1. Những hoạt động ở miền Nam Trung Quốc (1940 - 1941)
Không khí ngột ngạt bao trùm châu Âu. Tình hình nước Pháp xấu đi, chúng điên cuồng đàn áp cách mạng tại Việt Nam. Nhiều cán bộ của Đảng bị trục xuất, hoạt động báo chí vô cùng khó khăn. Hội nghị Trung ương Đảng họp và ra quyết định: tập trung đánh đuổi đế quốc. Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương được thành lập. Mật thám ráo riết truy lùng, các tổ chức rút hẳn vào hoạt động bí mật. Võ Nguyên Giáp tiếp tục dạy học và chờ đợi chỉ thị của Đảng, vừa cảnh giác đề phòng mật thám theo dõi.
Tháng 4-1940, thực hiện Nghị quyết Trung ương VI, Xứ ủy Bắc Kỳ chuyển hướng từ đấu tranh dân chủ sang đánh đổ đế quốc, tay sai, chuẩn bị điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Hai đồng chí Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng nhận lệnh sang Côn Minh (Trung Quốc) hoạt động, kết nối với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tháng 6 cùng năm, Võ Nguyên Giáp đã gặp được Nguyễn Ái Quốc. Kể từ đó, Nguyễn Ái Quốc trở thành người thầy có ảnh hưởng to lớn trong cuộc đời làm cách mạng của Võ Nguyên Giáp, ông được Người giao cho nhiều trọng trách lớn lao của dân tộc trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, ngoại giao.
Dự đoán cuộc chiến tranh Pháp – Nhật sẽ diễn ra, Nguyễn Ái Quốc đã cử đồng chí Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng và Cao Hồng Lãnh đi học quân sự tại Trường Đảng của Đảng cộng sản Trung Quốc. Thời gian này, Võ Nguyên Giáp có điều kiện nghiên cứu các tác phẩm về quân sự của Mao Trạch Đông, qua đó ông hiểu hơn được về Mao Trạch Đông và quân đội cách mạng Trung Quốc, từ đó tự phân tích và so sánh liên hệ với cách mạng ở Việt Nam. Tuy nhiên việc đi học này phải hoãn lại do tình hình Pháp có biến động, các đồng chí gấp rút tập trung, theo Nguyễn Ái Quốc để cùng về nước. Võ Nguyên Giáp vẫn ở lại Trung Quốc.
Ở Tĩnh Tây, Võ Nguyên Giáp tham gia biên soạn một số bài giảng và xuất bản thành sách Con đường giải phóng. Tập sách này trở thành tài liệu huấn luyện cán bộ Mặt trận Việt Minh, trang bị kiến thức cơ bản về xây dựng, củng cố lực lượng, tiến tới Tổng khởi nghĩa. Tháng 5-1941, Mặt trận Việt Minh ra đời. Võ Nguyên Giáp về nước và làm việc trực tiếp dưới sự chỉ đạo của Bác Hồ tại Cao Bằng. Thời gian ở Trung Quốc vừa qua là thời kỳ Võ Nguyên Giáp được trang bị kiến thức kỹ càng, góp phần hình thành kinh nghiệm cho công tác quân sự của Việt Nam ở tương lai.
2. Hoạt động chuẩn bị về chính trị, quân sự để tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền (tháng 8-1945)
a) Tích cực tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, lôi cuốn đồng bào các dân tộc vào các hoạt động cách mạng
Công việc đầu tiên Võ Nguyên Giáp được Nguyễn Ái Quốc giao là làm công tác vận động quần chúng, xây dựng cách mạng ở các vùng căn cứ địa. Đi đến đâu, đồng chí cũng hòa đồng vào nhân dân, tìm hiểu văn hóa, phong tục tập quán đồng bào địa phương, nhất là dân tộc thiểu số để triển khai công tác vận động phù hợp. Từ việc này, Võ Nguyên Giáp đúc rút được những kinh nghiệm quý báu, công tác dân vận, công tác cách mạng đều xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và quyền lợi của quần chúng.
Thời điểm này, Võ Nguyên Giáp còn tranh thủ học thêm tiếng Tày, Nùng, Mông, Dao. Do đó, mọi phương pháp tuyên truyền, vận động cách mạng của ông đối với cộng đồng người dân tộc thiểu số đều rất hiệu quả. Các lớp huấn luyện của ông thu hút đông đảo hội viên trong đoàn thể cứu quốc, các cơ sở cách mạng, các tổ chức cứu quốc nhanh chóng được nhân rộng. Đây chính là đóng góp to lớn của đồng chí Võ Nguyên Giáp trong công cuộc xây dựng tổ chức thành công phong trào Việt Minh.
b) Tổ chức và phụ trách Ban xung phong Nam tiến
Năm 1942, Theo chỉ đạo của Trung ương Đảng và Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách mở rộng và phát triển căn cứ địa cách mạng theo ba hướng: Hướng Nam tiến từ trung tâm Cao Bằng phát triển xuống Bắc Kạn, Thái Nguyên. Kế hoạch này được triển khai thành công, căn cứ địa Cao Bằng phá được thế cô lập, không ngừng mở rộng và phát triển.
Năm 1944, sau hơn một năm bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, Bác Hồ được trả tự do. Người về Cao Bằng, tiếp tục lãnh đạo cách mạng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
c) Tổ chức và lãnh đạo đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chiến tranh thế giới đến hồi căng thẳng. Võ Nguyên Giáp được Bác tin tưởng giao cho nhiệm vụ thành lập một đội quân chủ lực. 34 chiến sĩ đầu tiên thuộc 5 dân tộc đã được lựa chọn vào Đội, đây đều là những cán bộ ưu tú, sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng. Ngày 22-12-1944, đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt đoàn thể cách mạng tuyên bố thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, mở ra chiến công oanh liệt đầu tiên ở Phay Khắt, Nà Ngần chỉ 3 ngày sau đó.
Tháng 4-1945, Võ Nguyên Giáp tham dự Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ. Ông gặp lại đồng chí Trường Chinh và hay tin vợ mình là Nguyễn Thị Quang Thái đã hy sinh. Tháng 5-1945, Võ Nguyên Giáp theo Bác Hồ về đặt căn cứ ở Tân Trào (Tuyên Quang), tiến hành gấp rút các công việc quan trọng chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Việt Nam Giải phóng quân ra đời, tổ chức này đã thống nhất các lực lượng vũ trang của Đảng, và ra mắt Bộ Tư lệnh đầu tiên, do Võ Nguyên Giáp đứng đầu.
Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc tại Tân Trào ngày 14-8-1945 nhận định cơ hội ngàn năm có một sắp tới, phải nhanh chóng củng cố mọi lực lượng, thành lập chính quyền của nhân dân. Hai ngày sau đó, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập dưới tên gọi Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam. Bên cây đa Tân Trào, đồng chí Võ Nguyên Giáp tập hợp bộ đội giao nhiệm vụ, thề quyết tâm, bắt đầu tiến công về giải phóng thị xã Thái Nguyên rồi tiến về giải phóng Hà Nội cùng các tỉnh thành trong cả nước.
Cuộc Tổng khởi nghĩa thành công vang dội, chính quyền nhân dân nhanh chóng thay thế chính quyền thuộc địa. Việt Nam giành được độc lập. Võ Nguyên Giáp cùng Trung ương Đảng và Bác Hồ về Hà Nội, tiến hành các thủ tục cần thiết để giải quyết các công việc còn nhiều bề bộn.