Quá trình hình thành và chiến đấu độc lập của tiểu đoàn 59 tại chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng
1. Quá trình hình thành
Năm 1950, thực dân Pháp thất bại, buộc phải chuyển từ chiến lược đánh nhanh thắng nhanh sang đánh kéo dài. Bộ đội ta nhanh chóng đưa ra chiến lược đáp trả: vừa chiến đấu tiêu diệt sinh lực địch, vừa cấp tốc xây dựng quân đội nhân dân để tiến tới tổng tiến công. Trên cơ sở đó, ngày 10/6/1950 tại huyện Tam Kỳ, tiểu đoàn 59 được thành lập, gồm hai đồng chí chỉ huy và hai đại đội 6, 11, sau đó bổ sung thêm đại đội 4. Đại đội 6 hình thành từ những đội công tác biệt động của thành phố Đà Nẵng, đã tổ chức nhiều trận đánh táo bạo. Đại đội 11 phần đông là chiến sĩ bị thương chuyển về hậu phương điều trị chờ ngày trở về đơn vị chiến đấu. Đại đội 4 gồm lực lượng bộ đội địa phương của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, trưởng thành từ đội quân du kích.
2. Quá trình chiến đấu độc lập của tiểu đoàn 59 tại chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng (6/1950 - 11/1951)
Mùa hè 1950, hưởng ứng đợt hoạt động lớn trên chiến trường Nam Trung Bộ, chiến dịch Hoàng Diệu được triển khai tại mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng. Cùng với Trung đoàn 108, tiểu đoàn đã tham gia trận chống càn cướp lúa ở Điện Hòa (Quảng Nam). Sau gần một ngày, ta kiểm soát hoàn toàn tình hình, buộc địch rút lui. Vài ngày sau, địch lại mở cuộc càn quét phía Nam cầu Kỳ Lam và vùng Chiêm Sơn, song đã bị ba đại đội chặn đánh. Sau chiến dịch, tiểu đoàn 59 vẫn ở lại chiến trường bảo vệ cho trung đoàn 108 trở về hậu phương. Đầu 1951, tiểu đoàn đứng trong đội hình trung đoàn 108 để củng cố chính trị và quân sự, học tập chiến thuật nhằm nâng cao chất lượng hoạt động.
Sau gần 5 tháng đóng quân ở Quảng Ngãi để luyện tập, tiểu đoàn 59 được lệnh trở lại chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng hoạt động độc lập với nhiệm vụ tiêu diệt các tháp canh, diệt từng bộ phận nhỏ của địch nhằm phá thế kìm kẹp của địch ở vùng tạm chiếm. Vì chưa có kinh nghiệm, cách đánh này gây nhiều khó khăn. Sau gần một giờ nổ súng, đối đầu quyết liệt, bộ đội ta toàn thắng, rút kinh nghiệm cho những trận đánh về sau. Sau 4 tháng hoạt động, nhiều tháp canh đã bị tiểu đoàn tiêu diệt.
Quá trình xây dựng và chiến đấu của tiểu đoàn 59 trong đội hình trung đoàn chủ lực 803 (11/1951 - 7/1954)
Cuối năm 1951, tiểu đoàn 59 được điều về Bình Định bổ sung cho trung đoàn chủ lực 803. Trong thời gian này, tiểu đoàn được kiện toàn về mọi mặt, chất lượng chiến sĩ nâng cao, tổ chức thêm một đại đội trợ chiến trang bị súng cối, đại liên.
1. Tham gia chiến dịch Đông Xuân 1951-1952 tại Nam Tây Nguyên
Năm 1952, tiểu đoàn 59 dự bị cùng tiểu đoàn 365 chủ công tham gia tiêu diệt cứ điểm Ai Nu được địch xây dựng vững chắc. Bị bất ngờ, quân địch không kịp phản kháng, bộ đội ta toàn thắng, không một ai thương vong. Tháng 4 cùng năm, địch mở trận càn phá miền Tây Quảng Ngãi. Song khi nghe tin trung đoàn 803 hành quân bôn tập 200km đến chi viện, địch sợ hãi rút lui.
2. Tham gia chiến dịch Hè Thu 1952 tại Quảng Nam - Đà Nẵng
Năm 1952, ta quyết định mở chiến dịch Hè Thu tại Quảng Nam - Đà Nẵng. Tiểu đoàn 59 sau thời gian xa cách quê hương nay đã trở lại trong đội hình trung đoàn 803 chủ lực. Sau 18 ngày đêm hành quân, trung đoàn tập kết tại chân núi Quế.
