỉ gặp lại nhau vào giờ ăn trưa? Khi Harry bước vào phòng ăn sáng sau bảy giờ một chút, anh không hề ngạc nhiên khi thấy Giles đã có mặt và đang đọc các tờ báo buổi sáng.
“Ông ngoại cậu dậy chưa?” Harry hỏi.
“Từ trước hai chúng ta rất lâu, tớ ngờ là vậy. Khi tớ xuống dưới nhà, lúc ấy mới chỉ hơn sáu giờ, trong phòng làm việc của ông đèn đã sáng rồi. Sau khi chuyện kinh khủng này đã ở lại đằng sau chúng ta, cho dù kết quả có là thế nào đi nữa, bọn mình cần ép ông cụ đến lâu đài Mulgerie vài ngày tận hưởng một kỳ nghỉ cụ xứng đáng được hưởng.”
“Ý kiến rất hay,” Harry nói trong khi anh ngồi xuống chiếc ghế bành gần nhất, chỉ để rồi lại đứng dậy chỉ một khoảnh khắc sau khi Lord Harvey bước vào phòng.
“Đến giờ ăn sáng rồi, các chàng trai. Lên đoạn đầu đài với cái dạ dày rỗng tuếch không bao giờ là khôn ngoan cả.”
Bất chấp lời khuyên của Lord Harvey, cả ba người chẳng ăn được mấy trong khi ngẫm nghĩ về những ngày sắp tới. Lord Harvey thử nhẩm lại một số câu then chốt, trong khi Harry và Giles đưa ra một số đề xuất vào phút chót để thêm vào hay lược bớt khỏi bản thảo của ông.
“Ta ước gì có thể nói với các thành viên Thượng viện rằng cả hai đứa các cháu đã đóng góp nhiều đến thế nào,” ông nói, sau khi đã thêm vài câu vào bài phát biểu của mình. “Được rồi, các chàng trai, đã đến lúc lắp lưỡi lê và xông lên.”
-o-
Cả hai người đều căng thẳng bối rối.
“Tôi hy vọng ông có thể giúp được tôi,” Emma nói, không thể nhìn thẳng vào mắt người đàn ông kia.
“Tôi sẽ làm thế nếu tôi có thể, thưa cô,” ông ta nói.
Emma ngước mắt nhìn lên một người đàn ông, cho dù ông ta có râu ria sạch sẽ, và đôi giày đang đi hẳn mới được đánh xi sáng hôm đó, đang mặc trên người chiếc áo sơ mi có cổ áo đã mòn trơ sợi, và cái quần của bộ vét đã cũ ông ta mặc lại rộng lùng thùng.
“Khi bố tôi chết” - Emma không bao giờ có thể buộc bản thân nói ra mấy từ “bị giết” - “cảnh sát tìm thấy một bé gái trong phòng làm việc của ông ấy. Ông có biết chuyện gì đã xảy đến với đứa bé không?”
“Không,” người đàn ông nói, “nhưng vì cảnh sát không thể tìm thấy thân nhân của đứa trẻ, hẳn đứa bé đã được đưa tới một cơ sở từ thiện của nhà thờ để cho làm con nuôi.”
“Ông có biết đứa bé đã được đưa vào cô nhi viện nào không?” Emma hỏi.
“Không, nhưng tôi luôn có thể điều tra nếu…”
“Bố tôi còn nợ ông bao nhiêu?”
“Ba mươi bảy bảng và mười một shilling,” người thám tử tư nói, và lấy một nắm hóa đơn từ một túi áo trong ra.
Emma xua tay, mở xắc và lấy ra hai tờ năm bảng nhăn nhúm. “Tôi sẽ thanh toán đầy đủ khi chúng ta gặp lại.”
“Cảm ơn cô, cô Barrington,” Mitchell nói trong khi ông ta đứng dậy khỏi chỗ ngồi, coi cuộc gặp đã kết thúc. “Tôi sẽ liên lạc ngay khi có tin.”
“Tôi chỉ có thêm một câu hỏi nữa thôi,” Emma nói, ngước mắt nhìn lên ông ta. “Ông có biết cô bé tên là gì không?”
“Jessica Smith,” ông ta đáp.
“Sao lại là Smith?”
“Đó là họ người ta luôn đặt cho một đứa trẻ vô thừa nhận.”
-o-
Lord Harvey đóng cửa ngồi trong phòng của ông trên lầu ba Queen Tower suốt phần còn lại của buổi sáng. Thậm chí ông còn không rời khỏi phòng để cùng ăn trưa với Harry, Giles và Emma, mà chỉ ăn qua loa một chiếc xăng-uých kèm theo một ly uýt-ki mạnh trong lúc soát lại bài diễn văn của mình.
-o-
Giles và Harry ngồi xuống các băng ghế màu xanh lục(1) ở phòng họp trung tâm của Hạ viện và nói chuyện huyên thuyên trong lúc chờ Emma đến. Harry hy vọng rằng bất cứ ai trông thấy họ, thượng nghị sĩ, dân biểu Hạ viện hay phóng viên báo chí, đều không thể không nhận ra hai người là bạn chí cốt.
(1) Tại Hạ viện Anh các băng ghế của nghị sĩ sơn màu xanh lục, còn Thượng viện sơn màu đỏ.
Harry liên tục xem đồng hồ vì anh biết họ cần có mặt tại khu dành cho công chúng của Thượng viện trước khi Đại chưởng ấn ngồi vào ghế Chủ tịch Thượng viện vào lúc hai giờ.
