I. Sách lược hòa hoãn
Vừa giành độc lập, việc trang bị vũ khí rất quan trọng, song chính quyền còn non yếu, công nghiệp chưa vững mạnh nên các kỹ sư ở Sở mỏ mãi từ chối. Người nghe vậy thì không vừa lòng, Người bảo họ không làm thì tự mình làm lấy. Người cũng đã ký sắc lệnh thành lập Phòng quân giới trực thuộc Cục Quân nhu, gồm tám người. Người chủ trương vừa mua, tước vũ khí của Tàu, Nhật vừa gấp rút mở nhà máy chế tạo vũ khí. Để có tiền sắm vũ khí, Người đã mở “tuần lễ vàng” trong cả nước, nhiều gia đình mang tư trang quyên góp cho chính phủ. Nhờ đó mà ta đã mua được nhiều vũ khí tốt. Dù khó khăn nhưng Người luôn quan tâm, động viên các đồng chí hãy cứ làm đi, đoàn thể sẽ giúp. Lúc này Người cũng gầy hơn trước, tóc và râu đã thêm bạc.
Sau khi dự hội nghị Fontainebleau, Người chỉ thị phải gấp rút chuyển hết máy móc, nguyên liệu ra khỏi Hà Nội, mang lên rừng núi lập căn cứ chống lại quân Pháp đang chuẩn bị quay lại xâm lược. Cùng lúc, Người hết lòng lo việc chống đói cho dân. Người căn dặn không được để dân đói, dân đói chính phủ có lỗi, phải chăm sóc cụ già, cháu nhỏ, nhất là nơi ngập lụt nặng. Dù mệt xong khi dân yêu cầu được gặp, Người vẫn sẵn lòng ra đón dân.
Lúc bấy giờ Người còn đảm nhận việc ngoại giao. Người luôn chú trọng đến cái ấn tượng ban đầu. Nhiều tên ở phe địch sau phút ban đầu tiếp xúc với Người đã tỏ ra kính nể. Người sắc sảo nhận ra những bất đồng giữa quân Tưởng và Việt Nam Quốc dân Đảng, lợi dụng điều đó để giải quyết phần nào va chạm với quân Tưởng. Với một sự nhạy cảm lạ thường, Người dường như thấu hiểu mọi trạng thái, tư tưởng, tình cảm của kẻ thù, luôn có những đối sách cụ thể với từng loại địch, với từng tên.
Trong cuộc tổng tuyển cử bầu chính phủ mới, Người chủ trương nhân nhượng, chừa cho quân Tưởng một số ghế trong chính phủ để tránh việc chúng chống phá tuyển cử. Tổng tuyển cử trở thành ngày hội của mọi người, lá phiếu trên tay là lá phiếu tự do sau những năm dài sống cuộc đời nô lệ tủi nhục. Trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ứng cử tại Hà Nội và thu được 98,4% số phiếu. Xuân độc lập đầu tiên, Người đi lại thăm nhiều gia đình khiến ai cũng xúc động. Nhiều đêm 30 sau này cũng cũng vậy, Người vẫn đi chúc Tết đồng bào.
Tình hình ở Bắc Bộ Phủ ngày càng xấu đi, Người phải thay đổi chỗ nghỉ, quy luật đi lại. Hoạt động kháng chiến cũng càng lúc được đẩy mạnh. Tại Quốc dân đại biểu Đại hội, Người vẫn giữ phong thái quen thuộc, tạo không khí đầm ấm thân mật như ở gia đình. Người giữ chức Chủ tịch Quốc hội. Kết thúc phiên họp, Đại hội đã thông qua việc lập Chính phủ mới, lập Ủy ban kháng chiến, Đoàn cố vấn chính phủ, quyết định quyền hạn của Ủy ban Thường trực Quốc hội, và thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Phút chia tay các đại biểu trở về chuẩn bị kháng chiến, Người phát biểu vắn tắt, muốn truyền cho mọi người tinh thần đoàn kết, niềm lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi.