Trận mở màn gồm cứ điểm Xuân Đài và khu hành chính Phù Kỳ được bọc lót rất tốt. Song tiểu đoàn 59 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, làm chủ trận địa, thu được nhiều vũ khí. Đáng tiếc, ba chiến sĩ của ta đã hy sinh.
Nhiệm vụ tiếp theo là tiêu diệt cứ điểm Vân Ly, ở đây được xây dựng kiên cố hơn cả Phù Kỳ, địa hình phức tạp, có sông bao quanh. Lần này địch tăng cường đối phó, yếu tố bất ngờ không còn, do đó tiểu đoàn 59 được giao làm chủ công trận đánh phải hết sức cẩn trọng tính toán. Đêm, lệnh phát hỏa được ban bố, trận đánh diễn ra ác liệt. Cả hướng chính yếu và thứ yếu do Đại đội 6 cùng Đại đội 213 đảm nhận đều gặp khó khăn, ban chỉ huy phải xuống sát từng mũi để động viên. Sau hai giờ giằng co, quân ta giành chiến thắng. Liền tiếp đó, địch mở trận càn tại Điện Tiến song đã bị tiểu đoàn 59 của ta tiêu diệt.
Tiểu đoàn 59 tiếp tục được giao nhiệm vụ đánh vào khu hành chính Kỳ Lam. Tiểu đoàn giao Đại đội 6 giữ vị trí chủ công, Đại đội 4 dự bị. Khởi đầu không được suôn sẻ do vừa phát hỏa thì trời mưa khiến công tác bộc phá bị gián đoạn. Địch nhân đó chống trả quyết liệt, nhưng quân ta bình tĩnh áp chế và khống chế trận địa. 5 đồng chí hy sinh, trong đó có đại đội trưởng Trần Đàm. Cứ như vậy, ở trận đánh cứ điểm Lệ Sơn, quân ta toàn thắng. Do địa hình phức tạp, việc qua sông được ngư dân trong vùng giúp đỡ.
Trận cuối cùng nhắm vào Đồn Nhất trên đỉnh đèo Hải Vân với địa thế hiểm trở, bọc lót vững chắc, án ngữ tuyến đường chiến lược của thực dân Pháp. Sau khi nhận định tình hình địch và ta, quân ta bắt đầu hành quân, bí mật triển khai đội hình chiến đấu mà địch vẫn không hề hay biết. Sau lượt nổ súng tấn công bất ngờ của ta, địch phản ứng dữ dội. Pháo ta không đủ phá tường thành dày 1m, cũng không thể triển khai kế hoạch leo lên lô cốt để đánh thủ pháo, lựu đạn do thang quá ngắn. Nguyễn Bá Dương táo bạo dùng sức nâng thang, dù trúng đạn vẫn quyết giữ chặt thang chờ đồng đội tiếp sức. Cuối cùng ta cũng áp đảo chiến thắng, song đồng chí Nguyễn Bá Dương đã hy sinh. Chiến dịch Hè Thu 1952 tại Quảng Nam - Đà Nẵng kết thúc thắng lợi, điểm một dấu mốc trưởng thành của tiểu đoàn 59.
3. Tham gia chiến dịch Đông Xuân 1952-1953
Trung đoàn 803 là một trong hai chủ lực của chiến dịch, cùng Trung đoàn 108. Hướng hoạt động là An Khê (Bình Định) án ngữ vị trí rất quan trọng. Tú Thủy là cứ điểm kiên cố nhất trong hệ thống cứ điểm của địch ở An Khê. Đêm 13/01/1953, ta triển khai tấn công, gặp khó khăn ban đầu do nhiều hỏa điểm ngầm của địch. Sau đó nhờ kịp thời bổ sung lực lượng mà ta đã làm chủ trận địa, tuy có nhiều chiến sĩ hy sinh. Địch ở Kom Lía nghe tin thất thủ hoảng sợ rút chạy, tiểu đoàn 59 nhận nhiệm vụ truy kích.
Trận tiếp theo ở cứ điểm Thượng An - lô cốt Đầu Đèo đóng trên mỏm đồi khó tiếp cận. Nhờ kế hoạch tác chiến khôn ngoan, ban đầu ta đột phá thuận lợi song càng vào sâu càng gặp khó khăn. Mãi ta mới tìm được cách khắc phục, diệt được ổ địch. Quân Pháp hoảng loạn sau thất bại, lo lắng điều thêm quân đến An Khê bị tiểu đoàn 59 phối hợp cùng tiểu đoàn 39 chặn đánh, thu về nhiều vũ khí.