Harry cho phép mình mỉm cười khi anh nhìn thấy Emma hối hả bước vào phòng khi đồng hồ vừa quá một giờ một chút. Giles vẫy tay chào em gái anh trong khi cả hai người đàn ông đứng dậy đón cô.
“Em đã làm gì thế?” Harry hỏi, thậm chí từ trước khi anh cúi xuống hôn cô.
“Em sẽ cho anh biết trong lúc ăn trưa,” Emma hứa trong khi cô nắm tay cả hai người. “Nhưng trước hết em muốn được cập nhật tin tức của các anh.”
“Rất sít sao để có thể đoán trước, đó là quan điểm chung,” Giles nói trong khi anh dẫn các vị khách về phía phòng ăn dành cho khách mời. “Nhưng không bao lâu nữa tất cả chúng ta sẽ biết số phận của mình,” anh mệt mỏi nói thêm.
-o-
Thượng viện đã đông đủ thành viên từ lâu trước khi Big Ben đổ hai tiếng chuông, và khi vị Đại chưởng ấn của Vương quốc Anh bước vào phòng, trên các băng ghế đông nghẹt đã không còn lấy một chỗ trống. Trên thực tế, một vài nghị sĩ thậm chí đã phải đứng. Lord Harvey đưa mắt nhìn sang phía đối diện của gian phòng để thấy Reg Preston đang mỉm cười với ông như một con sư tử vừa trông thấy bữa trưa của nó.
Các nghị sĩ đồng loạt đứng dậy khi ngài Đại chưởng ấn ngồi vào vị trí Chủ tịch Thượng viện. Ông cúi đầu chào cả viện đang tập hợp lại, và các nghị sĩ chào đáp lễ trước khi ngồi xuống.
Ngài Đại chưởng ấn mở cặp tài liệu bìa da màu đỏ khảm vàng của ông.
“Thưa quý vị, chúng ta tập hợp tại đây để đưa ra phán quyết về việc ông Giles Barrington hay ông Harry Clifton là người được quyền thừa kế tước vị, tài sản và gia huy của Sir Hugo Barrington đã quá cố, nam tước, người bảo vệ hòa bình.”
Lord Harvey đưa mắt lên và thấy Harry, Emma và Giles ngồi trên hàng ghế trên cùng ở khu dành cho công chúng. Ông được chào đón bằng nụ cười ấm áp của cô cháu gái và có thể đọc thấy môi cô đang nói, “Chúc may mắn, ông ngoại!”
“Tôi xin mời Lord Harvey bắt đầu phiên tranh tụng,” ngài Đại chưởng ấn nói, trước khi ngồi lại xuống ghế Chủ tịch Thượng viện.
Lord Harvey rời khỏi chỗ của ông trên băng ghế hàng đầu, nắm lấy hai bên rìa hộp đựng tài liệu(1) để cố trấn tĩnh, trong khi các đồng nghiệp của ông ở các băng ghế phía sau cổ vũ người bạn quý phái và chính trực của họ bằng những tiếng hô: “Nghe, nghe!”(2). Ông đưa mắt nhìn một vòng quanh Thượng viện, ý thức được mình sắp đưa ra bài phát biểu quan trọng nhất trong đời.
(1) Nguyên văn: dispatch box, hộp gỗ đặt trên bàn nghị sự ở giữa sàn phòng họp của hai Viện tại Nghị viện Anh. Mỗi viện có hai hộp như vậy ở hai bên bàn (một bên phía phe chính phủ, một bên phía phe đối lập tại Viện). Các thành viên hai Viện khi phát biểu sẽ lên đứng phía sau hộp ở phía mình. Trên thực tế, các hộp này không dùng đựng tài liệu mà đựng kinh thánh và các vật dụng cần thiết khác khi một thành viên Nghị viện tuyên thệ.
(2) Thể hiện sự ủng hộ với diễn giả trong các cuộc họp tại hai Viện của Anh.
“Thưa quý vị,” ông bắt đầu, “hôm nay, tôi đứng trước các vị để đại diện cho thân nhân của tôi, ông Giles Barrington, một thành viên của Hạ viện, trong quyền lợi hợp pháp của ông ấy với tước vị của gia tộc Barrington và tất cả tài sản sở hữu của gia tộc này. Thưa quý vị, cho phép tôi giúp các vị làm quen với bối cảnh dẫn đến vụ việc ngày hôm nay. Vào năm 1877, Joshua Barrington được Nữ hoàng Victoria(3) phong tước Hiệp sĩ vì những đóng góp cho ngành công nghiệp hàng hải, trong đó có Công ty Hàng hải Barrington, một đội tàu viễn dương cho tới tận hôm nay vẫn đóng cơ sở tại cảng Bristol.”
(3) Nữ hoàng Victoria (1819 - 1901): nữ hoàng của Liên hiệp Vương quốc Anh và Ai-len từ 1837 đến 1901.
“Joshua là con thứ năm trong một gia đình có chín người con, và phải rời trường học khi mới lên bảy, không biết đọc biết viết, trước khi ông bắt đầu cuộc sống ở vị trí học việc tại Công ty Đóng tàu Coldwater, tại đây, tất cả mọi người xung quanh ông nhanh chóng nhận ra ông không phải là một đứa trẻ bình thường”.
