I. Thuở ấu thơ và thiếu thời
Theo gia phả họ Nguyễn Sinh ở làng Sen cách đây 400 năm. Đến ông Nguyễn Sinh Sắc do mồ côi cha mẹ từ sớm nên phải tới sống cùng người anh cùng cha khác mẹ, giữ trâu kiếm sống. Song ông vô cùng ham học và sáng dạ, sau được ông Hoàng Đường quý mến mà đài trợ cho ăn học. Về sau, Sinh Sắc kết duyên với bà Hoàng Thị Loan, con gái đầu lòng của ông Hoàng Đường.
Năm 1896, ông Nguyễn Sinh Sắc đậu cử nhân vào học ở trường Quốc Tử Giám. Cụ gửi con gái lớn cho ông bà ngoại rồi đưa cả gia đình vào Huế sống. Gia cảnh khó khăn, đồng lương ở trường Canh Nông không đủ nuôi sống gia đình nên bà Hoàng Thị Loan dành dụm tiền mua một chiếc khung cửi dệt vải phụ trợ cho cụ.
Sinh Cung lúc ấy sáu tuổi, tiếp tục học tiểu học ở đây. Ông được khen thông minh, nhớ bài mau. Có hôm đi chơi cùng bạn trước cửa Ngọ Môn nhìn thấy núi Ngự Bình. Được bạn lớn tuổi giải thích vì núi đó Ngài (vua) thường ra chơi ngắm cảnh nên gọi là Ngự Bình, Sinh Cung bèn nói: “Vậy núi này chúng ta hay ra chơi gọi là núi Ngự Đồng được chứ. Ngự đồng là bến nhi đồng chơi.” Các cụ nghe chuyện ai cũng khen sáng dạ. Cũng từ những tháng ngày thơ ấu này được nghe các câu chuyện giặc Pháp đàn áp nhân dân, ý chí căm thù và lòng thương người cùng khổ được hun đúc ở Người.
Sau lần thi Hội thứ hai không thành, cụ Sinh Sắc được thầy cử Nguyễn Hữu Độ mời về Dương Nổ dạy học, đài thọ cho hai anh em Người. Tại đây Người kết thân với con trai cụ Độ là Nguyễn Hữu Khuyến và bắt đầu học chữ Hán. Khi cha ra Thanh Hóa chấm kỳ thi Hương, Người trở về ở với mẹ. Do phải lao lực, sau khi hạ sinh con trai Nguyễn Sinh Xin được một năm thì bà qua đời. Cha, anh đi vắng, mẹ mất, ông bà ở xa, một mình ở tuổi lên mười, thiếu cơm, rách áo, hàng ngày Người phải đi xin sữa, xin cháo nuôi em, cuộc sống rất cơ cực. Phải mấy tháng sau ông Sinh Sắc mới về đưa Người cùng em trai về quê gửi ông bà rồi lại vội vàng vào Huế thi Hội. Cụ đậu Phó bảng, trở về quê dạy học. Sau nhiều lần khất, ông phải vào kinh nhậm chức, dẫn theo Người vào Huế. Trong thời gian ở quê, Người được học tiếng Pháp và học rất giỏi. Đến Huế, Người học năm cuối trường tiểu học và trúng tuyển vào trường Quốc Học Huế. Trong thời gian này, Người tham gia nhiều phong trào chống Pháp, đóng vai trò là phiên dịch. Sau lần đàn áp dữ dội các chí sĩ yêu nước, trong đó có Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, gia đình Người bị liệt vào danh sách đen trong hồ sơ mật thám Pháp. Chứng kiến sự thối nát của triều đại phong kiến và bản chất của thực dân Pháp, ý định sang phương Tây nung nấu trong Người từ khi còn ở nhà, đến Huế lại càng hình thành rõ nét.
Năm 1909, cụ Sinh Sắc được bổ làm Tri huyện Bình Khê, Bình Định. Người theo cha lên đường. Đến ngày Người trở về là gần 36 năm, nhưng những kí ức về Huế vẫn còn đậm nét trong Người. Gặp các đồng chí từ Huế ra, Người vẫn thường hỏi Huế ngày nay đã có gì đổi thay hay cái nét đẹp thuở xưa vẫn còn giữ nguyên dù trải qua bao thập niên.