4. Tham gia hoạt động chiến dịch hè 1953, độc lập vào Khánh Hòa hoạt động, diệt hàng loạt tháp canh, đánh bại trận càn lớn vào chiến khu Đá Bàn
Tiểu đoàn 59 tách khỏi đội hình Trung đoàn vào chiến khu Đá Bàn tại Khánh Hòa làm nhiệm vụ. Lúc này đội hình còn lại Đại đội 6, 4, và 8. Tiểu đoàn thành công diệt hàng loạt tháp canh của địch và đánh thiệt hại nặng một trung đoàn địch càn quét vào chiến khu Đá Bàn, bảo vệ an toàn căn cứ. Biết chủ lực của ta vào Khánh Hòa, địch càn vào chiến khu Đá Bàn nhằm phá căn cứ. Ta gặp khó khăn từ đầu do lực lượng không cân sức, song chiến sĩ ta chiến đấu ngoan cường buộc địch phải rút lui cà giành thắng lợi, tuy phía ta có 25 đồng chí hy sinh. Tiểu đoàn gây tiếng vang lớn sau thắng lợi lấy ít địch nhiều này. Tháng 5/1953, tiểu đoàn một lần nữa nhận lệnh trở về hậu phương thực hiện nhiệm vụ chỉnh huấn chính trị và huấn luyện quân sự.
5. Tham gia chiến dịch Đông Xuân 1953-1954. Kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
Phản ứng với kế hoạch Nava của Pháp, cuối năm 1953, ta chủ trương phát triển lên Tây Nguyên mới đánh bại được âm mưu của địch. Theo đó, Trung đoàn 803 đã hành quân lên Tây Nguyên tham gia chiến dịch Đông Xuân 1953-1954.
Theo phân phối của trung đoàn, tiểu đoàn 59 đánh Kon Rẫy, còn đại đội 11 trực thuộc đi về hướng Nam Tây Nguyên nghi binh. Tiếng súng tại Măng Đen đã cảnh báo cho địch ở Kon Rẫy phản công quân ta, chúng phát hiện vị trí mở rào bộc phá của ta, cho hỏa lực áp chế. Nhiều chiến sĩ thương vong. Đặc biệt chiến sĩ Trần Xưng lấy thân mình đè lên dây thép gai để quân ta băng vào. Anh hy sinh cùng 13 chiến sĩ khác. Địch rút chạy khỏi Kon Tum, song lần này tiểu đội chưa thực hiện đúng ý định chiến thuật của cấp trên là chốt chặn để diệt địch khi chúng rút khỏi Kon Tum chạy về Pleiku.
Cứ điểm Đắk Đoa được giao cho tiểu đoàn 365 chủ công, tiểu đoàn 59 nhiệm vụ dự bị và cơ động. Do khu vực ngoại vi rộng và trăng quá sáng khiến cử động của ta đều bị địch quan sát, trận đánh gặp khó khăn và kéo dài. Sau một giờ quyết chiến, cuối cùng ta cũng giành chiến thắng áp đảo địch.
Nhằm ngăn ta phát triển địa bàn Nam Tây Nguyên, quân Pháp đưa lực lượng chốt chặn đường 19. Ta triển khai đánh vào sơ hở của địch, tức vùng sau lưng. Tiểu đoàn 59 nhận nhiệm vụ diệt tháp canh Pleitàu nằm trên ngã ba đường số 14 và đường số 7. Tháp canh Pleitàu bị diệt gọn. Các trận phục kích không thực hiện được vì địch không đi càn.
Mục tiêu tiến công tiếp theo là cứ điểm Plei Ring. Vốn đây là căn cứ nhỏ, song địch đã tăng cường rất nhiều lính gây ra tình huống bất ngờ cho ta. Trước tình huống đó, tiểu đoàn 39 và 59 nhận lệnh phối hợp với nhau triển khai tấn công. Ta nhanh chóng điều chỉnh lại đội hình, chiến lược, địch bị bất ngờ không kịp kháng cự đã bị ta áp chế. Đây là chiến thắng ngoài sức tưởng tượng, mọi người hết sức vui mừng.
Được lệnh của trung đoàn, tiểu đoàn 59 cùng 39 chuyển quân qua đường số 7, tham gia bao vây, pháo kích cứ điểm Ai Nu. Sau trận diệt 7 chiếc xe địch từ Ai Nu về Cheo Reo, ta không rút về tuyến sau như thường lệ, mà di chuyển đội hình tổ chức mai phục đánh địch hành quân chi viện. Xe địch rơi vào trận địa của ta, bị diệt hoàn toàn, tổ chức chặn đánh toán lính co cụm phía sau xe cơ giới.
