Chuyên đề này nghiên cứu hai nội dung lớn là tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng con người mới. Nhưng về nhận thức khoa học, cần thấy rằng văn hóa bao giờ cũng lấy con người làm trung tâm, nói tới văn hóa là nói tới con người. Hồ Chí Minh là nhà văn hóa lớn và sự nghiệp văn hóa lớn lao nhất, quan trọng nhất của Hồ Chí Minh chính là dựa vào động lực con người để giải phóng con người, “biến người nô lệ thành người tự do”. Hồ Chí Minh là nhà văn hóa lớn vì Người sớm nhận thức văn hóa có tầm quan trọng to lớn và ý nghĩa cách mạng sâu xa đối với vận mệnh của nhân dân các nước. Hồ Chí Minh là người đem lại ánh sáng, ánh sáng văn hóa, ánh sáng cách mạng cho nhân dân ta và góp phần đem lại ánh sáng cho nhân dân nhiều nước khác, xua tan bóng tối của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, của dốt nát, đói nghèo, bệnh tật đè nặng lên cuộc sống của các dân tộc bị áp bức. Văn hóa gắn liền với đạo đức, chính trị, kinh tế, xã hội, cách mạng. Văn hóa là hiểu biết làm người, hiểu biết xử sự, xử thế. Trong xã hội còn áp bức, bóc lột giai cấp, dân tộc, con người thì xử sự đẹp nhất là làm cách mạng. Như vậy, văn hóa tỏa ra trên các mặt của cuộc sống, là sự thể hiện rõ nét nhất của một nền văn minh.
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
1. Khái niệm văn hóa
*Quan niệm chung
Bằng những cách tiếp cận khác nhau, gắn với nhiều chiều cạnh của cuộc sống, từ tác giả E.B. Tylor( "Văn hoá nguyên thuỷ" (Primitere Culture, London, 1871) đến UNESCO (Tuyên bố về những chính sách văn hóa tại Hội nghị quốc tế do UNESCO chủ trì tại Mêhicô, tháng 8-1982), đã có hàng trăm định nghĩa về văn hóa, phản ánh văn hóa “hữu thể”(tangible) và văn hóa “vô hình”(intangible). Có thể hiểu văn hóa theo nghĩa rộng, phức thể nhiều mặt; là giá trị vật chất và tinh thần, khắc họa bản sắc, tạo nên đặc trưng riêng của cộng đồng; văn hóa là hiểu biết, ứng xử; gắn với từng lĩnh vực (văn hóa văn nghệ, văn hóa giáo dục, văn hóa pháp luật, ...); hẹp hơn nữa, có ý kiến đồng nghĩa văn hóa với học vấn.v.v...
Văn hóa là phạm trù chỉ toàn bộ đời sống con người trong quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên. Quan hệ đó đã kết tinh các giá trị (vật chất và tinh thần); năng lực hoạt động của con người(trong phương thức sống, năng lực chiếm lĩnh thế giới và khả năng hóa thân vào sản phẩm do mình tạo ra); và trình độ phát triển của chính bản thân con người (hoàn thiện phẩm chất, nhân cách, trình độ người).Văn hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, khắc họa bản sắc, tính cách riêng của một cộng đồng, có tầm quan trọng to lớn và ý nghĩa cách mạng sâu xa đối với vận mệnh con người.
* Quan niệm của Hồ Chí Minh
Tháng 8-1943, trong một bối cảnh thời gian và không gian khá đặc biệt, Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm của mình về ý nghĩa của văn hoá: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn"( t.3, tr. 431).
Tinh thần và bản chất trong quan niệm văn hoá của Hồ Chí Minh có tính kế thừa và phát triển các quan niệm văn hoá đi trước, nhưng lại hoàn toàn phù hợp và thống nhất với quan niệm văn hoá của UNESCO. Đây là khái niệm văn hoá sớm nhất và duy nhất của Hồ Chí Minh khi bàn về văn hoá theo nghĩa rộng.
Từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, văn hoá được Hồ Chí Minh xác định là lĩnh vực kiến trúc thượng tầng, thuộc đời sống tinh thần của xã hội. Với vị trí đó, văn hóa có mối quan hệ mật thiết với chính trị, kinh tế, xã hội.