“Năm ba mươi tuổi, ông đã đạt được chứng chỉ thuyền trưởng, và ở tuổi bốn mươi hai ông được mời gia nhập hội đồng quản trị của công ty Coldwater, lúc đó đang trải qua một thời kỳ khó khăn. Trong mười năm tiếp theo, ông gần như đã một tay cứu sống công ty, và trong hai mươi hai năm kế tiếp, đảm nhiệm cương vị chủ tịch công ty”.
“Nhưng, thưa quý vị, các vị cần biết thêm chút nữa về con người của Sir Joshua để hiểu tại sao chúng ta tập hợp tại đây hôm nay, vì chắc chắn đây không phải là yêu cầu của ông. Trên hết, Sir Joshua là một người kính Chúa, luôn cẩn trọng với lời mình nói. Chỉ cần một cái bắt tay với Sir Joshua là đủ để chấp nhận một hợp đồng đã được ký kết. Ngày nay những con người như thế đâu cả rồi, thưa quý vị?”
“Nghe, nghe,” những tiếng hô vang lên khắp phòng.
“Nhưng cũng giống như rất nhiều người thành đạt, thưa quý vị, Sir Joshua đã mất nhiều thời gian hơn chúng ta một chút để thừa nhận bản thân ông rồi cũng sẽ phải chết.” Một tràng cười rì rầm vang lên chào trước câu nói. “Vì thế, vào thời điểm ông ấy phải thảo bản di chúc đầu tiên và cũng là duy nhất của mình, ông đã hoàn tất bản hợp đồng bảy mươi năm với đấng tạo hóa. Điều đó cũng không ngăn được ông thực hiện việc này với sự chu đáo và tầm nhìn xa quen thuộc của ông. Để soạn thảo di chúc, ông đã mời Sir Isaiah Waldegrave, luật sư hàng đầu trong Hội đồng cố vấn Nữ hoàng, đại diện cho mình, một luật sư, cũng giống như ngài, thưa ngài,” Lord Harvey nói, quay về phía ghế Chủ tịch Thượng viện, “đã kết thúc sự nghiệp tư pháp của ông trên cương vị Đại chưởng ấn. Tôi nhắc đến điều này, thưa quý vị để nhấn mạnh rằng bản di chúc của Sir Joshua mang một giá trị pháp lý và quyền lực không cho phép những người kế tục ông được đặt câu hỏi.”
“Trong bản di chúc đó, ông để lại tất cả cho người con trai cả của mình, Walter Barrington, người bạn lâu năm và thân thiết nhất của tôi. Bao gồm tước vị, công ty hàng hải, các bất động sản và, tôi xin viện dẫn những từ chính xác trong di chúc ‘tất cả những gì kèm theo trong đó.’ Cuộc tranh tụng này, thưa quý vị, không phải về hiệu lực của bản di chúc và những ước nguyện cuối cùng của Sir Joshua, mà chỉ về việc ai là người có quyền hợp pháp trở thành người thừa kế của ông. Đến đây, thưa quý vị, tôi rất mong các vị cân nhắc tới một điều hẳn chưa bao giờ xuất hiện trong tâm trí một con người kính Chúa như Sir Joshua; khả năng một người thừa kế của ông lại có lúc nào đó có một đứa con ngoài giá thú.”
“Hugo Barrington trở thành người thừa kế tiếp theo trong gia đình khi anh trai Nicholas của ông hy sinh vì tổ quốc tại chiến trường Ypres năm 1918. Hugo thừa kế tước vị năm 1942 sau cái chết của bố ông, Sir Walter. Khi Viện biểu quyết, thưa quý vị, các vị sẽ được yêu cầu quyết định giữa cháu ngoại tôi, ông Giles Barrington, là con trai hợp pháp trong cuộc hôn nhân giữa Sir Hugo đã quá cố và con gái duy nhất của tôi, Elizabeth Harvey, với ông Harry Clifton, người, theo tôi được biết, là con trai hợp pháp của bà Maisie Clifton và ông Arthur Clifton đã quá cố.”
“Đến đây, thưa quý vị, tôi mong quý vị cho phép tôi được dành chút thời gian để nói về cháu ngoại tôi, Giles Barrington. Giles theo học trường Trung học phổ thông Bristol, sau đó giành được một vị trí tại Brasenose College, Oxford. Tuy vậy, Giles đã không hoàn tất khóa học mà quyết định từ bỏ cuộc đời sinh viên và gia nhập trung đoàn Wessex không lâu sau khi chiến tranh nổ ra. Trong lúc phục vụ tại Tobruk với hàm thiếu úy, Giles đã dành được Chữ thập Quân đội khi tham gia phòng thủ thành phố này chống lại Quân đoàn châu Phi của Rommel. Sau đó, Giles bị bắt và đưa tới trại tù binh Weinsberg ở Đức, rồi trốn thoát khỏi nơi này và trở về Anh, quay lại phục vụ trung đoàn của mình cho tới khi chiến tranh kết thúc. Trong cuộc tổng tuyển cử, Giles đã ứng cử và trên thực tế đã trúng cử để trở thành dân biểu đại diện cho khu bến tàu Bristol.”
Những tiếng “Nghe, nghe” thật lớn vang lên từ các băng ghế đối diện.