Sau thời gian làm quan, cụ Sinh Sắc vào thẳng Sài Gòn, liên lạc với các sĩ phu yêu nước. Ở Huế, Người được cha giao nhiệm vụ canh giác và liên lạc với các sĩ phu, trong đó có Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp. Người theo chân cha để có điều kiện học tiếp song thời cuộc đã thôi thúc Người quyết tâm ra đi. Từ Bình Định, Người bắt đầu hành trình với ý muốn tìm được bến cảng có thể ra nước ngoài được.
Người tiếp tục đi qua Phú Yên, Tuy Hòa, Nha Trang, Cam Ranh, Phan Rang rồi dừng chân khá lâu tại Phan Thiết. Thời đó Phan Thiết là nơi Phan Châu Trinh lưu lại. Để truyền bá tư tưởng, mở mang dân trí, ông tìm cách gây quỹ để mở trường học. Công ty nước mắm Liên Thành được thành lập, liền tiếp đó là Trường Dục Thanh được Hội Liên Thành bảo trợ. Trường rất có tiếng nhờ tư tưởng, phương pháp tiến bộ, Nguyễn Tất Thành nghe được nên đã tìm đến trường, trở thành giáo viên ở đây một thời gian ngắn, được thầy trò và bà con vùng Phan Thiết vô cùng yêu mến và ấn tượng sâu sắc.
Ôn lại kỷ niệm về thầy Thành ở trường Dục Thanh, các cụ là học trò của thầy Thành kể rằng, thầy dạy học trò bằng tình thương, chưa bao giờ dùng roi vọt. Mỗi ngày, thầy đọc cho học trò chép và hát các bài ca yêu nước. Trong phong trào hớt tóc theo tinh thần Duy Tân, Người đã dạy cho học trò ca bài ca “Hớt tóc”. Phong trào tập thể dục trong trường cũng do Người khởi xướng. Người sống chan hòa với người dân nơi đây, theo các ngư dân ra biển. Có lần, Người còn giúp một cụ bà nhai trầu.
Cuối năm 1910, Nguyễn Tất Thành rời trường Dục Thanh vào Sài Gòn. Nhờ liên lạc với người quen, Người được đưa đến Thương quán Liên Thành ở Chợ Lớn cho đến ngày xuống tàu. Trong thời gian này, Người thường đi thăm cha làm nghề bốc thuốc ở cầu Ông Lãnh và đón Tết cùng ông. Người xin vào trường đào tạo công nhân hàng hải khoảng ba tháng, quan sát cuộc sống nơi đây. Đúc kết từ các vị tiền bối, dù kính phục nhưng Người không tán thành với cách làm của một người nào. Khi lên đường Người đã rủ thêm một người bạn, song sau đó anh không đủ can đảm để thực hiện lời hứa.
II. Hoạt động ở Pháp
Đầu năm 1911 Người vẫn tìm đến cảng Nhà Rồng, cảng Sài Gòn để tìm hiểu, làm quen và kiếm việc làm. Được tin từ người “bồi” Việt Nam rằng hãng tàu Chargeurs Réunis (còn gọi là hãng Năm Sao) đang tuyển thêm người, Người xuống xin việc. Ngày 2/6/1911, Người được thuyền trưởng tàu Đô đốc Latouche-Tréville nhận làm phụ bếp với cái tên Nguyễn Văn Ba. Ở đây Người phải làm việc vô cùng cực nhọc, phải đến chín giờ tối mới xong việc, song Người vẫn dành thời gian học hoặc viết đến khuya. Có lần khi đang mang vác đồ lên bếp Người bị sóng đánh suýt nữa chết đuối. Từ đó Người đã làm vô số công việc, đi gần đủ năm châu, bốn bể, để rồi tám năm sau bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi đến Hội nghị Versailles đã khiến cái tên Nguyễn Ái Quốc bùng nổ tại Pháp và vang tới tận Việt Nam.