2. Cống hiến của danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh
* Ghi nhận của Đại hội đồng UNESCO
Trong một bối cảnh thế giới đặc biệt của năm 1987, Đại hội đồng UNESCO đã tôn vinh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa lớn. Nghị quyết cho thấy sự thống nhất, hoà quyện giữa văn hoá với cách mạng, cách mạng với văn hoá. Hồ Chí Minh đã góp phần vào việc thực hiện những mục tiêu của UNESCO, để lại dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại. Người có sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, nghệ thuật; kết tinh truyền thống văn hoá hàng nghìn năm của nhân dân Việt Nam; hiện thân cho khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc mình và thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.
*Một số ghi nhận khác
Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu trong buổi khai mạc Hội thảo quốc tế Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hoá lớn(29-30 tháng 3 năm 1990): “Sự nghiệp văn hoá quan trọng nhất của Người là đã lãnh đạo toàn dân đánh đuổi giặc ngoại xâm trong thời đại mới, giành lại cho nhân dân những quyền sống của con người, một cuộc sống có văn hoá. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần cùng với loài người loại trừ một trở lực to lớn trên con đường tiến lên thế giới văn minh, xoá đi một vết nhơ trong lịch sử là chế độ thuộc địa”.
Phạm Văn Đồng viết: “Sự nghiệp văn hoá lớn lao nhất, quan trọng nhất của Hồ Chí Minh là đã huy động sức mạnh 4000 năm văn hiến của dân tộc kết hợp với tinh hoa văn hoá của thời đại, lãnh đạo thành công sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành lại cho nhân dân ta quyền làm người, quyền được sống một cuộc sống xứng đáng với con người. Sự nghiệp đó trả lại địa vị xứng đáng cho nền văn hoá Việt Nam cũng là một sự nghiệp to lớn đối với nền văn hoá thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa, từng bước tiến lên thanh toán chủ nghĩa thực dân, xoá đi một vết nhơ trong lịch sử và trong nền văn hoá của loài người”.
Như vậy, tuy cách diễn đạt có khác nhau, nhưng những nghiên cứu, đánh giá nghiêm túc ở Việt Nam và thế giới đều cho thấy một cách tiếp cận về danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh là thống nhất giữa văn hoá với cách mạng, với biểu hiện rực rỡ nhất là giương cao ngọn cờ chống chủ nghĩa thực dân, mà chống chủ nghĩa thực dân là đạt tới đỉnh cao giá trị văn hoá và nhân văn của loài người.
Giáo sư Vũ Khiêu nhấn mạnh danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh thể hiện trên 5 phương diện lớn. Về mặt trí tuệ: Uyên thâm cả đông, tây, kim, cổ, thể hiện tài năng trên mọi lĩnh vực. Về mặt tình cảm: Có trái tim mênh mông "ôm cả non sông mọi kiếp người"; kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Yêu thương từng số phận con người, cả dân tộc và nhân loại. Về mặt hành động: Kết hợp Nhân - Trí - Dũng, nghị lực, bản lĩnh, nhạy bén, sáng tạo. Về tư tưởng triết học: Tiếp thu truyền thống nhân văn từ cổ đại đến Mác-Lênin, cả Đông và Tây, đem lại nội dung nhân văn hành động mang tính hiện thực cao. Về đời sống riêng tư: Theo đuổi hoài bão lớn nhất của dân tộc và nhân loại, nhưng lại sống giản dị, kính già, yêu trẻ, trọng nghĩa, khinh tài, tôn trọng phụ nữ, chân thành, khiêm nhường, dân chủ, hóm hỉnh, dí dỏm...
Hồ Chí Minh có một kiểu ứng xử văn hoá hết sức hài hoà, nhuần nhị, tinh tế. Người am tường “Ngũ tri” trong văn hoá phương Đông: Tri kỷ (biết mình), tri kỷ (biết người), tri thời (biết thời thế), tri túc (biết chừng mực), tri biến (biết biến đổi).