“Khi bố qua đời, Giles thừa kế tước vị không gặp phải tranh chấp nào, vì theo như tin tức được công bố rộng rãi, Harry Clifton đã được an táng ngoài biển không lâu sau khi nước Anh tuyên chiến. Cuộc đời thật lắm trớ trêu, thưa quý vị, khi chính cháu gái tôi, Emma, bằng nỗ lực và quyết tâm của nó, lại là người khám phá ra Harry vẫn còn sống, và một cách vô tình cô gái đã khởi đầu cho chuỗi biến cố đã đưa các vị tới Thượng viện hôm nay.” Lord Harvey nhìn lên khu dành cho công chúng, và gửi tới cháu gái ông một nụ cười trìu mến.
“Thưa quý vị, không còn gì phải tranh luận về việc Harry Clifton được sinh ra trước Giles Barrington. Tuy nhiên, tôi cần chỉ rõ, không có bằng chứng cụ thể và xác thực nào chứng minh Harry Clifton là kết quả từ mối quan hệ giữa Sir Hugo Barrington và cô Maisie Tancock, sau này trở thành bà Arthur Clifton.”
“Bà Clifton không phủ nhận việc bà đã có quan hệ tình dục với Hugo Barrington một lần vào năm 1919, và chỉ một lần duy nhất. Tuy nhiên, vài tuần sau đó bà kết hôn với ông Arthur Clifton, và sau đó một đứa trẻ được sinh ra, với họ tên trong giấy khai sinh là Harry Arthur Clifton.”
“Như vậy, thưa quý vị, các vị có ở đây một bên là Giles Barrington, con trai hợp pháp của Sir Hugo Barrington. Ở bên kia, là Harry Clifton, người tình cờ có khả năng là hậu duệ của Sir Hugo, trong khi không còn chút nghi ngờ nào về điều này với Giles Barrington. Và liệu đó có phải là một nguy cơ các vị sẵn lòng chấp nhận không, thưa quý vị? Nếu là có, cho phép tôi đưa ra thêm một yếu tố nữa có lẽ sẽ giúp quý vị quyết định xem mình nên nghiêng về phía nào khi đưa ra phán quyết cho cuộc tranh tụng này. Harry Clifton, người đang ngồi trên khu dành cho công chúng chiều nay, đã hết lần này tới lần khác bày tỏ rõ ràng quan điểm của mình. Cậu ấy không hề muốn bị sức ép - tôi xin dùng lời của chính Harry - của tước vị, mà rất mong muốn nó được kế thừa bởi Giles Barrington, người bạn thân của mình.”
Vài nghị sĩ ngước mắt nhìn lên khu dành cho công chúng để thấy Giles và Emma Barrington ngồi hai bên Harry Clifton, người lúc này đang gật đầu lia lịa. Lord Harvey không nói tiếp cho tới khi cả Viện đã hướng sự chú ý trở lại phía ông.
“Và như vậy, thưa quý vị, khi các vị bỏ phiếu vào tối nay, tôi kêu gọi quý vị hãy cân nhắc tới nguyện vọng của Harry Clifton, tới ý định của Sir Joshua Barrington, và dành sự ủng hộ cho cháu trai Giles Barrington của tôi. Tôi vô cùng biết ơn quý Viện vì sự quan tâm lắng nghe.”
Lord Harvey ngồi lại xuống băng ghế trong tiếng hoan hô vang dội và những bàn tay cầm giấy giơ lên vẫy. Harry cảm thấy tự tin đã giành được phần thắng.
Khi Thượng viện trật tự trở lại, vị Đại chưởng ấn đứng dậy nói, “Tôi mời Lord Preston trả lời.”
Harry từ trên nhìn xuống, theo dõi trong khi một người đàn ông anh chưa bao giờ thấy trước đây từ tốn đứng dậy từ phía các băng ghế đối diện. Lord Preston có lẽ không cao quá năm foot được đến một inch, và thân hình to bè, cơ bắp cũng như khuôn mặt với đường nét như một cái lò của ông ta hẳn không làm ai còn chút nghi ngờ nào về chuyện ông ta từng là một người lao động trong suốt quãng đời làm việc của mình, trong khi vẻ mặt đầy gây gổ của ông ta cho hay ông ta không sợ bất cứ ai.
Reg Preston dành một lát để quan sát các băng ghế đối diện, giống như một anh lính nhô đầu lên khỏi bờ công sự để quan sát kẻ thù kỹ lưỡng hơn.
“Thưa quý vị, tôi muốn mở đầu những nhận xét của mình bằng lời chúc mừng Lord Harvey về bài phát biểu xuất sắc và cảm động của ông. Tuy nhiên, tôi cho rằng chính sự xuất sắc ấy lại trở thành điểm yếu của nó, và mang theo mầm mống cho sự thất bại. Những lời đóng góp của con người quý phái này quả thực rất cảm động, song càng về sau, ông ngày càng trở nên giống hơn với một luật sư ý thức được quá rõ ông ta đang bào chữa cho một lý lẽ rất yếu ớt.” Preston đã tạo ra được trong phòng sự im lặng mà Lord Harvey không làm được.
“Thưa quý vị, chúng ta hãy cùng xem xét một số sự thật, thật tiện lợi, đã được Lord Harvey cao quý và trung thực chuẩn bị trước. Không ai bàn cãi việc Hugo Barrington khi còn trẻ đã từng có quan hệ tình dục với Maisie Tancock chừng sáu tuần trước khi cô kết hôn với Arthur Clifton. Hay chín tháng sau đó, gần như đúng từng ngày, cô đã sinh được một cậu con trai mang cái tên thật ổn thỏa Harry Arthur Clifton trong giấy khai sinh. Thế đấy, chi tiết này đã giải quyết xong rắc rối nho nhỏ ở đây rồi phải không nào, thưa quý vị? Ngoại trừ một sự thật không mấy ổn thỏa là nếu bà Clifton bắt đầu mang thai đứa trẻ từ ngày bà lấy chồng, cậu bé sẽ được sinh ra bảy tháng mười hai ngày sau đó.”