Với nhãn quang sâu sắc của mình, Người đã nhìn ra được giữa Tưởng và Pháp đã xảy ra mâu thuẫn, và tranh thủ thời cơ ký kết Hiệp định sơ bộ. Pháp không chịu công nhận nước ta là một quốc gia độc lập, mà chỉ chấp nhận là nước tự trị, muốn chia rẽ ba miền. Sau khoảng thời gian căng thẳng, Người đưa ra cách giải quyết: Nước Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do. Phái bộ Pháp ưng thuận, ta tạm thời hòa hoãn với Pháp. Ta nhận mười lăm ngàn quân Pháp vào miền Bắc để xua mười tám vạn quân Tưởng đã tuyên bố ở lại vô thời hạn. Cách mạng chuyển sang một chặng đường mới. Tuy nhiên tin này đến với người dân khá đột ngột, bởi nhân dân cả nước vốn bất mãn với Pháp đang chờ đợi từng ngày để bùng lên kháng chiến. Thấy vậy, Người tổ chức giải thích rõ chủ trương để đồng bào hiểu. Người khẳng định “Tôi, Hồ Chí Minh, suốt cuộc đời cùng đồng bào chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc. Tôi thà chết chứ không bao giờ bán nước.”
Cuối tháng 3, d'Argenlieu muốn gặp Người tại vịnh Hạ Long trên chiếc tuần dương hạm của Pháp. Nội dung chủ yếu bàn về thời gian, địa điểm mở cuộc đàm phán. Hai bên bất đồng ý kiến, song cuối cùng Pháp nhượng bộ ý Người sẽ họp ở Paris, đồng thời chúng yêu cầu mở cuộc họp trù bị ở Đà Lạt. D'Argenlieu tìm mọi cách trì hoãn hội nghị song Người kiên quyết phải thực hiện theo thỏa thuận. Chọn Paris làm nơi họp là bởi Đảng Cộng sản Pháp hay đã có uy tín, cuộc đấu tranh cho dân chủ giành được nhiều thắng lợi, Người hiểu cuộc đàm phán diễn ra ở Paris sẽ giành được đồng tình của dư luận tiến bộ Pháp. Dù có thể không đạt kết quả mong muốn cũng có thể khiến thêm nhiều người hiểu về cách mạng Việt Nam.
Với Hiệp định Sơ bộ 6/3, ta có thêm thời gian để chuẩn bị. Người đề ra khẩu hiệu “Tăng gia sản xuất”, “Chống nạn mù chữ”, không khí đất nước vô cùng khẩn trương. Dù ở Hà Nội song Người luôn quan tâm tới tình hình nhân dân miền Nam. Người cha già dân tộc rơi nước mắt khi nghe đồng chí báo cáo về miền Nam thân thương. Công tác chuẩn bị được ráo riết thực hiện. Bên cạnh phát triển mặt trận Việt Minh, người cho mở mặt trận Liên Việt do cụ Huỳnh Thúc Kháng làm chủ tịch, tất cả mọi người đều có thể tham gia.
Mùa hè 1946, Người đến Pháp dự cuộc đàm phán, được Trung ương Đảng Cộng sản Pháp tiếp đón nồng nhiệt. Người để lại ấn tượng là một người lãnh đạo giản dị, uyên Người. Việt kiều ở Paris cũng vô cùng vui mừng được gặp Người. Người khuyên họ: “Sau này kiều bào ta có ai về nước, tôi mong kiều bào mang về một món quà. Không phải mang quà bánh tiền bạc mà mang về một cái nghề giúp cho dân, cho nước. Có nghề trong tay là điều rất quý.”
