1. Cùng Trung ương Đảng và Chính phủ lãnh đạo xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ (1965 - 1968)
Mọi âm mưu nỗ lực chiến tranh của Mỹ đều phá sản trước ý chí quyết tâm của nhân dân, nghệ thuật tác chiến của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Mỹ quyết định chuyển sang thực hiện chiến lược Chiến tranh cục bộ. Mỹ còn dùng thủ đoạn hèn hạ, lôi kéo Chính phủ trung lập Campuchia, nhưng nhờ chính sách ngoại giao khôn khéo của ta, Campuchia đã cắt đứt ngoại giao với Mỹ. Trong Hội nghị đặc biệt của Trung ương Đảng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đề nhấn mạnh khẩu hiệu chung của miền Bắc lúc bấy giờ “xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định phải đặc biết lưu tâm đến việc Mỹ tấn công miền Bắc. Quân chủng Phòng không – Không quân là lực lượng quân sự nòng cốt chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc. Đại tướng đánh giá cao đóng góp của lực lượng không quân, bên cạnh đó cũng nhắc nhở bộ đội phải quán triệt tư tưởng, tích cực, liên tục tiến công tiêu diệt địch, bảo vệ mục tiêu đi đôi với bồi dưỡng lực lượng.
Tháng 4-1966, Mỹ bắt đầu sử dụng máy bay B52 bắn phá miền Bắc, hòng cắt đứt đường chi viện từ miền Bắc cho miền Nam. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đặt ra nhiệm vụ quan trọng tiếp theo của toàn Đảng, toàn dân là công tác tổ chức phòng không nhân dân, đặc biệt coi trọng vai trò của tên lửa phòng không để ở bất kỳ tầm bay, hướng bay nào của địch ta cũng có thể tiêu diệt được.
Trong khoảng thời gian từ 1965 đến 1968, quân và dân miền Bắc đã bắn rơi hơn 3000 máy bay Mỹ, tiêu diệt và bắt hàng ngàn giặc lái Mỹ, bắn chìm hơn 140 tàu chiến. Nhận thất bại ở hai miền Nam Bắc, Mỹ buộc phải chấp nhận đàm phán tại Hội nghị Paris và ngừng ném bom bắn phá bằng không quân và hải quân vô điều kiện tại miền Bắc.
Khi ấy, chiến trường miền Nam cũng giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa khủng hoảng, trong nội bộ gây hấn, âm mưu thanh trừng nhau diễn ra liên tục. Như vậy, cả Mỹ và Diệm đều không thể giành được thế chủ động trên chiến trường cũng như các mục tiêu của chúng đã đề ra. Cuối năm 1967, cách mạng miền Nam đã giành được thắng lợi làm cho chương trình “bình định” của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa thất bại. Năm 1968, cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã diễn ra và giành chiến thắng, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Chiến tranh cục bộ cơ bản đã thất bại.
2. Cùng Trung ương Đảng và Chính phủ lãnh đạo chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, đánh thắng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, buộc Mỹ rút quân, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1969 - 1975)
a. Giai đoạn khôi phục và phát triển kinh tế, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, làm thất bại cơ bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1973)
Tháng 1-1969, R. Nixon tuyên bố chuyển hướng sang “Việt Nam hóa chiến tranh”. Chúng còn thỏa hiệp với Trung Quốc, Liên Xô, gây sức ép, cô lập Việt Nam. Đứng trước những khó khăn này, cả nước đồng lòng đứng lên chống Mỹ. Tháng 9 cùng năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh trút hơi thở cuối cùng trong khi quân dân hai miền Nam Bắc đang giành được nhiều thắng lợi to lớn. Thực hiện Di chúc của Bác, Trung ương Đảng, Chính phủ, chiến sĩ và đồng bào cả nước càng có thêm quyết tâm đánh Mỹ để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Miền Nam tiếp tục đẩy mạnh tiến công, giành vùng giải phóng; miền Bắc tăng gia sản xuất, củng cố kinh tế, quốc phòng để chi viện cho miền Nam. Đại tướng tập trung nghiên cứu kế hoạch tác chiến, cách đánh B52 vì dự kiến Mỹ sẽ ném bom đánh Hà Nội, Hải Phòng. Tập tài liệu Cách đánh B52 của ông được đúc kết và phổ biến trong toàn binh chủng, hứa hẹn thắng lợi về cuộc đọ sức diệt B52 trên bầu trời Thủ đô của chiến sĩ miền Bắc.
Hội nghị lần thứ 19 của Trung ương Đảng (1970-1971) đã vạch ra mục tiêu quan trọng của công tác kinh tế, trong đó có tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, tư tưởng văn hóa và quan trọng nhất là cách mạng khoa học kỹ thuật. Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng tiếp tục chỉ đạo xây dựng, phát triển lực lượng phòng không.
Năm 1971, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo cuộc hành quân Đường 9 - Nam Lào chống chiến lược “Lam Sơn 719” của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Thắng lợi của chiến dịch này đã giúp ta phá căn cứ hỏa lực địch, giữ vững tuyến đường mòn Hồ Chí Minh. Cùng với đó là chiến thắng khi sang giúp nước bạn Lào, bộ đội ta đã làm phá sản “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” của Mỹ.
Tháng 10-1972, bị thua nặng trên chiến trường miền Nam, Mỹ sử dụng không quân, hải quân bắn phá miền Bắc. Người dân miền Bắc khẩn trương sơ tán khỏi các vùng trọng điểm, quyết làm tròn nhiệm vụ hậu phương vững chắc cho miền Nam. Các lực lượng vũ trang được tăng cường cả về số lượng lẫn chất lượng theo đúng yêu cầu, chủ lực là lực lượng phòng không không quân.