Sài Gòn cũng là nơi để lại nhiều dấu ấn trong Người, đặc biệt là hình ảnh người dân nghèo bị áp bức. Người luôn nhắc đến Sài Gòn trong các bài viết trên báo Người cùng khổ, Đời sống công nhân, Nhân đạo xuất bản ở Pháp. Nơi đó đã để lại trong Người những rung động tuổi hai mươi. Người từng chia sẻ trước khi ra đi Người đã từng có một tình yêu đẹp song phải dừng lại để hoạt động cách mạng, rồi dần mất liên lạc.
Thời gian ở Pháp làm công cho một gia đình, Người quen một người Việt Nam tên Dân cũng là người làm thuê trong nhà. Chính Người đã khuyên ông học chữ quốc ngữ. Độ một tháng sau, Người lại lên tàu sang châu Phi, quen với một người nấu bếp trên tàu tên Bốn. Cho đến tận lúc ấy, ông Dân vẫn chưa biết anh Ba ngày đó là Hồ Chủ Tịch và vô cùng xúc động nhận ra khi được người phỏng vấn chỉ lên ảnh Người.
Trong ấn tượng của ông Bốn, Người là người tốt tính nhưng kỳ lạ. Cảnh người da đen bị ép nhảy xuống biển bị sóng cuốn đi mọi người coi là thường mà Người lại khóc. Không bao giờ Người uống rượu, hay cãi cọ với ai. Song kể từ khi người Pháp khám xét nhà của ông, Người và ông cũng không còn liên lạc. Sau đó Người lại sang Anh để học tiếng Anh, làm việc cùng người đồng hương tên Nam ở tiệm ăn Cáclơtông, London. Trước đó khi vừa đến Anh, Người làm công việc cào tuyết ở trường học và đốt lò rất cực nhọc khiến Người đổ bệnh, sau mới xin được việc ở đây. Khi dọn dẹp, Người không vứt hết thức ăn thừa đi. Khi được ông “vua bếp” hỏi, Người bảo những thứ ấy có thể cho người nghèo. Ông này cười bằng lòng và dạy cho Người làm bếp, không để Người rửa bát nữa.
Khi thế chiến nổ ra, Người lại lên đường sang Pháp. Đức bị đánh bại, chiến tranh kết thúc. Tại hội nghị hòa bình Versailles, ngoài các đoàn đại biểu từ nước thắng trận còn có cả nước thuộc địa, họ đến yêu cầu độc lập, tự do. Trong đó có cả Nguyễn Ái Quốc. Song đúng như Phan Chu Trinh nhận định, hoạt động như vậy quá trẻ con, không đưa đến kết quả gì. Hiện thực ấy khiến Nguyễn Ái Quốc hiểu ra những lời tuyên bố tự do của giới chính trị tư bản trong lúc chiến tranh chỉ là lời đường mật lừa bịp các dân tộc. Muốn giải phóng chỉ có thể dựa vào bản thân mình. Trước đó, Nguyễn Ái Quốc đến tận nhà của đại sứ Chính phủ Pháp gửi “bản trần tình” của toàn thể nhân dân Đông Dương. Bản yêu sách đòi trả tự do cho tù chính trị Đông Dương, bãi bỏ tòa án đặc biệt, tự do báo chí hội họp, học tập, xuất ngoại. Có lẽ lúc đó Người tin rằng đưa cho nhà ngoại giao thì công việc trôi chảy hơn. Câu chuyện này do người cháu của ông đại sứ kể lại.
Khi ở Pháp, hiểu biết về chính trị và tiếng Pháp của Người còn ít ỏi. Việc viết báo ban đầu rất khó khăn. Mỗi khi viết báo, Người gửi báo một bản và giữ lại một bản. Người đọc bài báo đã in, so sánh, sửa những chỗ viết sai. Dần dần, Người đã có thể viết cả một cột báo dài. Trong thời gian này, Người còn viết cả truyện ngắn, vở kịch Con rồng tre, sách Bản án chế độ thực dân Pháp và làm nghề rửa ảnh, phóng đại ảnh, sơn vẽ đồ cổ. Hoạt động chính trị bị Pháp để ý và quấy phá, song Người vẫn không nao núng. Buổi sáng Người làm việc kiếm tiền, buổi chiều lại tham gia hoạt động chính trị. Tại các buổi mít tinh, họp nói chuyện ở Paris, Người đã làm quen với nhiều người thuộc giới trí thức Pháp. Người tham gia “Hội Du lịch”, thăm nhiều nước lân cận để học hỏi xem những nước ấy tổ chức và cai trị như thế nào.