“Bây giờ, thưa quý vị, tôi sẽ là người đầu tiên thừa nhận đây là một khả năng, nhưng là một người cá cược, nếu được phép lựa chọn giữa chín tháng và bảy tháng mười hai ngày, tôi biết mình sẽ đặt tiền cược vào đâu, và tôi không nghĩ nhà cái sẽ cho tôi tỷ lệ đặt cược cao cho lắm.”
Vài tiếng cười vang lên từ các băng ghế Công đảng.
“Và tôi cần nói thêm, thưa quý vị, rằng đứa trẻ khi sinh ra nặng chín cân và bốn ao xơ(1). Nghe không có vẻ gì là thiếu tháng cả.”
(1) Khoảng 4,2 kg
Tiếng cười vang còn lớn hơn.
“Tiếp theo, chúng ta hãy xem xét tới một điều nữa có lẽ đã bị trí tuệ mẫn tiệp của Lord Harvey bỏ sót mất. Hugo Barrington, giống như bố và ông nội ông, mắc phải một khiếm khuyết di truyền vẫn được gọi là bệnh mù màu, và cậu con trai Giles của ông cũng thế. Và Harry Clifton cũng vậy. Tỷ lệ đặt cược lại bị hạ thêm xuống, thưa quý vị.”
Thêm nhiều tiếng cười vang lên, và những lời trao đổi xì xầm vang lên ở cả hai phía của Thượng viện. Lord Harvey vẫn cương nghị nhìn đối thủ trong lúc chờ cú ra đòn tiếp theo.
“Thưa quý vị, chúng ta hãy cùng làm tỷ lệ đặt cược hạ thấp xuống hơn nữa. Vị bác sĩ danh tiếng Milne tại Bệnh viện St Thomas chính là người đã khám phá ra rằng nếu bố mẹ có cùng nhóm máu Rh âm tính, những đứa con của họ cũng sẽ là Rh âm tính. Sir Hugo Barrington có nhóm máu Rh âm tính. Bà Clifton cũng Rh âm tính. Và ngạc nhiên, thật ngạc nhiên thay, Harry Clifton cũng Rh âm tính, một nhóm máu chỉ gặp ở mười hai phần trăm dân số Anh. Tôi nghĩ nhà cái đang phải đếm tiền chi trả, thưa quý vị, vì con ngựa duy nhất còn lại trong cuộc đua vẫn chưa ra khỏi lồng xuất phát.”
Càng có thêm nhiều tiếng cười vang lên, và Lord Harvey cúi người xuống thấp hơn nữa trên băng ghế, bực bội vì ông đã quên không chỉ ra cả Arthur Clifton cũng có nhóm máu Rh âm tính.
“Bây giờ, cho phép tôi đề cập đến một việc, thưa quý vị, và trong việc này tôi hoàn toàn nhất trí với Lord Harvey. Không ai có quyền đặt câu hỏi về di chúc của Sir Joshua Barrington, khi nó đã được soạn thảo với mức độ hiểu biết tư pháp cao như vậy. Do đó, tất cả những gì chúng ta cần quyết định là những từ ‘con cả’ và ‘thân nhân gần gũi nhất’ trên thực tế có nghĩa là gì.”
“Phần lớn quý vị tại Thượng viện đều biết quá rõ quan điểm dứt khoát của tôi về nguyên tắc thừa kế thế tập.” Preston mỉm cười trước khi nói thêm. “Tôi coi nó không có nguyên tắc.”
Lần này, tiếng cười chỉ còn vang lên từ một phía của Thượng viện, trong khi những người ngồi trên các băng ghế phía đối diện im lìm như những tảng đá.
“Thưa quý vị, nếu các vị quyết định tảng lờ tiền lệ tư pháp và bám lấy truyền thống lịch sử, chỉ đơn giản để phù hợp với lợi ích của các vị, quý vị sẽ đưa khái niệm thừa kế thế tập tới chỗ rối loạn, và đến lúc nào đó toàn bộ tòa nhà sẽ đổ ập xuống đầu quý vị,” ông ta nói, chỉ tay về phía những băng ghế đối diện.
“Vì thế, chúng ta hãy xem xét đến hai chàng trai trẻ can dự vào cuộc tranh chấp đáng buồn này, mà không phải, tôi có thể nói là, thưa quý vị, là cuộc tranh chấp mà họ muốn xảy ra. Harry Clifton, như chúng ta được cho biết, mong muốn người bạn Giles Barrington của anh được thừa kế tước vị. Một thanh niên chính trực biết chừng nào. Nhưng, phải nói là Harry Clifton, không hoài nghi gì nữa, vẫn luôn là một thanh niên chính trực. Tuy nhiên, thưa quý vị, nếu chúng ta lựa chọn đi theo con đường đó, bất cứ nhà quý tộc mang tước hiệu thế tập nào trong tương lai cũng sẽ có thể quyết định xem ai trong số các con của mình mà ông ta muốn trở thành người thừa kế hơn cả, và đó, thưa quý vị, là một con đường cụt không dẫn đến đâu cả.”
Cả Thượng viện đã im bặt, và Lord Preston có thể hạ giọng xuống gần như thì thầm.
