1. Quê hương và gia đình
Võ Nguyên Giáp sinh năm 1911 tại làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho yêu nước. Thân phụ của Võ Nguyên Giáp là cụ Võ Quang Nghiêm, một nhà nho dòng dõi khoa bảng, bất khuất kiên cường. Thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Kiên.
Trong gia đình, Võ Nguyễn Giáp là thứ năm trong bảy người con của hai cụ thân sinh. Từ nhỏ ông đã tỏ ra là một người thông minh sáng dạ, luôn đứng đầu lớp và dẫn đầu trong các kỳ thi. Những năm tháng thơ ấu chăm chỉ học hành, cùng với truyền thống hiếu học của dòng họ đã trở thành nền tảng vững chắc, ảnh hưởng sâu sắc đến chí tiến thủ và nhận thức chính trị của ông. Hình ảnh người dân mất nước lầm than đã gieo vào lòng Võ Nguyên Giáp tinh thần yêu nước, thấm đẫm nghĩa khí anh hùng.
2. Tuổi trẻ
Những năm 1920, Võ Nguyên Giáp và em trai là Võ Thuần Nho được cha cho đi học ở Trường Tiểu học Đồng Hới. Dù được tiếp xúc với bạn bè là con nhà khá giả, Võ Nguyên Giáp vẫn sống giản dị, khiêm nhường, được mọi người yêu mến. Hè năm 1925, Võ Nguyên Giáp thi đỗ vào Trường Quốc học Huế. Tại đây, tiếp nhận sự giác ngộ của nhà cách mạng Nguyễn Chí Diểu, Võ Nguyên Giáp đã lấy tôn chỉ mục tiêu cách mạng làm định hướng cuộc đời, ông luôn theo dõi hoạt động của các nhà yêu nước lúc bấy giờ. Tuy tuổi đời còn trẻ, nhưng lòng yêu nước cùng tư tưởng tiến bộ đã thôi thúc Võ Nguyên Giáp bước vào con đường hoạt động cách mạng và tôi luyện ông trong suốt chặng đường đấu tranh chống lại áp bức, trở thành Đại tướng trong lòng dân sau này.
Sự kiện mở đầu cho hoạt động đấu tranh của Võ Nguyên Giáp tại Huế là đòi thực dân Pháp ân xá cho cụ Phan Bội Châu năm 1925. Cụ Phan được ân xá và bị giam lỏng tại Huế, Võ Nguyên Giáp tiếp nhận tầm ảnh hưởng từ một nhà yêu nước lớn, trong lòng người thanh niên trẻ sục sôi quyết tâm “xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”. Phía thực dân Pháp và tay sai theo dõi gắt gao các học sinh yêu nước bị ghi vào sổ đen, trong đó có Võ Nguyên Giáp vì biểu tình đòi ân xá cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Châu Trinh hòng ngăn chặn và triệt tiêu các cuộc đấu tranh về sau của thanh niên, học sinh tại Huế.
Năm 1927, Võ Nguyên Giáp bàn với Nguyễn Khoa Văn phát động bãi khóa trong toàn trường do việc Nguyễn Chí Diểu bị vu là vi phạm quy chế thi cử. Làn sóng của sức mạnh thanh niên, học sinh và quần chúng nhân dân một lần nữa thôi thúc ngọn lửa yêu nước trong lòng Võ Nguyên Giáp.
Sau bài báo bằng tiếng Pháp tố cáo nền giáo dục ngu dân có tựa đề “Đả đảo tên bạo chúa trường Quốc học” gây tiếng vang ở Huế và Sài Gòn, Võ Nguyên Giáp bị buộc thôi học. Anh trở về quê tiếp tục hoạt động, phát triển cơ sở cách mạng ở Quảng Bình. Tiếp nhận tư tưởng Nguyễn Ái Quốc, và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ sách báo tuyên truyền tiến bộ, Võ Nguyên Giáp trở thành một hạt nhân tích cực trong nhóm học sinh tiến bộ ở Lệ Thủy, anh đi đầu trong nhóm đọc sách báo tiến bộ, tài liệu cách mạng và truyền cảm hứng cho học sinh các vùng lân cận. Cuối năm 1927, Võ Nguyên Giáp gặp lại Nguyễn Chí Diểu và được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Có điều kiện tiếp cận tài liệu của Nguyễn Ái Quốc, Võ Nguyên Giáp càng được ánh sáng của chân lý chiếu rọi vào nhận thức. Kể từ đó, lĩnh hội được tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Ái Quốc qua từng trang sách, anh càng quyết tâm hơn trên con đường trở thành chiến sĩ cộng sản, vùng lên đấu tranh đòi quyền sống và chấm dứt khổ đau, lầm than cho dân tộc mình.
Năm 1928, Võ Nguyên Giáp vào Huế và làm việc tại Quan Hải tùng thư với vị trí là Ủy viên Tuyên huấn của Đảng Tân Việt, sau đó kiêm nhiệm Ủy viên trung ương dự bị, phụ trách tuyên huấn và giao thông liên lạc. Thời gian làm việc tại Quan Hải tùng thư cùng báo Tiếng dân đã bồi dưỡng, trau dồi thêm bản lĩnh và nhận thức chính trị của chàng thanh niên. Mặc dù từng bị cấm phát hành bởi chính quyền thực dân, nhưng anh vẫn không lùi bước, trái lại càng tích cực hơn trong việc viết phóng sự, sách báo, đăng bài công khai chống lại chế độ thực dân Pháp xâm lược, cũng như tuyên truyền trong nhân dân về cách mạng và chủ nghĩa cộng sản.