III. Đường đến Liên Xô
Trong bài viết cho tạp chí Các vấn đề Phương Đông (Liên Xô), Người cho biết buổi ban đầu ủng hộ Cách mạng Tháng Mười và Lenin chỉ vì cảm tính tự nhiên chứ chưa hề đọc qua sách của Lenin. Người tham gia Đảng Xã hội Pháp trước hết vì họ đồng tình với cuộc đấu tranh của dân tộc bị áp bức. Về sau được một đồng chí đưa cho đọc Luận cương của Lenin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, sau khi đọc lại nhiều lần mới có thể nắm được ý chính, Người mới cảm động phấn khởi tin theo Lenin, theo Quốc tế thứ ba.
“Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta.” Trong các cuộc họp chi bộ, Người không phân biệt được ai đúng ai sai, song Người hăng hái tranh luận lại lời lẽ chống Lenin. “Nếu đồng chí không lên án chủ nghĩa thực dân, nếu đồng chí không bênh vực các dân tộc thuộc địa thì đồng chí làm cái cách mạng gì?” Ở Đại hội Tua, Người tán thành việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp bởi đây là đảng duy nhất kiên quyết đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc khi đó đã có nhãn quang rất sắc sảo. Người nhận xét về thắng lợi của cách mạng trong tương lai, về tình hình xã hội Pháp bấy giờ, đặc biệt nhận định của người về vai trò của đồng chí Marcel Cachin chuẩn xác, rất giống đánh giá với Lenin. Ngoài các buổi tranh luận chính trị, Người còn thường bàn luận về văn học, nghệ thuật với bạn.
Qua các hoạt động thuộc Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc cho thấy Người hăng hái đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức trên thế giới chứ không riêng dân tộc Việt Nam. Nhờ sáng kiến táo bạo của Người, năm 1922, Hội cho ra đời tờ báo Người cùng khổ. Người hoạt động rất năng nổ và được mọi người trong Hội kính trọng. Ngoài việc hoạt động ở Đảng Cộng sản Pháp và Hội, Người còn đi dự các cuộc tranh luận về triết học, kinh tế, chính trị, xã hội, văn nghệ ở các câu lạc bộ hoặc đến Thư viện quốc gia đọc sách. Chủ nhật Người lại đi dạo và xem triển lãm hội họa và bảo tàng. Cũng nhờ đó, Người vô cùng thông thạo Paris và xã hội Pháp. Nhờ vào uy tín của mình, Đảng Cộng sản Pháp đã giới thiệu Người ra ứng cử Hạ viện, song dù đạt được nhiều phiếu bầu, Người không phải là người Pháp nên không thể vào Quốc hội Pháp.
Một hôm, Người bị quan thượng thư thuộc địa mời đến để răn đe, song trước những lời lẽ của ông ta, Người vẫn ung dung, đáp trả gãy gọn: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.”
Khi nghe về sự thành công của cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người tìm đường đến Liên Xô. Để vượt qua được bọn mật thám, biên giới Đức, Ba Lan, Người phải nhờ đến anh em công nhân, song vẫn còn rất nhiều khó khăn. Mấy tháng trôi qua mà kế hoạch vẫn chưa xong, bất ngờ Người nhận được tin mừng được đi dự Đại hội lần thứ năm của Quốc tế Cộng sản, với danh nghĩa là đại biểu dân tộc thuộc địa. Song khi đến Nga, chưa kịp tham gia đại hội thì tin chấn động dội đến: Lenin qua đời. Người quyết định ở lại Nga, theo học trường Đại học Phương Đông ở Matxcơva. Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đội hội Quốc tế Cộng sản họp tại điện Kremlin, đọc bản tham luận nổi tiếng phê phán chính sách Đảng Cộng Sản Pháp vẫn còn ý thức hệ chủ nghĩa thực dân.