Người kết hợp lý - tình, "đức trị" và "pháp trị", nhuần nhị xưa và nay; phá huỷ cái cũ mà xấu, sáng tạo cái mới mà hay, luôn luôn đổi mới. Là nhà cách mạng chuyên nghiệp, nhà chính trị lão luyện, đồng thời là nhà thơ - chiến sĩ, thanh thản, ung dung, thư thái, nhẹ nhàng. Người nghiêm chỉnh, thận trọng nhưng cũng rất hài hước. Là lãnh tụ, nhưng luôn coi mình là học trò, công bộc của dân, lúc nào cũng khiêm nhường, không muốn đứng cao hơn người khác, thích sống một cuộc đời dân dã “câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”. Xử sự tài trí của Hồ Chí Minh vừa kiên quyết, vừa mềm dẻo. Lãnh đạo cách mạng và kháng chiến, mà vẫn sử dụng bộ máy cao cấp của triều đình từ vua đến quan vào guồng máy của chính quyền cách mạng; vẫn kính trọng và đánh giá cao nền văn hoá của các dân tộc có bọn thực dân, đế quốc xâm lược. Hồ Chí Minh đã dùng văn hoá của các dân tộc Pháp, Mỹ để đánh giả lại thực dân Pháp, đế quốc, đánh chìm chế độ thuộc địa.
Nhà văn Xô Viết Ôxíp Manđenxtam, từ năm 1923 đã nhận xét rằng Nguyễn ái Quốc tiêu biểu cho "nền văn hoá của tương lai". Đó là nền văn hóa thống nhất giữa văn hóa với cách mạng. Bởi vì, bản thân cách mạng cũng là một sự nghiệp văn hoá, nó biểu hiện trọn vẹn một thiên hướng và khả năng sáng tạo, chứng minh và đòi hỏi ở tất cả chúng ta một niềm tin sâu sắc ở tương lai, như nhà văn hoá lớn Côlômbia là Máckét, người được giải thưởng Nôbel, tại cuộc gặp lần thứ hai các nhà trí thức Mỹ Latinh, đầu tháng 12-1985, đã phát biểu. Nền văn hóa đó kết hợp truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, phương Đông và phương Tây, thể hiện lý tưởng chung của loài người là độc lập, tự do, hạnh phúc.
Là tác giả của hơn 250 bài thơ, khoảng 2000 bài báo, nhiều truyện ngắn, văn chính luận, tiểu phẩm văn học, kiến trúc sư của nền giáo dục cách mạng Việt Nam, v.v..., nhưng Hồ Chí Minh không bao giờ nhận mình là nhà thơ, nhà văn, nhà giáo dục... Duy nhất một lần Người nhận mình là nhà cách mạng chuyên nghiệp.
Tóm lại, Hồ Chí Minh là nhà văn hóa lớn vì sự nghiệp chính trị phi thường của Người cũng là một sự nghiệp văn hóa cao cả. Người đã để lại dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại vì góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu nhân văn của loài người.Trên cơ sở nhận thức vai trò, sức mạnh của văn hóa, Hồ Chí Minh đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển của đất nước. Đó là các kế sách về chống giặc dốt, xây dựng đời sống mới, đạo đức mới, tín ngưỡng tự do, ý thức pháp luật. Tinh thần văn hóa theo quan điểm Hồ Chí Minh đã thấm sâu vào tâm lý quốc dân, góp phần sửa đổi tham nhũng, phù hoa, xa xỉ, lười biếng. Người gắn kết chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ “xây” và “chống” trong việc xây dựng một xã hội nhân cách- đạo đức. Kết hợp hài hòa cốt cách văn hóa dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại, Hồ Chí Minh đã cho ta một thông điệp về cái chung tốt đẹp của con người, đó là hạnh phúc, tự do cho loài người. Đó cũng là điểm trung tâm của nền văn hóa tương lai mà nhân loại cần đạt tới. Bản thân Hồ Chí Minh là một nhà hoạt động và sáng tạo văn hóa lớn, làm nổi bật tinh thần khoan dung văn hóa của một nền văn hóa hòa bình. Với tất cả những cống hiến của mình, Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra một nền văn hóa mới, một sức mạnh văn hóa mới, sức mạnh văn hóa thời đại Hồ Chí Minh, với một xung lực mới đưa tới thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng, kháng chiến và xây dựng xã hội đất nước.
