Chương VIILãnh đạo sự nghiệp xây dựng Miền Bắc, đấu tranh giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ Quốc
(1954-1969)

I- LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC KHÔI PHỤC VÀ CẢI TẠO MIỀN BẮC, ĐẤU TRANH ĐÒI THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ VÀ CHUYỂN HƯỚNG CUỘC ĐẤU TRANH YÊU NƯỚC CỦA ĐỒNG BÀO MIỀN NAM (1954-1960)

Miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phóng, Mỹ đến miền Nam và hất cẳng Pháp, chúng nuôi ý định biến Việt Nam trở thành nước thuộc địa kiểu mới. Trước tình hình này, Hồ Chủ tịch cùng Trung ương Đảng nhận rõ chính Mỹ và bè lũ tay sai là chính quyền Ngô Đình Diệm là kẻ thù nguy hiểm nhất của ta. Người cho rằng Nam Bắc cũng đều là người một nhà, là anh em ruột thịt không thể chia cắt được. Vì vậy hai nhiệm vụ cấp thiết lúc bấy giờ mà Hồ Chủ tịch yêu cầu phải nhanh chóng tiến hành đồng thời: đưa miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất đất nước.

Song hành với nhiệm vụ đấu tranh vì nền độc lập, củng cố lực lượng vũ trang. Bên cạnh đó, Người còn tích cực động viên nhân dân tập trung tăng gia sản xuất, thực hiện lối sống tiết kiệm, phát triển văn hóa, giáo dục, góp phần ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống. Ngoài ra Người vẫn quan tâm đến việc trau dồi, bồi dưỡng về lý luận cho các cán bộ, đảng viên, giúp nâng cao nhận thức và phát triển trình độ chính trị.

Vì có dã tâm xâm lược đất nước ta, Mỹ đã gây ra nhiều cuộc thảm sát đẫm máu ở miền Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân Việt Nam lúc này là kiên quyết thi hành Hiệp định Gieneve, thực hiện thống nhất nước nhà. Người tổ chức nhiều cuộc họp, nhiều Hội nghị mở rộng để bàn về những nhiệm vụ trước mắt mà ta cần làm, với mục tiêu và phương hướng giúp cho nhân dân miền Nam đứng lên đấu tranh đánh đổ đế quốc, thành lập lại chính quyền của nhân dân.

II- LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC VÀ ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG MIỀN NAM (1961-1964)

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng nông nghiệp và công nghiệp phải được đẩy mạnh để có nguồn lương thực dồi dào và đời sống khá. Vậy nên chủ trương thực hiện liên minh công nông tại miền Bắc để xây dựng đời sống no ấm cho nhân dân. Có như vậy, miền Bắc mới trở thành hậu phương vững chắc cho sự nghiệp cứu nước.

Từ tháng 1-1959 đến tháng 9-1960, nhân dân miền Nam đã quyết liệt đẩy mạnh đấu tranh chính trị với cuộc chiến tranh vũ trang, tấn công trên cả hai mặt trận chính trị và quân sự, đã giành được thắng lợi to lớn. Tháng 3-1961, đội Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập trên cơ sở hợp nhất các lực lượng vũ trang tại miền Nam.

Dưới ánh sáng của Đảng soi rọi, cùng những lời động viên của Hồ Chủ tịch cùng sự cổ vũ, chi viện nhiệt tình của miền Bắc, nhân dân miền Nam từng bước giành chiến thắng trên cả 3 phương diện: chính trị, vũ trang và binh vận. Nhằm đập tan âm mưu leo thang bắn phá miền Bắc của Mỹ, Người khẳng định miền Nam chính là thành đồng của Tổ quốc, đồng thời miền Bắc phải tăng gia hơn nữa để đền đáp cho miền Nam ruột thịt. Những thắng lợi vẻ vang mà nhân dân ta có được đều bắt nguồn từ đường lối đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo sáng suốt, nhạy bén của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

III- LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUYẾT TÂM CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1965-1968)

Tháng 8-1964, Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, đồng thời đưa quân viễn chinh vào miền Nam. Chúng tăng cường ném bom phá hoại miền Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án kịch liệt hành động tàn bạo của đế quốc Mỹ, và khẳng định Việt Nam nhất định chiến thắng.

Chiến tranh Mỹ tại Việt Nam ngày càng diễn ra ác liệt. Nhân dân miền Bắc ở một số địa phương phải đưa con em về trú ẩn tại các ATK. Sau 4 năm chiến đấu, quân và dân miền Bắc đã giành được thắng lợi vẻ vang, bắn hạ được hơn 3000 máy bay, hàng trăm tàu chiến lớn nhỏ. Bên cạnh đó, rất nhiều các phong trào thi đua được đề ra nhằm góp sức chi viện cho miền Nam, thu được nhiều thắng lợi trên các mặt trận văn hóa, giáo dục, xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân miền Nam đã làm thất bại cuộc phản công mùa khô lần thứ nhất (1965-1966) và phá sản hoàn toàn kế hoạch tìm diệt và bình định của Mỹ trong mùa khô 1966 -1967.

Sang năm 1968, dù tuổi cao, sức yếu nhưng Hồ Chủ tịch vẫn luôn gửi thư, điện tín kêu gọi, động viên quân và dân trong cả nước, dồn hết lực để đấu tranh thắng giặc, để thống nhất đất nước, non sông thu về một mối.

IV- TĂNG CƯỜNG VÀ MỞ RỘNG ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ, TRANH THỦ SỰỦNG HỘ VÀ GIÚP ĐỠ CỦA NHÂN DÂN THẾ GIỚI ĐỐI VỚI CUỘC ĐẤU TRANH CHÍNH NGHĨA CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc mở rộng các hoạt động đối ngoại với nước ngoài. Ngoại giao với nước ngoài là việc cần làm, để tăng cường mở rộng, và tranh thủ sự ủng hộ và viện trợ của bạn bè quốc tế. Người đi thăm nhiều quốc gia trên thế giới, đón tiếp nhiều đại biểu quốc tế đến Việt Nam. Đây chính là một cách làm việc vô cùng khéo léo để xây dựng mối quan hệ ngoại giao quốc tế để hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ.

V- NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI VÀ BẢN DI CHÚC LỊCH SỬ

Bộ não thiên tài Hồ Chí Minh không ngừng đào sâu học hỏi, tìm tòi ngay từ khi còn là cậu bé 5 tuổi theo cha mẹ vào kinh thành Huế, cho đến khi trở thành chàng thanh niên chí lớn đi tìm con đường giải phóng dân tộc, bấy giờ khi đã là một cụ già râu tóc bạc phơ, ánh mắt sáng ngời toát lên sự thông minh, Người vẫn thể hiện trí tuệ mẫn tiệp.

Trong thời gian nhân dân hai miền Nam Bắc đang giành được những thành công to lớn trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước thì Người lâm bệnh nặng. Người qua đời vào một ngày mùa thu năm 1969.

Người mong ước biết bao một ngày được vào thăm miền Nam ruột thịt, một ngày non sông thu về một mối, đất nước Việt Nam hòa bình và giàu mạnh. Mong ước tột bậc ấy Người đã căn dặn trong bản Di chúc lịch sử.