IV. Hoạt động tại Trung Quốc
Không khí cách mạng ở Quảng Châu vô cùng sôi nổi do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, chủ trương liên Nga, liên cộng, ủng hộ công nông. Đây cũng là nơi tập trung nhiều người Việt cư trú chính trị. Từ lâu Nguyễn Ái Quốc đã được nghe về vụ mưu sát toàn quyền Đông Dương của Phạm Hồng Thái, ông tìm cách liên lạc với các đồng chí đã chiến đấu cùng Phạm Hồng Thái. Người gặp được Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong cùng thuộc tổ chức bí mật “Tâm tâm xã” chú trọng đến việc khủng bố cá nhân. Vụ mưu sát không thành, một trong những chiến sĩ ưu tú nhất đã hy sinh, khiến cho những thanh niên này như đứng giữa ngã ba đường. Điều này cũng phản ánh tình trạng đấu tranh của dân tộc ta vào thời điểm ấy, giữa muôn vàn các tư tưởng tiến bộ từ mọi nơi đang du nhập vào Việt Nam, dân ta vẫn chưa tìm ra một phương pháp cách mạng đúng đắn. Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện chính trị cho thanh niên cách mạng, được coi là một phần đặc biệt của Học Viện Quân sự Hoàng Phố. Người khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và chỉ giai cấp vô sản về bản chất mới là người chiến sĩ triệt để nhất. Trong giai đoạn còn non trẻ chưa thể lập đảng cộng sản ở các nước còn lạc hậu, Người chủ trương thành lập tổ chức trung gian trong giai đoạn chuyển tiếp nhằm tuyên truyền nguyên lý cách mạng, đó là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Song trên báo chí công khai để tránh mật thám Pháp, hội được gọi là Đảng thanh niên Việt Nam, cơ quan ngôn luận là báo Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc chủ bút. Trong thời gian ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc còn tổ chức thêm Hội nông dân gồm Việt kiều ở Xiêm, nhóm phụ nữ cách mạng. Người cố gắng thiết lập quan hệ với các nhà cách mạng ở các nước khác, tổ chức Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông. Liêu Trọng Khải, thân hữu của Người, được bầu làm Chủ tịch Hội song không lâu sau ông bị bắn bị thương nặng và qua đời.
Ngoài ra Người cũng giữ mối liên hệ với Liên Xô, quan hệ với Borodin - một người Bonsevich uy tín, giàu kinh nghiệm - đang ở Quảng Châu. Ông giúp Nguyễn Ái Quốc chọn những thanh niên xuất sắc nhất trong Hội để gửi sang học tại Trường Đại học cộng sản Phương Đông. Năm 1927, cuốn Đường cách mệnh được xuất bản, ghi lại những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc, vạch ra con đường cụ thể để giải phóng dân tộc, trình bày rõ bản chất của học thuyết Lenin.
Tháng 4/1927, đảo chính cách mạng và loạt vụ bắt bớ, xử bắn khiến hoạt động của Nguyễn Ái Quốc và Hội rơi vào khó khăn. Tháng 5, Người rời Quảng Châu đến Hồng Kông sau khi được tin chính phủ đã có lệnh bắt Người, song phải chuyển tàu đến Thượng Hải rồi về Liên Xô, Paris.