“Liệu chàng trai trẻ chính trực này, Harry Clifton, có động cơ đằng sau nào hay không khi anh ta tuyên bố với cả thế giới rằng anh ta muốn người bạn Giles Barrington của mình được thừa nhận là con đầu lòng?”
Mọi con mắt đổ dồn cả vào Lord Preston.
“Thưa quý vị, các vị biết đấy, Nhà thờ Anh sẽ không cho phép Harry Clifton thành hôn với cô gái anh ta yêu, em gái Emma Barrington của Giles Barrington, vì họ không còn mấy nghi ngờ về việc hai người này có chung một ông bố.”
Harry chưa bao giờ cảm thấy ghê tởm người nào hơn thế trong đời anh.
“Tôi thấy các băng ghế dành cho các vị giám mục đều đông đủ hôm nay, thưa quý vị,” Preston tiếp tục nói, quay sang nhìn thẳng vào các đại diện của nhà thờ. “Tôi rất hào hứng muốn được khám phá cách nhìn nhận của giới chức nhà thờ trong vấn đề này, vì họ không thể có cả hai lựa chọn.” Một hai người trong số các giám mục có vẻ không được thoải mái lắm. “Và trong khi tôi đang đi vào chủ đề gốc gác của Harry Clifton, cho phép tôi đề xuất rằng với tư cách một ứng viên trong danh sách, anh này hoàn toàn tương xứng về mọi mặt so với Giles Barrington. Lớn lên trên những con phố nghèo của Bristol, bất chấp mọi bất lợi, chàng trai đã giành được một chỗ học tại trường Trung học phổ thông Bristol, và năm năm sau được một học bổng tài năng tại Brasenose College, Oxford. Và chàng trai trẻ Harry thậm chí không cần đợi tới khi chiến tranh được tuyên bố để rời khỏi trường đại học với dự định nhập ngũ, và chỉ bị ngăn cản khi con tàu của anh bị một tàu ngầm Đức bắn chìm, dẫn tới việc Lord Harvey và những thành viên còn lại của gia đình Barrington tin rằng anh đã gửi thân dưới đáy biển.”
“Bất cứ ai từng đọc qua những lời cảm động của ông Clifton trong cuốn sách Nhật ký một tù nhân đều biết cuối cùng chàng trai đã gia nhập Quân đội Mỹ và giành được Ngôi Sao Bạc trước khi bị thương vì mìn Đức chỉ vài tuần trước khi hòa bình được lập lại. Nhưng người Đức đã không thể dễ dàng giết được Harry Clifton như thế, thưa quý vị, và cả chúng ta cũng không.”
Tất cả các băng ghế phe Công đảng nhất loạt bùng nổ, và Lord Preston đợi cho đến khi Viện đã im lặng trở lại.
“Cuối cùng, thưa quý vị, chúng ta cần hỏi chính mình tại sao chúng ta lại có mặt ở đây hôm nay. Tôi sẽ cho các vị hay tại sao. Đó là vì Giles Barrington đã kháng cáo chống lại một quyết định do bảy chuyên gia tư pháp hàng đầu của đất nước này đưa ra, một chi tiết nữa mà Lord Harvey đã bỏ sót không nhắc đến trong bài phát biểu đầy cảm hứng của ông. Nhưng tôi sẽ nhắc lại với các vị rằng, trong sự thông thái của họ, các thành viên Hội đồng Tư pháp đã quyết định cho Harry Clifton được thừa kế tước vị nam tước. Nếu các vị đang nghĩ đến việc lật lại phán quyết đó, thưa quý vị, trước khi làm như vậy, các vị cần tin chắc các thành viên Hội đồng Tư pháp đã có một sai lầm cơ bản trong phán quyết của họ.”
“Và như vậy, thưa quý vị,” Preston nói trong khi ông ta bắt đầu đoạn kết của mình, “khi các vị bỏ phiếu để quyết định xem ai trong hai người đàn ông này xứng đáng được thừa kế tước vị của gia tộc Barrington, đừng dựa trên những gì thuận tiện cho các vị, mà dựa trên khả năng vững chắc nhất. Vì khi đó, nếu viện dẫn lại lời Lord Harvey, các vị sẽ dành sự ủng hộ không phải cho Giles Barrington, mà cho Harry Clifton, vì tỷ lệ xác suất, chứ không phải xuất thân trên giấy tờ, nghiêng về phía chàng trai này. Và xin cho phép tôi kết thúc, thưa quý vị,” ông ta nói, nhìn thẳng đầy thách thức về phía những băng ghế phía đối diện, “bằng cách đề nghị rằng khi cho lá phiếu vào hòm, các vị hãy mang theo lương tri của bản thân, và để quan điểm chính trị lại đây.”
Lord Preston ngồi xuống trong tiếng hoan hô nhiệt liệt từ các băng ghế phía ông ta, trong khi có thể thấy một số nghị sĩ ở phía đối lập gật đầu.
Lord Harvey viết vài dòng dành cho đối thủ của ông, chúc mừng ông ta về một bài phát biểu đầy sức mạnh, càng thuyết phục hơn bởi niềm tin rõ ràng nó thể hiện. Theo truyền thống của Thượng viện, hai diễn giả mở màn của hai phía sẽ ngồi lại chỗ của họ để lắng nghe quan điểm của các thành viên tiếp theo từ mỗi phía.