3. Một số quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hoá
3.1.Quan điểm về vai trò của văn hoá
Thứ nhất: Văn hóa vừa là động lực vừa là mục tiêu của cách mạng
- Văn hoá là động lực của cách mạng.
Trước hết, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn, loài người sáng tạo ra văn hoá. Mặt khác, trong công cuộc kiến thiết nước nhà, thì văn hoá ngang hàng các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và tác động tích cực trở lại các lĩnh vực đó. Như vậy, cùng với đời sống vật chất lấy kinh tế làm nền tảng, thì con người cần đời sống tinh thần, lấy văn hóa làm nền tảng
Động lực của văn hoá thể hiện ở chức năng của văn hoá. Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp. Tư tưởng và tình cảm là vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần; nó có thể đúng đắn, cao đẹp hoặc ngược lại. Bồi dưỡng phải được tiến hành thường xuyên và chú ý đến những tư tưởng và tình cảm lớn, chi phối đời sống tinh thần của con người và dân tộc. Lý tưởng là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn. Đó là lý tưởng vì nước quên mình; vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng; độc lập, tự cường, tự chủ; không có gì quý hơn độc lập tự do; độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tình cảm lớn là yêu nước, thương dân; yêu Chân - Thiện - Mỹ; yêu tính trung thực, chân thành, ghét sự giả dối, lừa lọc. Tư tưởng đúng và tình cảm đẹp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: con đường đi tới tư tưởng đúng vừa bằng lý trí vừa bằng tình cảm. Những lý tưởng và tình cảm cách mạng khi đã đi sâu vào tâm lý quốc dân sẽ biến thành một sức mạnh vật chất, tạo động lực cho cách mạng. Hai là, nâng cao dân trí. Dân trí là sự hiểu biết của người dân về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật, thực tiễn... Nhưng con đường đi tới nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết chữ, chống giặc dốt, từng bước đi tới hiểu biết. Mục đích cuối cùng là vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Muốn đạt tới những nhận thức đó phải thông qua con đường văn hoá, trước hết là văn hoá giáo dục. Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp, lành mạnh để không ngừng hoàn thiện bản thân. Văn hoá sẽ góp phần bồi dưỡng phẩm chất đạo đức để sửa đổi tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, chống "giặc nội xâm", hướng con người vươn tới chân - thiện - mỹ. Văn hoá cũng có vai trò bồi dưỡng phẩm chất chính trị, phẩm chất chuyên môn, tạo động lực thúc đẩy sự nghiệp cách mạng.
Văn hoá soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. Tư tưởng Mác- Lênin trong cấu trúc văn hóa đưa con người từ chỗ bị tha hoá đến chỗ phát triển tự do, toàn diện.
Văn hoá- mà con người là trung tâm- tạo ra sức mạnh to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước Đó chính là sự thắng lợi của "văn minh đối với bạo tàn”.
Các yếu tố văn hóa như khoa học (bao gồm khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội - nhân văn), giáo dục, đạo đức, pháp luật... giúp dân tộc vượt qua yếu hèn, thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội.
Văn hoá là chất keo tạo sự liên kết, tăng cường mối tương tác, hiểu biết giữa các dân tộc, điều tiết các mối quan hệ quốc tế.
- Văn hoá là mục tiêu của cách mạng
Sự phát triển của một xã hội thể hiện rõ nét ở chỉ số chất lượng sống bao gồm mức độ giải phóng và phát triển con người; sự phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất; năng suất lao động; các yếu tố tinh thần, văn hoá, chính trị, pháp quyền, dân chủ...
Triết lý phát triển xã hội Việt Nam của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Hồ Chí Minh vừa là mục tiêu phát triển, vừa là phương thức (phương pháp và cách thức) thực hiện sự phát triển đó, bao gồm kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Đi tới chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Hồ Chí Minh là xây dựng một xã hội phát triển hài hòa, bền vững cả đời sống vật chất và tinh thần, trong đó chú trọng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đầy tình thương và lòng nhân ái với những giá trị cao đẹp Chân - Thiện - Mỹ. Triết lý phát triển Hồ Chí Minh lấy chất lượng làm cơ bản và lâu dài, vì hạnh phúc con người. Người quan tâm tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc giải quyết thất nghiệp; giải quyết sự phân hoá giàu - nghèo, sự bất ổn về xã hội; chú trọng quyền làm chủ của nhân dân; đảm bảo môi trường sống; xây dựng nền đạo đức mới của xã hội và giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc; xóa bỏ tình trạng ngèo cùng cực; đạt phổ cập giáo dục tiểu học và nâng cao dân trí; tăng cường bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ; giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em; tăng cường sức khỏe bà mẹ; phòng chống dịch bệnh; bảo đảm bền vững về môi trường; thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển. Đó thực chất là định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam theo quan điểm Hồ Chí Minh.