V. Về lại Tổ quốc
Ít lâu sau Người đi Thụy Sĩ, Ý dần tìm đường trở về Tổ quốc. Ở Xiêm, Người xuất hiện với cái tên “ông Chín”, tuyên truyền, tổ chức Kiều bào trở thành cơ sở nối liền phong trào cách mạng trong và ngoài nước, giáo dục Kiều bào tôn trọng tập quán, pháp luật của người Xiêm làm cho quần chúng Xiêm có cảm tình với cách mạng Việt Nam, xây dựng trường học. Cả Kiều bào và người Xiêm ở gần đó đều yêu mến Người, công việc làm ăn cũng đem hỏi ý kiến Người. Những nơi người đến vận động, nạn cờ bạc, cãi nhau bớt hẳn, trẻ em được học hành, bớt ngỗ nghịch, người lớn đọc bài, bàn công việc. Có đoạn bị mật thám Pháp nghi ngờ cho đi tìm, Người phải lánh vào chùa, tạm cắt tóc đi tu để tiếp tục hoạt động. Người sống nề nếp, kỷ luật, chịu khó học cả tiếng Xiêm, rất khắt khe với bản thân. Hội ái hữu Việt Nam lập ra để đoàn kết giúp đỡ Kiều bào, cơ quan ngôn luận là báo Thân ái.
Ở Xiêm được một năm, nghe tin nội bộ chia rẽ thành ba nhóm, Người lại nóng lòng đi Trung Quốc. Dưới sự dẫn dắt của Người, cả ba phái đồng ý thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hương Cảng, Trung Quốc. Sau khi về Xiêm thông báo tin trên, Người lại đi Hồng Kông, Trung Quốc chuẩn bị cho hội nghị thành lập Đảng.
Người viết thư đề nghị các tổ chức cộng sản trong nước cử một đại diện đến Hồng Kông tham dự hội nghị hợp nhất. Buổi họp diễn ra vào dịp Tết, vì việc ra vào đất nước và gặp mặt dịp này sẽ không gây nghi ngờ lớn. Bảy đại biểu gồm An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Đảng, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Nguyễn Ái Quốc đại diện cho Quốc tế cộng sản. Sự có mặt của Người đã tạo không khí tin cậy lẫn nhau giữa những người đang bất đồng ý kiến. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời được bầu ra, hội nghị vạch ra đường lối chiến lược và sách lược cho cách mạng. Sự ra đời của Đảng là một sự khẳng định đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản, đấu tranh quần chúng, bởi lúc này các tư tưởng khác đã không còn đủ sức để lãnh đạo cách mạng. Sau hội nghị hợp nhất, Người trở lại Xiêm, sau đó nhận nhiệm vụ của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đến Mã Lai, về sau lại trở về Hồng Kông dưới giấy tờ mang tên một viên chức Trung Quốc là Tống Văn Sơ.
VI. Bị quân Anh bắt giam
Nguyễn Ái Quốc từ lâu đã được liệt vào danh sách những người mà “cảnh sát quốc tế” lùng bắt cho kì được. Sáng ngày 6/6/1931, Người cùng Lý Tam - một cô gái 17 tuổi bị viên sĩ quan Anh cùng cảnh sát Trung Quốc ập vào nhà khám xét rồi giải đi về sở cảnh sát Hồng Kông. Có nhiều giả thuyết được đưa ra, song có lẽ đúng hơn cả, sự việc trên xảy ra do tên phản bội Lâm Đức Thụ. Một mặt, hắn vờ tham gia tích cực hoạt động cách mạng ở Quảng Châu, mặt khác, Thụ mở hiệu ảnh, bên ngoài nói là để làm tài chính cho Đảng, song thực chất hắn bí mật chụp ảnh các chiến sĩ yêu nước theo lệnh của sở mật thám Pháp.
Song kế hoạch đưa Nguyễn Ái Quốc về Đông Dương trao cho Pháp đã bị luật sư Anh Francis Loseby có tiếng lúc bấy giờ làm rối tung. Ông nhận yêu cầu từ Quốc tế Cộng sản bào chữa và cứu thoát Nguyễn Ái Quốc. Vụ án khi ấy mới được đưa ra xét xử công khai. Cuối cùng, tòa xóa bỏ mọi điều buộc tội Người, tuy nhiên, Người vẫn bị trục xuất khỏi thuộc địa Anh về Đông Dương. Quốc tế Cộng sản thông qua Quốc tế cứu tế đỏ của Pháp tham gia trực tiếp vào vụ án. Loseby gửi đơn chống án đến Hội đồng cơ mật nhà vua ở London. Trong thời gian chờ đợi ở nhà tù trung ương Hồng Kông, vợ chồng ông Loseby thường đến thăm Người. Sau đó, bạn bà Loseby là nữ văn hào Stella Benson biết được chuyện của Người, liền bắt chồng là Phó Thống đốc đến thăm.