Trong hội nghị Fontainebleau, phái đoàn ta theo tinh thần của Người thể hiện rõ lập trường muốn dàn xếp quan hệ với Pháp bằng thái độ hữu ái giữa hai dân tộc, quyết tâm Việt Nam phải được quyền độc lập. Hội nghị rơi vào bế tắc do phía Pháp cho rằng vấn đề Nam Bộ thuộc chủ quyền nước Pháp. Song vừa kết hợp thái độ rắn rỏi và mềm dẻo, Người đã đi đến một bản tạm ước với Pháp. Trên đường về, đứng trước cảnh di tích chiến hạm Pháp ngổn ngang, Người như nhìn thấy cái tương lai chắc chắn của dân tộc: “Ngày thắng lợi của ta không còn xa.” Khi về đến Cam Ranh, quân Pháp ra tiếp đón Người. Trong bữa tiệc trên chiến hạm, Người ngồi giữa, một bên là đô đốc hải quân Pháp ở Thái Bình Dương, một bên là thống soái lục quân Pháp ở Viễn Đông. D'Argenlieu mỉa mai bóng gió rằng Chủ tịch thật đang bị đóng khung giữa lục và hải quân đó. Người thản nhiên cười và đáp trả bằng tiếng Pháp: “Nhưng, đô đốc biết đó, chính bức họa mới đem lại giá trị cho chiếc khung.”
II. Kháng chiến bùng toàn quốc
Bất chấp cam kết với ta, quân Pháp liên tục lấn tới âm mưu cướp nước ta. Trung ương và Người quyết định không lùi bước nữa. Ta tích cực chuẩn bị kháng chiến. Những ngày sắp kháng chiến, Người vẫn bình tĩnh như thường, vẫn nêu cao ý chí hòa bình của dân tộc Việt Nam, vẫn quan tâm hỏi han các cháu nhi đồng đã tản cư hết chưa. Trước đó, Người biết Pháp rồi sẽ tấn công ta nên đã lệnh cho tăng cường vũ khí, bồi dưỡng cán bộ. Kế hoạch xây dựng kinh tế được đặt ra. Song Pháp liên tục gửi viện binh tấn công ta, tình hình ngày càng nghiêm trọng. Hy vọng dàn xếp hòa bình tiêu tan, Người cùng nhân dân quyết tâm kháng chiến đến cùng.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, cơ quan ta về đóng ở vùng núi Hà Đông rồi lại chuyển về Tuyên - Thái đầu 1947. Đời sống của Người vì di chuyển nhiều nên cũng gặp khó khăn. Đồ dùng riêng của Người giản dị, gồm một cái chăn, cái màn, vài bộ quần áo và đôi dép cao su, ít sách và tài liệu. Người vẫn siêng tập võ, đánh bóng và bơi lội. Tuy vậy, Người vẫn rất chú trọng việc phổ biến tình hình thời sự cho cán bộ. Người đã lấy tám chữ của khẩu hiệu chiến lược đặt tên cho những người giúp việc của Người: Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi. Người vô cùng quan tâm đến các chiến sĩ. Nhiều người từ Hà Nội lên Việt Bắc chưa quen khí hậu, Người tặng cho cái áo ấm duy nhất của Người, rồi cả hộp dầu cao. Người dạy cán bộ phải chú trọng đến việc nâng cao đời sống cho công nhân, kháng chiến còn dài, phải tăng gia, tiết kiệm. Phải chú ý an toàn, đào hầm tránh máy bay.
Pháp quyết định tấn công Việt Bắc - đầu não kháng chiến của ta. Người cho lệnh dời cơ quan. Trên đường đi, để tránh cán bộ mệt, Người thường kể chuyện cho mọi người nghe. Trong thời gian đầu, Người liên tục di chuyển bởi Pháp phối hợp càn quét. Cuối cùng thì tin thắng lợi cũng về, quân Pháp thất bại ở chiến dịch Việt Bắc.