Nhân tố con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh tập trung nhất vai trò động lực, mục tiêu của văn hóa. Bởi vì, như chính người Mỹ cũng đã phải thừa nhận: “Ai cũng biết rằng trong thế kỷ XX, chính vật chất là sức mạnh của thời đại chúng ta, thời đại có nhiều tên gọi: thời đại năng lượng nguyên tử, thời đại phản lực, thời đại điều khiển học, thời đại chinh phục vũ trụ, thời đại tin học… Dù là kể đến thiết bị nào thì Mỹ cũng đều có và người việt Nam đều không có. Sức mạnh duy nhất của họ là sức manh của con người” (Phạm Minh Hạc (Chủ biên): Về phát triển toàn diện con người thời kỳ CNH- HĐH, Nxb. CTQG, H, 2001, tr.43).
Thứ hai: Văn hóa là một mặt trận. Anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ văn hóa
- Quan điểm về mặt trận văn hoá.
Trong lịch sử dân tộc, từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu đến các nhà cách mạng hiện đại đã biết dùng văn hoá đánh giặc. Ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh tiếp tục khai thác, phát triển nét đẹp truyền thống đó của dân tộc. Từ những năm hai mươi, Người dùng ngòi bút để tố cáo tội ác thực dân, thức tỉnh, định hướng nhân dân đi theo con đường cách mạng vô sản. Từ những năm ba mươi trở đi, Người đã dùng sức mạnh văn hoá trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới.
Văn hoá là một mặt trận được hiểu nó là một bộ phận của cách mạng, ngang hàng các mặt trận khác. Nó có mặt trong mọi công tác cách mạng theo tinh thần “ văn hóa hóa kháng chiến”. Mặt trận văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hoá, nói ngắn gọn là cuộc cách mạng tư tưởng - văn hoá.
Tính chất của cách mạng văn hoá khác cách mạng chính trị ở chỗ nó không thể giải quyết tức thì như kiểu giành chính quyền về tay nhân dân, mà phải xác định đây là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, phức tạp, một cuộc chiến đấu khổng lồ, quyết liệt trong suốt tiến trình cách mạng từ lúc chưa có chính quyền, đến khi giành được chính quyền, kháng chiến kiến quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Truyền thống lạc hậu, thói hư tật xấu cũng là kẻ địch. Mà thắng nghèo nàn, lạc hậu còn khó hơn thắng đế quốc và phong kiến. .
Nội dung đấu tranh trên mặt trận văn hoá rất phong phú, đa dạng, mà cốt lõi là khẳng định và nhấn mạnh hệ tư tưởng của nền văn hoá mới, bao gồm tư tưởng về chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật. Phải làm cho thế giới quan Mác- Lênin chiếm vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Mọi hoạt động văn hoá phải làm nổi bật "chủ đề" độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Quan điểm về chiến sĩ văn hoá.
Khái niệm "mặt trận" và "chiến sĩ" luôn luôn đi liền với nhau, có "mặt trận" thì có "chiến sĩ". "Chiến sĩ" ở đây là những người hoạt động trên mặt trận văn hoá- tư tưởng. Họ có nhiệm vụ nặng nề, sứ mệnh vẻ vang, vinh dự lớn lao.
Chiến sĩ văn hoá phải có lập trường, tư tưởng vững vàng. Họ phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, nắm chắc tư tưởng Mác- Lênin là một vũ khí không gì có thể so sánh nổi.