Trên thực tế, có thêm một số đóng góp không thể lường trước từ cả hai phía của Viện, và điều này chỉ làm Lord Harvey thêm không chắc chắn về kết quả cuối cùng khi phiếu được kiểm. Một bài phát biểu của Giám mục Bristol đã được tất cả các phía trong Thượng viện chăm chú lắng nghe, bài phát biểu rõ ràng nhận được sự ủng hộ từ các bạn bè trong giới chức nhà thờ của ông, đang ngồi trên các băng ghế bên cạnh ngài giám mục.
“Thưa quý vị,” ngài giám mục nói, “nếu, trong sự sáng suốt của mình, tối nay các vị bỏ phiếu lựa chọn ông Giles Barrington thừa kế tước vị, những người bạn cao quý của tôi và tôi sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc rút lại sự phản đối của nhà thờ về một đám cưới hợp pháp giữa ông Harry Clifton và cô Emma Barrington. Bởi vì, thưa quý vị, nếu các vị quyết định Harry không phải là con của Hugo Barrington, sẽ không còn lý do gì để phản đối cuộc hôn nhân này.”
“Nhưng họ sẽ bỏ phiếu thế nào?” Lord Harvey thì thầm với một đồng nghiệp ngồi cạnh ông trên băng ghế hàng đầu.
“Khi đến giờ bỏ phiếu, tôi và các nghị sĩ là giới chức nhà thờ khác sẽ không lựa chọn hòm phiếu nào, vì chúng tôi cảm thấy chúng tôi không thích hợp để đưa ra một phán quyết chính trị hay tư pháp trong vấn đề này.”
“Thế còn một phán quyết đạo đức thì sao?” Lord Preston nói, đủ lớn để vọng tới những băng ghế dành cho các giám mục. Lord Harvey cuối cùng cũng tìm ra được một điểm hai người nhất trí với nhau.
Một bài phát biểu nữa làm Thượng viện ngạc nhiên được đưa ra từ Lord Hughes, một nghị sĩ trung dung, đồng thời là cựu chủ tịch Hiệp hội Y khoa Anh.
“Thưa quý vị, tôi cần thông báo với Viện rằng những nghiên cứu y khoa gần đây, được tiến hành tại Bệnh viện Moorfields, đã cho thấy bệnh mù màu chỉ có thể di truyền theo đường mẹ.”
Ngài Đại chưởng ấn mở cặp tài liệu đỏ của ông ra và bổ sung vào các ghi chú của mình.
“Và do đó, việc Lord Preston đề xuất rằng vì Sir Hugo Barrington bị mù màu làm tăng khả năng Harry Clifton là con trai ông ấy là không có căn cứ khoa học, và cần được coi như một trùng hợp ngẫu nhiên.”
Khi Big Ben đổ mười tiếng chuông, vẫn còn một số nghị sĩ nữa muốn giành lấy sự chú ý của Đại chưởng ấn. Trong sự thông thái của mình, ông này quyết định cho phép cuộc tranh tụng tiếp tục dòng chảy tự nhiên của nó. Diễn giả cuối cùng ngồi xuống vài phút sau lúc ba giờ sáng ngày hôm sau.
Khi tiếng chuông báo hiệu giờ bỏ phiếu vang lên, từng hàng nghị sĩ trang phục xộc xệch và mệt mỏi kiệt sức rời phòng họp sang phòng bỏ phiếu. Harry, vẫn ngồi trên khu dành cho công chúng, nhận thấy Lord Harvey đã ngủ thiếp đi. Không ai bình phẩm gì. Nói gì thì nói, ông đã không rời chỗ của mình suốt mười ba giờ đồng hồ qua.
“Hy vọng là ông sẽ thức dậy đúng lúc để bỏ phiếu,” Giles nói kèm theo một cái tặc lưỡi đột ngột bị dừng lại giữa chừng khi anh thấy ông ngoại mình gục xuống thấp hơn nữa trên băng ghế.
Một người chạy việc lập tức rời phòng họp gọi xe cấp cứu, trong khi hai nhân viên phục vụ chạy xuống dưới phía giữa phòng họp dìu vị nghị sĩ cao tuổi nằm xuống một chiếc cáng.
Harry, Giles và Emma rời khỏi khu dành cho công chúng, hối hả chạy xuống cầu thang và ra tới tiền sảnh Thượng viện đúng lúc những người khiêng cáng ra khỏi phòng họp. Cả ba người cùng đi theo Lord Harvey ra khỏi tòa nhà lên chiếc xe cấp cứu đang đợi sẵn.
Sau khi các nghị sĩ đã bỏ phiếu vào thùng họ lựa chọn, tất cả chậm chạp quay lại phòng họp. Không ai muốn ra về trước khi được nghe kết quả kiểm phiếu. Các thành viên của cả hai phe đều thấy ngạc nhiên khi không hề thấy Lord Harvey ngồi tại chỗ của ông trên băng ghế hàng đầu.
Những lời xì xào bắt đầu lan đi quanh phòng, và khi Lord Preston được báo tin, mặt ông ta trở nên xám như tro.
Phải vài phút trôi qua trước khi bốn người làm nhiệm vụ kiểm phiếu quay lại phòng họp thông báo với Thượng viện kết quả bỏ phiếu. Họ bước lên lối đi trung tâm theo từng bước đều đặn, giống như những sĩ quan cận vệ họ từng là trước đây, và dừng lại trước mặt Đại chưởng ấn.
Cả phòng họp im lặng.