Người thường đi thăm nhân dân, công nhân, các cháu thiếu nhi, các chiến sĩ. Ở đâu có chỗ chưa phải, Người ôn tồn chỉ bảo, từ việc thiết kế hầm khoa học, cho đến việc trồng ngô, chữa bệnh cho các cháu, vô cùng chu đáo. Người quan tâm đến chuyện tuyên truyền vận động đồng bào vừa tăng gia sản xuất vừa phải biết tránh giặc, chống giặc. Người dạy cán bộ phải theo sát nhân dân, phải xuống sát các xã, thôn nắm tình hình cụ thể thì mới chỉ đạo được. Có lần thấy Người sĩ Khiêm đi xa mà phải mang vác nặng, Người bèn đưa tấm thiếp có đóng mộc của Người, cho phép Người sĩ Khiêm nếu đi xa được mượn một mình đi đường và mang ba lô giùm. Người lo lắng cho nhân dân như tấm lòng của một người cha với con mình. Tất cả những yêu thương ấy vẫn còn hằn sâu trong tâm trí của những con người đã tiếp xúc với Người.
III. Thắng lợi
Sau khi đã phân tích các mặt, ta quyết định mở chiến dịch Cao - Bắc - Lạng. Người đi sát mặt trận để giúp đỡ Ban Chỉ huy chiến dịch và động viên bộ đội chiến đấu. Đến Quảng Uyên được vài ngày, Người đi thăm các đơn vị rồi về Nà Lan gần Đông Khê. Sáng 16/9/1950, tiếng súng mở đầu chiến dịch đã nổ, Người cùng hai chiến sĩ lên một ngọn núi quan sát trận địa. Tuy gặp khó khăn ban đầu xong trận đầu tiên của chiến dịch đã kết thúc thắng lợi. Như thường lệ, Người vẫn đưa ra những nhận định rất sắc sảo về chiến dịch. Diễn biến của địch đều theo đúng như dự đoán của Người. Tuy giành nhiều thắng lợi liên tiếp xong bộ đội ta cũng mệt nên xin nghỉ một ngày lấy sức rồi đánh sau. Biết tin Người liền viết thư cho chiến sĩ trong chiến dịch khiên quân ta phấn khởi trở lại, nô nức tiến công địch.
Địch tan rã, Người bàn kỹ với Ban chỉ huy về chủ trương phát triển chiến thắng rồi đi thăm thương binh. Dù cố nén nước mắt để thăm hỏi nhưng nhiều lúc Người vẫn không sao cầm được. Sau khi thăm thị trấn Thất Khê tìm hiểu tình hình nhân dân mới được giải phóng, Người đi thăm trại tù binh. Thấy một người tù là Người sĩ bị lạnh, Người trao áo cho hắn, hắn càng khóc to hơn.
Chuẩn bị cho chiến dịch biên giới, Người ra tận mặt trận gặp cán bộ và bộ đội dẫu đã tuổi cao sức yếu. Người căn dặn Bộ chỉ huy cặn kẽ về phương án tác chiến, mọi mặt công tác để đảm bảo chiến dịch thắng lợi. Sợ Người liên tục đi đường dài vất vả, đồng chí Giáp và Ninh đề nghị Người nghỉ thêm một ngày hoặc dùng xe đi, nhưng Người từ chối vì muốn đi sớm để tranh thủ thăm bộ đội, dân công dọc đường ra trận. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương và Người, chiến dịch biên giới đã giành được thắng lợi vang dội, mở ra cục diện mới cho cuộc kháng chiến chống Pháp.
Sau cú đấm Điện Biên Phủ, không khí vui mừng lan khắp toàn đơn vị, song mọi người cũng băn khoăn liệu Pháp có phản bội không, hoặc bọn Mỹ có xúi giục gây lại chiến tranh? Biết được điều ấy, Người đến trò chuyện cùng đơn vị. Pháp đã thua, sớm muộn cũng sẽ rút, kẻ thù chính của ta bây giờ là đế quốc Mỹ. Người khẳng định nếu quân dân ta tiếp tục phát huy truyền thống đấu tranh anh dũng, có Đảng lãnh đạo thì ta không phải sợ. Người không quên dặn dò cán bộ, hòa bình lặp phải cùng nhân dân thực hiện cải cách ruộng đất, chống đói, chống lụt, ngoài quân sự còn phải học văn hóa. Thế rồi Người bắt nhịp cho bộ đội hát theo, không khí quanh Người luôn thân mật như thế.