Người đã gây được ấn tượng tốt đẹp với họ, sự kiện này một phần giúp Người thuận lợi trong vụ án. Tháng 7/1932, gần một năm sau, đơn kháng cáo đã được nhà vua chấp nhận, Người được trả tự do. Người quyết rời Hồng Kông càng sớm và càng bí mật càng tốt. Song khi đến Singapore Người bị cảnh sát địa phương bắt giữ, rồi bị giải về giam giữ ở Hồng Kông. Được sự giúp đỡ của Loseby, Người được trả tự do lần thứ hai. Ông bà Loseby lại suy nghĩ cách giúp Người bí mật rời khỏi Hồng Kông. Được cả sự giúp đỡ của Phó Thống đốc Southon, hai người đã đưa được Người đến Hạ Môn - nơi cả luật pháp Anh lẫn Pháp đều không có hiệu lực, và đến ở ký túc xá của Hội Thanh niên cách mạng Thiên Chúa giáo Trung Hoa.
VII. Về nước lãnh đạo kháng chiến
Người vào trường Lenin dành cho các lãnh tụ nước ngoài. Học xong Người chuyển sang Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, đồng thời làm việc ở Quốc tế Cộng sản. Mùa thu 1938, Người về nước. Mùa đông Người quay lại Diên An, Trung Quốc, nơi được mệnh danh là thánh địa cách mạng, tham gia vào hoạt động của cách mạng Trung Quốc, vừa tìm cách liên lạc về nước. Những tin tức về tình hình chiến tranh ảnh hưởng đến Việt Nam lúc ấy khiến Người nóng ruột. Đến Côn Minh thì Người gặp Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoa. Bàn định kế hoạch về nước xong, nhóm người cùng nhau trở lại Quảng Tây. Từ đây, Người cùng các đồng chí đi qua nhiều vùng ở Trung Quốc, bắt liên lạc với nhau, chuẩn bị kế hoạch về nước. Người mở lớp huấn luyện ở Tĩnh Tây rồi cho các đồng chí về nước, quê ở đâu hoạt động ở đó.
Cuối cùng sau 30 năm, Người cũng đã đặt chân đến Pác Bó, Tổ quốc Việt Nam. Nơi đây trở thành Đại bản doanh của cách mạng. Ở chiến khu, Người vẫn mở các lớp huấn luyện cho cán bộ, viết sách tuyên truyền. Qua thời gian phát triển, chi bộ đầu tiên ở Pác Bó được thành lập, phong trào cách mạng lan dần sang vùng xung quanh, khí thế cách mạng quần chúng sục sôi.
Sau đó, cơ quan rời Pác Bó về Cao Bằng do quân địch đã đánh hơi thấy hoạt động và chuẩn bị đánh phá căn cứ. Người vạch ra kế hoạch chống khủng bố. Cán bộ băn khoăn súng đạn mình ít làm sao đánh Pháp, làm sao khiến nhân dân tin tưởng được. Người liền ôn tồn đáp, chẳng việc gì lo thiếu súng, muốn đánh được giặc thì lấy súng của giặc, dùng binh lính của giặc mà đánh, có dân thì rồi có tất cả, mà điều quan trọng hơn cả là phải có quyết tâm. Người luôn nhắc nhở cán bộ phải hết sức giữ bí mật, nhớ kỹ khẩu hiệu: không có, không biết, không thấy khi gặp người lạ hỏi. Có lần Người từng quở các đồng chí không nghe lời Người dặn không được mang theo tài liệu họp bên người. Người chỉ dạy các đồng chí đi tuyên truyền rất cặn kẽ.