Trưởng nhóm kiểm phiếu giơ tờ kết quả lên và lớn tiếng thông báo, ”Đồng ý ở bên phải, hai trăm bảy mươi ba phiếu. Không đồng ý ở bên trái, hai trăm bảy mươi ba phiếu.”
Những tiếng ồn ào huyên náo bùng lên trong phòng và ở khu dành cho công chúng phía trên, trong lúc cả các nghị sĩ lẫn những người tới dự tìm kiếm chỉ dẫn về điều gì sẽ diễn ra tiếp theo. Những người kỳ cựu hiểu Đại chưởng ấn sẽ phải đưa ra lá phiếu quyết định. Ông này ngồi một mình trên ghế Chủ tịch Thượng viện, không biểu hiện bất cứ cảm xúc nào và hoàn toàn bình thản trước những tiếng ồn ào xôn xao xung quanh mình trong lúc kiên nhẫn chờ đợi Viện trật tự trở lại.
Khi những tiếng thì thầm cuối cùng đã lắng xuống, Đại chưởng ấn từ tốn đứng dậy khỏi ghế Chủ tịch Thượng viện, chỉnh lại bộ tóc giả ông đang đội trên đầu và chiếc áo thụng đen thêu chỉ vàng ông đang mặc trước khi phát biểu với toàn Viện. Mọi con mắt trong phòng đều chăm chú đổ dồn về ông. Trên khu vực dành cho công chúng đông chật nhìn xuống phòng họp, những người đủ may mắn kiếm được vé đang cúi người qua lan can ngó xuống chờ đợi. Có ba ghế trống ở khu dành cho khách mời đặc biệt: chỗ ngồi của những người có tương lai đang nằm trong tay Đại chưởng ấn.
“Thưa quý vị,” ông lên tiếng. “Tôi đã chăm chú lắng nghe với sự quan tâm cao nhất tất cả những đóng góp các vị đưa ra trong phiên tranh tụng dài và rất ấn tượng này. Tôi đã cân nhắc những lý lẽ được đưa ra một cách hùng hồn và chân thành từ tất cả các phía của Viện và nhận ra mình đang phải đối diện với một tình huống rất khó khăn. Tôi muốn chia sẻ mối bận tâm của mình với tất cả quý vị.”
“Trong những hoàn cảnh thông thường, khi được báo một kết quả cân bằng, tôi hẳn sẽ không do dự ủng hộ phán quyết trước đây của Hội đồng Tư pháp, khi họ đi đến phán quyết với bốn phiếu chống lại ba dành cho Harry Clifton quyền thừa kế tước vị của gia đình Barrington. Trên thực tế, tôi sẽ vô trách nhiệm nếu không làm như vậy. Tuy nhiên, có thể quý vị chưa biết ngay sau khi có chuông báo yêu cầu bỏ phiếu, Lord Harvey, người đề nghị tổ chức phiên tranh tụng này, đã ngã bệnh đột ngột, do đó không thể tham gia bỏ phiếu. Không ai trong chúng ta có thể có chút nghi ngờ nào về lựa chọn của ông, lựa chọn hẳn đã cho phép ông giành phần thắng hôm nay, cho dù với đa số mong manh nhất, và tước vị đáng lẽ đã được dành cho cháu ngoại Giles Barrington của ông.”
“Thưa quý vị, tôi tin chắc Viện sẽ đồng ý rằng trong hoàn cảnh đó, phán quyết cuối cùng của tôi sẽ cần đến sự sáng suốt của Solomon.”
Có thể nghe thấy những tiếng rì rầm “nghe, nghe” từ cả hai phía Thượng viện.
“Tuy nhiên, tôi cần phải nói trước Viện,” ngài Đại chưởng ấn tiếp tục, “là tôi vẫn chưa quyết định đứa con trai nào tôi nên cắt làm đôi(1), và đứa con trai nào tôi cần trả lại quyền lợi bẩm sinh.”
(1) Nhắc đến tích Solomon phán xử hai người phụ nữ tranh nhau một đứa trẻ. Solomon đã ra lệnh chặt đôi đứa trẻ cho mỗi người một nửa, và người mẹ thật sự vì thương con đã xin thua, nhận mình không phải là mẹ đứa trẻ nữa để con mình không bị chặt đôi. Solomon liền trả lại con cho bà.
Một tràng cười vang lên sau những lời bình luận này, giúp phá vỡ sự căng thẳng trong phòng họp.
“Vì vậy, thưa quý vị,” ông nói, sau khi đã lại có được sự chú ý của cả Viện, “tôi sẽ công bố phán quyết của mình trong vụ Barrington chống lại Clifton vào lúc mười giờ sáng mai.” Ông ngồi trở lại xuống ghế Chủ tịch Thượng viện và không nói thêm lời nào nữa. Người phụ trách phòng họp thúc cây gậy của ông ta xuống sàn ba lần, nhưng hầu như không ai có thể nghe thấy trong tiếng ồn ào.
“Viện sẽ họp lại vào mười giờ sáng mai,” ông ta lấy hết gân sức lớn tiếng thông báo, “khi đó ngài Đại chưởng ấn sẽ công bố phán quyết của ngài trong vụ Barrington chống lại Clifton. Viện đứng dậy!”
Ngài Đại chưởng ấn rời khỏi chỗ ngồi, cúi chào cả Thượng viện, và các nghị sĩ đồng loạt đáp lễ.
Người phụ trách phòng họp lại thúc cây gậy của ông ta xuống sàn ba lần.
“Viện giải tán!”
Hết