Tháng 5/1954, quân địch ở Điện Biên Phủ đầu hàng. Trung đoàn 803 được lệnh chuyển xuống Phú Yên tiêu diệt cứ điểm Tuy Bình. Ta tấn công liên tục và nhanh chóng làm chủ chiến trường. Đến tháng 6/1954, chiến thắng liên tục đến với ta, tình hình chiến sự sôi nổi và khẩn trương. Chủ trương cấp trên là thanh thủ tiêu diệt địch, hậu thuẫn cho cuộc đàm phán ở hội nghị Geneve sắp tới. Tiểu đoàn 59 được lệnh tập kích Màng Màng, chợ Xéo, sân bay Đông Tác, giành trọn chiến thắng. Ta giải phóng toàn bộ tỉnh Kon Tum, phần lớn tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk. Chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 kết thúc thắng lợi.
Tiểu đoàn 59 sau ngày hòa bình lập lại
Tiểu đoàn 59 tách khỏi đội hình Trung đoàn 803, về Quảng Ngãi làm nòng cốt xây dựng Trung đoàn 210 và chuẩn bị dự lễ ra mắt Sư đoàn 305, chuẩn bị lên đường tập kết ra Bắc. Trước ngày ra đi, tiểu đoàn đã có khoảng thời gian gắn bó, chung sống giúp đỡ bà con giáo dân.
Khi tập kết ra Bắc, vị trí đóng quân đầu tiên của tiểu đoàn là huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Ở đây tiểu đoàn nhận nhiệm vụ tuyên truyền, chống cưỡng ép di cư. Dòng người di cư thưa dần, đây là thành tích đầu tiên của đoàn sau khi tập kết ra Bắc. Tiếp đó, tiểu đoàn học tập chỉnh huấn chính trị về “Cải cách ruộng đất”. Tiểu đoàn cũng vinh dự được đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm.
Từ năm 1955 đến 1959, tiểu đoàn lần lượt chuyển quân về Nam Định, Thái Bình, Phú Thọ, tuyên truyền chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Chính phủ, hăng hái tham gia lao động giúp dân sản xuất. Khi đóng quân tại Thái Bình và Phú Thọ, tiểu đoàn bước vào giai đoạn rèn luyện kỹ chiến thuật, đưa quân đội ta tiến lên chính quy, hiện đại. Trong lần tham gia diễn tập tấn công, tiểu đoàn được Bộ Tổng tư lệnh đặc biệt khen ngợi. Bên cạnh đó, tiểu đoàn xây dựng các công trình ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa: nhà máy phốt phát Lâm Thao, đại thủy nông Bắc - Hưng - Hải. Tiểu đoàn hăng hái, nâng cao năng suất việc làm, nhiều cá nhân được khen thưởng.
Năm 1961, tiểu đoàn được thay đổi nhiệm vụ, từ bộ binh chuyển về Bắc Giang huấn luyện trở thành một tiểu đoàn dù trong Sư đoàn 305. Đến cuối năm 1964, tiểu đoàn chuyển về Bộ Tư lệnh Đặc công mang phiên hiệu tiểu đoàn 4, và cũng từ đây phiên hiệu tiểu đoàn 59 không còn nữa. Năm 1959, chiến sĩ của tiểu đoàn chấp hành trở về Nam theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15, tham gia giải phóng miền Nam.
Vài nét đặc trưng và truyền thống tiêu biểu của tiểu đoàn 59
Tiểu đoàn bao gồm ba nét chính. Từ những phân đội nhỏ lẻ, phân tán đã tiến lên biết đánh phục kích, tập kích, vận động, đánh công kiên, hiệp đồng binh chủng với quy mô tiểu đoàn. Có kinh nghiệm và khả năng hoạt động độc lập dài ngày trong vùng tạm chiếm, cơ động, linh hoạt, tác chiến tiêu hao sinh lực địch. Bên cạnh đó, tiểu đoàn áp dụng thành công phương thức “Tác chiến du kích kết hợp với tác chiến tập trung của chủ lực” vào điều kiện cụ thể của chiến trường.
Ngoài truyền thống của bộ đội cụ Hồ, tiểu đoàn mang cho mình những truyền thống tiêu biểu của riêng mình. Đó là tinh thần kỷ luật cao, tự giác và sẵn sàng chấp hành mọi mệnh lệnh của cấp trên, đi đến bất cứ nơi đâu, làm bất cứ nhiệm vụ gì và quyết tâm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trong mọi hoàn cảnh. Trong những trường hợp phải tự xử trí, tiểu đoàn đã thành công khắc phục mọi khó khăn và giành chiến thắng. Trong lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, tiểu đoàn đã không ngừng bồi dưỡng và củng cố mối quan hệ máu thịt quân - dân nặng nghĩa, nặng tình, keo sơn, gắn bó ở hậu phương cũng như trong lửa đạn chiến tranh.