1. Trên cương vị Bí thư Quân ủy Trung ương (đến năm 1978), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (đến năm 1980)
a) Lãnh đạo xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng
Hòa bình được lập lại. Nhân dân ta tăng gia sản xuất, khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng lại nền kinh tế bị tàn phá nặng nề. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng tập thể Quân ủy Trung ương tập trung huấn luyện cán bộ, nâng cao nhận thức chính trị, lãnh đạo quân đội tham gia xây dựng kinh tế, nâng cao sức mạnh của các lực lượng vũ trang nhân dân, và có những chỉ đạo đúng đắn trong việc triển khai phòng thủ đất nước.
Đồng thời, Đại tướng cũng coi trọng việc phát huy truyền thống dân tộc, tinh thần quyết chiến và ý chí sắt đá của quân đội trong giai đoạn mới, bảo vệ những giá trị cao đẹp của lý tưởng xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, để quân đội là lực lượng nòng cốt, vững vàng và đáng tin cậy của Đảng, nhà nước và nhân dân.
b) Lãnh đạo quân đội xây dựng kinh tế
Song song việc lãnh đạo quân sự nhằm giữ gìn Tổ quốc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn quan tâm chỉ đạo quân đội làm nhiệm vụ sản xuất, góp phần xây dựng kinh tế, chấn hưng đất nước. Bên cạnh đó quân đội cũng tham gia động viên quần chúng làm chủ khoa học, kỹ thuật trong lao động sản xuất. Tôn chỉ của Đại tướng là kinh tế mạnh, quốc phòng mạnh là điều kiện vững chắc để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình lâu dài của dân tộc.
c) Lãnh đạo các lực lượng vũ trang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc
Tháng 5-1975, tập đoàn Polpot – Ieng Sary ở Campuchia đưa quân đánh chiếm Phú Quốc và Thổ Chu, gây nhũng nhiễu trong đời sống nhân dân. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra chỉ thị nêu cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu, bằng mọi giá phải bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, tuy nhiên vẫn phải tôn trọng chủ quyền nước bạn Campuchia. Năm 1977, thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương do Đại tướng Võ Nguyên Giáp đứng đầu chỉ đạo sử dụng 8 sư đoàn đánh đuổi Polpot. Tháng 12-1978, Bộ Quốc phòng chỉ đạo các lực lượng vũ trang Việt Nam phối hợp chiến đấu và giúp đỡ quân và dân Campuchia tiến công đập tan chính quyền phản động của tập đoàn Polpot – Ieng Sary. Tình đoàn kết của Việt Nam – Campuchia đã góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Dương.
Năm 1979, Trung Quốc phát động chiến tranh biên giới phía Bắc. Trước sự phản công mạnh mẽ của bộ đội ta cùng nhân dân 6 tỉnh biên giới, cùng sự phản đối mạnh mẽ của dư luận trong nước và thế giới, tháng 3-1979 Trung Quốc buộc phải rút quân.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng các cuộc chiến đấu ta giành được thắng lợi đã chứng tỏ sức mạnh về ý thức giữ nước, bảo vệ dân tộc, càng khẳng định ta có đầy đủ khả năng và điều kiện để xây dựng được nhà nước xã hội chủ nghĩa.
2. Trên cương vị Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1981 - 1991)
a) Chỉ đạo công tác khoa học - giáo dục
Năm 1982, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam và chỉ rõ giáo dục đào tạo có chất lượng toàn diện là đào tạo thế hệ trẻ thành những con người mới, có tinh thần làm chủ, có năng lực, có lòng yêu đất nước sâu sắc và sẽ trở thành những chiến sĩ kiên cường bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, đội ngũ giáo viên phải chú trọng việc dạy học kiến thức hàn lâm xen lẫn thực tế trực quan để nâng cao chất lượng dạy và học cho học sinh miền núi.
Song song với đó, ở cấp Đại học, Trung học chuyên nghiệp, phải nâng cao chất lượng, số lượng, nội dung giảng dạy, quan hệ quốc tế… để nhà trường trở thành trung tâm vừa đào tạo đại học, vừa nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, góp phần giải quyết những vấn đề cấp bách của đất nước trong thời kỳ mới.
b) Chỉ đạo công tác khoa học - kỹ thuật
Đại tướng đánh giá công tác khoa học – kỹ thuật của nước ta tuy là lĩnh vực còn mới mẻ, song đã có nhiều đóng góp trong công cuộc đấu tranh cách mạng, nhất là trong kháng chiến chống Mỹ. Hoàn cảnh nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu tiến thẳng lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng công tác về khoa học – kỹ thuật phải sát với đời sống nhân dân từ những nhu cầu cơ bản nhất, có ý thức phục vụ và xây dựng nền kinh tế, đảm bảo các yêu cầu của quốc phòng, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.
c) Trên các lĩnh vực công tác trong sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là tham gia đẩy mạnh việc nghiên cứu đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống (1986 - 1991)
Dù tuổi đã cao nhưng Đại tướng vẫn bố trí thời gian đi nhiều nơi để trao đổi, đúc kết kinh nghiệm và thảo luận với cán bộ các địa phương về mọi vấn đề liên quan đến việc thực hiện làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Ông cho rằng đây là việc vô cùng quan trọng, thực tiễn lịch sử đã cho thấy con đường theo chân Bác là con đường đúng đắn duy nhất đưa đất nước tiến lên giành độc lập và xây dựng Việt Nam đẹp giàu.
Bên cạnh đó, Đại tướng còn nhấn mạnh sự đoàn kết nhân dân là vô cùng quan trọng, vì nó là vấn đề cốt lõi, là nền tảng để Mặt trận dân tộc thống nhất được bền vững lâu dài. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Trung ương Đảng và nhà nước, trong đó có phần công sức lớn lao của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.