Ngòi bút của các chiến sĩ văn hoá là một vũ khí sắc bén trong sự nghiệp "phò chính trừ tà". Họ có nhiệm vụ "phụng sự cách mạng, phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân". Muốn làm điều đó, chiến sĩ văn hoá phải gắn bó với đời sống, với thực tiễn, với nhân dân; phải "từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng". Cuộc sống thực tiễn sẽ tạo điều kiện cho họ có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc anh hùng, thời đại vẻ vang.
Chiến sĩ văn hoá phải có trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức cách mạng, chuyên môn nghiệp vụ sâu để tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh cách mạng, chống mọi kẻ thù. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, kẻ thù là bọn thực dân đế quốc, phong kiến tay sai. Khi xây dựng xã hội mới thì phải tập trung vào kẻ thù tư tưởng, thói quen truyền thống lạc hậu, "giặc nội xâm" theo tinh thần "mỗi vần thơ là bom đạn chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu". Đã là chiến sĩ thì phải đối mặt với mọi kẻ thù, đứng về phía nhân dân, bênh vực, ca ngợi chân - thiện- mỹ; phanh phui, loại bỏ cái sai, cái ác, cái xấu, cái giả dối, lừa lọc.
Người chiến sĩ văn hoá phải biết quý trọng, giữ gìn, khai thác, phát triển những truyền thống tốt đẹp của cha ông, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; tham gia vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân tiến bộ trên thế giới chống các thế lực thù địch và trở lực trên con đường tiến lên thế giới văn minh, vì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Thứ ba: Văn hoá phục vụ quần chúng nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh vì con người, vì nhân dân. Người khẳng định lấy hạnh phúc của dân tộc làm cơ sở; lấy lợi ích của nhân dân làm khuôn phép. Văn hoá phục vụ quần chúng nhân dân phải được nhìn nhận một cách toàn diện.
Nhân dân đóng vai trò chủ thể. Họ không chỉ sáng tạo ra của cải vật chất, mà còn là những người sáng tác rất hay. Ca dao, tục ngữ là những "hòn ngọc quý". Nhân dân nuôi dưỡng sáng tác bằng những nguồn nhựa sống. Họ là những người kiểm nghiệm, đánh giá, phản biện các sản phẩm văn hoá một cách trung thực, khách quan. Vì vậy, Hồ Chí Minh căn dặn viết xong một tác phẩm phải đưa cho quần chúng công nông binh đọc để họ góp ý cho mình. Với tư cách chủ thể nên quần chúng nhân dân được quyền hưởng thụ các giá trị văn hoá.
Nhân dân đóng vai trò là đối tượng phản ánh. Họ là nhân vật trung tâm của sự nghiệp cách mạng, từ cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, các hoạt động văn hoá phải phản ánh quần chúng nhân dân một cách chân thực, sống động. Muốn vậy, văn nghệ sĩ phải thâm nhập, hiểu thấu, liên hệ, gắn bó với quần chúng để thể hiện trong sáng tác của mình tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng.
Quần chúng nhân dân gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, sống ở nhiều địa bàn, nghề nghiệp khác nhau, trình độ học vấn và nhận thức khác nhau... Vì vậy, hoạt động văn hoá phản ánh quần chúng phải phù hợp trình độ, lứa tuổi, nghề nghiệp, địa bàn. Bao giờ cũng phải tư duy và trả lời được bốn câu hỏi: Viết cho ai? Viết cái gì? Viết nhằm mục đích gì? Viết như thế nào? Một điều quan trọng là phải trở về với cuộc sống thực tại của quần chúng. Tránh lối viết rau muống, dài rỗng tuếch, thích dùng chữ nước ngoài. Phải làm cho quần chúng hiểu, yêu thích, tạo những chuyển biến tích cực trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mọi người. Muốn vậy, tác phẩm văn nghệ phải vừa hay vừa chân thực, nội dung phong phú, hình thức trong sáng, vui tươi. Một tác phẩm, bài nói, bài viết hay, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, không cứ dài mới hay. Khi nào tác phẩm ấy chỉ diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, khi nó được trình bày sao cho mọi người ai cũng hiểu được, và khi đọc xong độc giả phải suy ngẫm, thì tác phẩm ấy mới xem như là một tác phẩm hay và biên soạn tốt. Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và vui tươi, hấp dẫn. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích.