Tháng 11-1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tuyên bố phải kiên quyết đánh thắng giặc Mỹ trên bầu trời Thủ đô. Đồng chí Đại tướng đã có nhiều buổi làm việc với với tư lệnh và các phó tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, đồng thời đóng góp ý kiến về cách đánh. Từ các phương tiện truyền thông, làn sóng phản đối chiến tranh Mỹ tại Việt Nam dâng cao không ngờ. Nhân dân Mỹ và các Nghị sĩ Mỹ kịch liệt lên án Nixon vì đã gây chiến tranh dã man tại Việt Nam mà không hề thông qua Quốc hội và nhân dân Mỹ.
Mỹ rải rác chết chóc và đau thương trên khắp mọi nơi trên đất Việt Nam. Sự kiện ném bom bắn phá phố Khâm Thiên gây tổn thất rất lớn về người và của. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã hạ quyết tâm, ra chỉ thị đánh tốt hơn nữa, bắn rơi nhiều máy bay hơn nữa để trả thù cho Khâm Thiên, cho đồng bào Hà Nội. Cuối năm 1972, trận “Điện Biên Phủ trên không” đã đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích bằng máy bay B52 của Mỹ. Mỹ buộc phải quay lại đàm phán tại Hội nghị Paris. Hiệp định Paris là bước chuyển của cách mạng Việt Nam sang giai đoạn phát triển mới.
b. Tăng cường lực lượng cho chiến trường, tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 - 1975)
Công tác tuyên truyền, cổ động được Đại tướng đặc biệt quan tâm. Hàng ngàn cán bộ tuyên huấn, văn hóa, văn nghệ đã lên đường vào miền Nam phục vụ công tác tuyên truyền, động viên quân và dân miền Nam tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã huy động bổ sung quân chiến đấu hành quân vào chiến trường miền Nam, trong đó nổi bật nhất là lực lượng thanh niên xung phong. Lương thực thực phẩm, thuốc men, quân trang, quân dụng, vũ khí liên tục được chuyển vào từ miền Bắc.
Trong buổi mít tinh kỷ niệm 20 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã liên hệ đến cuộc đấu tranh vệ quốc chống Mỹ đầy cam go và thử thách, ông nhận định những thắng lợi mà ta đã đạt được là nhờ sự chỉ đạo tài giỏi của Trung ương Đảng, là trí tuệ và xương máu của đồng bào, cùng đó là lời kêu gọi toàn dân đoàn kết đánh đuổi giặc Mỹ xâm lược, tiến tới hòa bình thống nhất đất nước.
Bộ đội và du kích địa phương tại miền Nam tiếp tục đẩy mạnh quân số và vũ trang, đấu tranh chống chính sách độc tài của chính quyền Sài Gòn. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị củng cố quân đội thực sự vững mạnh bằng cách xây dựng hàng loạt các quân đoàn, với mục đích tạo mỗi quân đoàn là một “quả đấm thép”, có khả năng giành thắng lợi. Song song với đó, các binh chủng từ không quân, hải quân, thiết giáp, đặc công, pháo binh, công binh và thông tin cũng phát triển nhanh và đồng bộ, phối hợp nhuần nhuyễn với nhau.
Mỹ vi phạm Hiệp đinh Paris, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào miền Nam làm việc trực tiếp. Qua các buổi họp, Đại tướng nhấn mạnh tinh thần cảnh giác, chống ảo tưởng, ra sức phát triển dân quân du kích, các buổi hội nghị cũng chỉ rõ thời cơ chiến lược sắp đến, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh trên các mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao, tăng cường đoàn kết ba nước Đông Dương, đoàn kết nhân dân quốc tế chống đế quốc. Nixon từ chức tổng thống, Quốc hội Mỹ liên tục cắt giảm viện trợ quân sự cho Đông Dương, việc này tác động mạnh đến chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa. Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp nhận định tình hình này là yếu tố quan trọng tạo nên thời cơ thuận lợi cho cách mạng.
Năm 1974, đồng chí Đại tướng ốm nặng trong khi cách mạng ở miền Nam đang có chuyển biến tích cực. Ông được chuyển sang Liên Xô điều trị. Khi về nước, ông tiếp tục chỉ đạo cuộc chiến đang trong giai đoạn cuối. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và những nhận định của Đại tướng, quân và dân ta đã chuẩn bị về mọi mặt, củng cố mọi lực lượng nòng cốt để tổ chức cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975.
Sau hai chiến thắng ở Phước Long và Buôn Ma Thuột trong chiến dịch Tây Nguyên, Bộ Chính trị đã dự kiến giải phóng miền Nam trong năm 1975 nếu thời cơ đến, và không chờ sang năm 1976. Một loạt các trận đánh giành thế chủ động vùng Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ, ta đã giải phóng được hẳn một vùng rộng lớn từ Quảng Trị đến Khánh Hòa. Địch hoang mang, rút về Sài Gòn.
Thời cơ giành thắng lợi đã đến, quân ta thừa thắng xông lên dưới sự chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tháng 4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Trưa ngày 30-4-1974, quân ta đã cắm được cờ giải phóng lên nóc Dinh Độc Lập, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đầu hàng, chiến dịch Hồ Chí Minh giành thắng lợi, Sài Gòn hoàn toàn giải phóng.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là bậc thiên tài quân sự ở khả năng nắm thời cơ, tạo thời cơ và chớp thời cơ. Mọi bước đường tiến công của quân và dân Việt Nam, thắng lợi quân sự của Việt Nam trong mọi cuộc đấu tranh đều khắc ghi công lao to lớn của Đại tướng.