Đầu năm 1929, sau khi cùng các đồng chí trong tổ chức cải tổ Tân Việt Cách mạng Đảng thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Võ Nguyên Giáp được cử đi Vinh, Hà Nội và Sài Gòn để phổ biến đường lối của Khối liên hiệp quốc dân, đồng thời anh tranh thủ vận động các kỳ bộ Tân Việt chuyển sang hàng ngũ cộng sản. Mùa hè cùng năm, một cuộc khủng bố lớn của thực dân Pháp diễn ra và tấn công vào các chính đảng. Một loạt cán bộ yêu nước và đảng viên bị bắt giam, cầm tù. Đầu năm 1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản tại Việt Nam được tiến hành. Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Võ Nguyên Giáp tiếp tục thể hiện tầm hiểu biết sâu rộng, bản lĩnh chính trị vững vàng, một cây bút bình luận sắc sảo qua việc viết bài cho báo Tiếng dân, kín đáo tuyên truyền triết học chính trị, kinh tế của chủ nghĩa Mác. Qua đó, anh không chỉ có thêm thu nhập, mà còn thêm sự uy tín, chiếm được cảm tình, sự tin yêu của chủ bút và anh em đồng nghiệp.
Năm 1930-1931, Pháp mở rộng đàn áp, bắt bớ tất cả những người ủng hộ Xô viết Nghệ Tĩnh. Võ Nguyên Giáp cùng Nguyễn Thị Quang Thái cùng bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ. Trong tù, anh không hề run sợ trước kẻ địch mà vẫn bình tĩnh theo dõi tình hình, động viên anh em chủ động đối phó các âm mưu, thủ đoạn của địch. Quãng thời gian sống khổ sở trong nhà giam càng hun đúc thêm lòng kiên trung, bất khuất của người chiến sĩ trẻ tuổi. Cuối năm 1931, Võ Nguyên Giáp được trả tự do.
Năm 1932, Võ Nguyên Giáp ra Hà Nội cùng Đặng Thai Mai. Năm 1934, anh đỗ tú tài toàn phần, sau đó phụ trách giảng dạy môn Lịch sử tại Trường tư thục Thăng Long. Cùng năm đó, anh kết hôn cùng cô Nguyễn Thị Quang Thái.
Song song với việc hoạt động cách mạng, Võ Nguyên Giáp học thêm ngành Luật ở Trường Đại học Đông Dương. Cùng một lúc làm nhiều nhiệm vụ là giảng dạy, học tập, viết báo và làm cách mạng, quỹ thời gian của Võ Nguyên Giáp thực sự ít ỏi. Tuy nhiên tài năng của anh vẫn được công nhận qua những bài luận sắc sảo và cá tính.
Sang năm 1936, thế giới có nhiều chuyển biến tích cực, xuất hiện các mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít. Tại Việt Nam, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi. Đảng quyết định đấu tranh trên mặt trận báo chí công khai. Võ Nguyên Giáp tiếp tục làm báo say mê, có lần, anh đạp xe từ Hà Nội đi Cẩm Phả lấy tư liệu về công nhân mỏ. Những bài phóng sự về nông dân, công nhân, thợ thuyền của Võ Nguyên Giáp cũng thu hút được sự chú ý của dư luận tại Việt Nam và Pháp.
Năm 1937 là năm Võ Nguyên Giáp thực sự cứng cáp và thể hiện mình là một nhà báo lỗi lạc. Anh được tin tưởng giao phó nhiệm vụ là thành viên của Ủy ban vận động cách mạng nửa hợp pháp do xứ ủy Bắc kỳ lập ra. Ủy ban này đặc biệt quan tâm đến vấn đề báo chí tuyên truyền của Đảng. Báo tiếng Pháp và báo tiếng Việt song hành xuất bản công khai. Hội nghị báo giới Bắc kỳ mở ra, kiến nghị gửi chính phủ Pháp đòi tự do báo chí, ngôn luận.
Trong khoảng thời gian 1937-1938, một loạt các tờ báo tuyên truyền khác ra đời, dòng báo chí cách mạng đã được khôi phục khí thế mạnh mẽ bởi Xứ ủy Bắc Kỳ. Sang năm 1939, thế giới và đất nước đều có nhiều sự kiện quan trọng diễn ra. Tình hình này chính là đòn bẩy để cây bút chính luận sắc sảo Võ Nguyên Giáp đưa ra nhiều bài viết có giá trị, nhất là các bài viết về kinh tế, chính trị.
Khi còn viết bài cho báo Notre Voix (Tiếng nói của chúng ta), Võ Nguyên Giáp nhận được một bài báo gửi riêng từ Quế Lâm (Trung Quốc) về với bút danh là P.C. Lin. Tin vui này là bước đệm cho một loạt bài đăng có tựa đề “Thư từ Trung Quốc”, nội dung là kêu gọi xây dựng mặt trận dân chủ rộng rãi, đoàn kết mọi lực lượng.
Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra. Chính quyền thuộc địa ở Đông Dương tăng cường khám xét và khủng bố. Các tổ chức hoạt động nửa hợp pháp, nửa công khai rút vào hoạt động bí mật để bảo toàn lực lượng. Khi ấy Võ Nguyên Giáp vẫn đang làm giáo viên, anh bí mật thu thập thông tin, tổng hợp rồi bí mật gửi cho đồng chí Hoàng Văn Thụ. Anh là người chiến sĩ thông minh, nhạy bén và đầy bản lĩnh trên mặt trận tư tưởng. Hoạt động của Võ Nguyên Giáp trong thời kỳ Mặt trận dân chủ thực sự có hiệu quả, hứa hẹn trở thành hạt nhân ưu tú trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.