Văn hoá phục vụ quần chúng thể hiện ở tính hướng đích của văn hoá. Một mặt, văn nghệ phải thể hiện được tính hiện thực, chân thật; mặt khác phải hướng quần chúng nhân loại bỏ cái giả, cái ác, cái sai, cái xấu để vươn tới cái lý tưởng; không chỉ cho hôm nay, mà còn để giáo dục con cháu mai sau. Mục tiêu, lý tuởng cao đẹp nhất là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hạnh phúc của con người.
Ngoài ra, văn hoá phục vụ quần chúng nhân dân còn thể hiện ở sự phong phú, đa dạng của các hoạt động văn hoá. Nhiều thể loại, nhiều tác phẩm, nhiều món ăn bổ ích khác nhau trên một cái nền sáng tạo không ngừng của văn nghệ sĩ.
Muốn giải quyết tốt những vấn đề nêu trên thì Đảng phải lãnh đạo mọi hoạt động văn hoá và xây dựng văn hoá trong Đảng, để Đảng "là đạo đức, là văn minh", tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc.
3.2. Quan điểm về giữ gìn và tiếp thu văn hóa
a) Giữ gìn cốt cách văn hoá dân tộc
Cốt cách (bản sắc) là bản chất, tính chất đặc biệt vốn có. Cốt cách văn hoá dân tộc là bản sắc của dân tộc, bao gồm những giá trị văn hoá bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp qua hàng nghìn năm lịch sử. Hệ giá trị của cốt cách văn hoá Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn; ý chí tự cường, tự tôn dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn bó cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý; cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống. Bản sắc văn hoá còn được nhìn nhận qua hình thức biểu hiện đậm tính dân tộc, như tiếng nói, tâm lý, phong tục tập quán, cách cảm nghĩ của dân tộc, các hình thức nghệ thuật - lễ hội truyền thống...
Cốt cách văn hoá dân tộc đóng vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nó tạo nên sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù hung bạo, mà theo cách nói của Giáo sư Trần Văn Giàu, đó chính là sức mạnh của "Linh đơn văn hoá Việt Nam". Sức mạnh văn hoá giúp con người khắc phục thiên tai, buộc thiên nhiên phục vụ con người. Văn hoá Việt Nam thể hiện "cốt cách" con người Việt Nam, nét "độc đáo", "đặc trưng", tính cách riêng của dân tộc. Bản sắc văn hoá Việt Nam mà hàng đầu là chủ nghĩa yêu nuớc là ngọn nguồn đi tới văn hoá tiến bộ.
Chúng ta có nhiệm vụ nặng nề nhưng vẻ vang đối với văn hoá dân tộc. Trước hết phải biết trân trọng, giữ gìn, khai thác, phát huy, phát triển những vốn cũ quý báu của cha ông. Còn cái gì không tốt thì phải loại dần ra. Đồng thời phải giới thiệu văn hóa Việt Nam với bạn bè thế giới, theo tinh thần “có vay thì phải có trả”. Cần nhận thức rằng bản sắc văn hoá không phải "nhất thành bất biến", mà nó có sự bổ sung, phát triển. Trong thời đại mới có những giá trị cũ không còn phù hợp, nhưng lại có những giá trị mới được hình thành, phát triển và dần chiếm ưu thế. Vì vậy giữa quý trọng, giữ gìn, khai thác, phát huy, phát triển có mối quan hệ mật thiết với nhau. Giữ gìn không phải là khư khư đóng cửa. Mà khai thác, phát huy, phát triển cũng là một cách giữ gìn. Trong quá trình đó, phải biết tẩy trừ mọi di hại thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hoá đế quốc. Tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại cũng là một cách để giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
*. Tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
"Tiếp biến" (tiếp nhận và biến đổi) văn hoá là một quy luật vì “văn hóa là cái bình thông nhau”. Văn hoá Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hoá Đông phương và Tây phương chung đúc lại. Quan điểm của Hồ Chí Minh là phải mở rộng kiến thức của mình về văn hoá thế giới.