Trong cuộc đời hoạt động của Người, lần bị quân Tưởng bắt là lần Người khổ nhất. Chúng đã giải Người đi trong hơn 80 ngày, giam giữ 14 tháng ở gần 30 nhà tù khác nhau. Trong thời gian này Người đã làm tập thơ Nhật ký trong tù. Trong tù, Người gây cảm tình với vài người lính gác, được họ giúp mỗi ngày quẳng vào một tờ Liễu Châu nhật báo. Những tin chiến sự thắng lợi của Liên Xô trở thành món ăn tinh thần của Người. Tháng 9/1944, thoát quản chế ở Liễu Châu, Người trở về Pác Bó.
Người sang xóm Tân Lập (Tân Trào) trú tạm một gia đình cơ sở ít hôm đã được người dân bàn tán xôn xao muốn đến gặp để nghe Người kể chuyện. Từ khi Người và Trung ương về, Tân Trào dần trở thành thủ đô lâm thời, trái tim của cách mạng. Tại đây, Người chăm lo đủ mọi mặt công tác cách mạng, đặc biệt là việc đào tạo cán bộ. Dù trải qua những ngày thiếu thốn gian khổ, tinh thần và nghị lực Người vẫn thật phi thường, Người luôn giữ vững trí tuệ sáng suốt, minh mẫn. Sức khỏe Người suy sụp khiến cho cả thủ đô cách mạng lo lắng âu sầu. May mắn thay cơn bệnh của Người cũng lui dần. Tuy đau yếu song trong Hội nghị Trung ương, Người nhận định về chiến sự thế giới rất chuẩn xác, phân tích tình hình rõ ràng, khoa học.
16/8/1945, Quốc dân đại hội khai mạc ở Tân Trào, Người được bầu vào đoàn Chủ tịch. Đây là lần đầu Người tiếp xúc với một đại hội đại biểu toàn dân và được giới thiệu là cụ Hồ Chí Minh. Đại hội quyết định Lệnh tưởng khởi nghĩa, bầu ra Ủy ban giải phóng dân tộc mà Người làm Chủ tịch.
Trong những ngày ốm nặng đến nỗi có khi phải dùng cáng di chuyển, Người vẫn khát vọng cháy bỏng và vững tin vào cách mạng. “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập.” Theo Người, theo Đảng, tin khởi nghĩa thắng lợi khắp các địa phương dồn dập bay về. Ủy ban dân tộc giải phóng do Người làm chủ tịch trở thành Chính phủ lâm thời, Người nhận sứ mệnh cao cả mà khó khăn.
Lần đầu Người đến Hà Nội, chỉ ít ngày nữa nơi đây sẽ trở thành thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên tại Đông Nam Á. Những người đến đón Người thấy nét xúc động lộ ra trên gương mặt của người cha già. Hà Nội đã giải phóng nhưng chính quyền cách mạng Trung ương vẫn chưa thành lập, tình hình rất khẩn trương, cần thực hiện trước khi đại quân của Tưởng kéo vào. Trong căn buồng nhỏ thiếu ánh sáng của ngôi nhà nằm sâu giữa ba mươi sáu phố phường cổ kính, Người đã thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Như lời Người nói lại sau này, đó là những giờ phút sảng khoái nhất đời Người.
Ngày 2/9/1945, quảng trường Ba Đình trong giờ phút lịch sử, Người ra mắt trước một triệu đồng bào. Người vẫn xuất hiện với bộ quần áo vải giản dị, trên ngực không một tấm huân chương. Đọc bản Tuyên ngôn độc lập đến nửa chừng, Người dừng lại và bỗng dưng hỏi: “Tôi nói, đồng bào có nghe rõ không?” Một triệu con người cùng đáp “Có!”, tiếng dậy vang như sấm.
Ngày 3/9, trong phiên họp đầu tiên, Người trình bày các vấn đề chồng chất của chế độ thực dân để lại suốt 80 năm. Ít ngày sau, Người viết một bức thư gửi đồng bào cả nước. Tiếp đó, việc chống nạn thất học được triển khai. Người dành thời gian đi thăm các nơi xa gần. Người thường làm việc đến rất khuya, hàng ngày phải tiếp rất nhiều khách, trong đó có cả tướng Tưởng, nhà báo nước ngoài, mật thám giả danh.