Nội dung tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại là hết sức toàn diện. Trước hết là tiếp thu cả Đông, Tây, kim, cổ, tìm mẫu số chung của các nền văn hoá trên thế giới. Tính toàn diện còn thể hiện ở chỗ tiếp thu nhiều mặt: học thuật tư tưởng như Khổng giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, tư tưởng triết học thời Phục Hưng, Thế kỷ ánh sáng, tư tưởng Găngđi, Tôn Trung Sơn..., đặc biệt nhất là tư tưởng Mác-Lênin. Ngoài ra còn tiếp thu khoa học, văn học nghệ thuật, kiến trúc hội hoạ, danh nhân văn hoá.
Mục đích tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại là trau dồi cho văn hoá Việt Nam giàu đẹp, hợp với tinh thần dân chủ.
Tiêu chí tiếp thu là tiếp thu cái hay, cái tốt. Giữa văn hoá dân tộc và văn hoá nhân loại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cả hai đều chứa đựng những giá trị văn hoá trường tồn, nhưng luôn luôn phải lấy văn hoá dân tộc làm gốc. Chỉ trên cơ sở biết trân trọng, giữ gìn, phát huy, phát triển văn hoá dân tộc thì mới có thể "đi tới được cái nhân loại".
3.3. Quan điểm về tính chất của nền văn hoá mới
Nhìn một cách tổng quát, tính chất của nền văn hoá mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nền văn hoá dân chủ mới, kháng chiến và xã hội chủ nghĩa. Đó phải là nền văn hoá "hợp với khoa học và nguyện vọng của dân".
Trước Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền văn hoá dân tộc với năm điểm lớn:
+ Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
+ Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
+ Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
+ Xây dựng chính trị: dân quyền.
+ Xây dựng kinh tế.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền văn hoá có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người chủ trương xây dựng nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc.
Như vậy, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền văn hoá mới hết sức toàn diện, có kế thừa và phát triển những giá trị của văn hoá dân tộc, vừa tạo ra những nội dung mới, tiến bộ. Tựu trung lại, đó là nền văn hoá dân tộc, khoa học, tiến bộ, nhân văn.
3.4. Quan điểm Hồ Chí Minh về văn hoá trên một số lĩnh vực chính
Văn hoá có mặt trong tất cả các lĩnh vực hoạt động. Sau đây chúng ta sẽ lần lượt khảo sát quan điểm Hồ Chí Minh về văn hoá trên một số lĩnh vực chính.
Thứ nhất: Văn hoá giáo dục
Hồ Chí Minh xác định giáo dục là một mặt trận. Tính chất của mặt trận thể hiện ở khâu tổ chức - quản lý, ở người dạy và người học, ở ngay chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy và học của giáo dục.
Trước hết, giáo dục phải thực hiện tốt 3 chức năng của văn hoá bằng giáo dục: 1. Bồi dưỡng tư tưởng và tình cảm cách mạng. 2. Nâng cao dân trí. 3. Xây dựng những phẩm chất tốt đẹp cho con người.
Tính chất mặt trận văn hoá giáo dục không chỉ ở chỗ xây dựng, bồi dưỡng mà còn phải tập trung chống. Chẳng hạn khi bồi dưỡng lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tình cảm yêu nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức, thì phải chống phai nhạt lý tưởng, quan liêu, tham ô, lãng phí. Bởi vì một khi đã phai nhạt lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thì con người trở nên nhỏ bé, tầm thường, không còn có ý nghĩa gì trong cuộc hành trình của lịch sử. Giáo dục trong quan niệm của Hồ Chí Minh không chỉ giáo dục cái chân, cái thiện, cái mỹ, mà còn phải làm cho người học thấy rõ cái ác, cái xấu, cái phi nhân tính để ghê tởm, xa lánh và đấu tranh loại bỏ.
Mặt trận văn hoá giáo dục thể hiện ở mục tiêu giáo dục, nhằm đào tạo lớp người cách mạng, những con người mới của chế độ mới. Thực chất của việc học là để làm việc, làm người, làm cán bộ, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Văn hoá giáo dục phải đào tạo lớp người làm chủ xã hội, thừa kế sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh để "sánh vai cùng các cường quốc năm châu, theo kịp các nước trên hoàn cầu".
Mặt trận giáo dục còn phải "cải tạo trí thức cũ", "đào tạo trí thức mới", "trí thức hoá công nông". Xây dựng đội ngũ trí thức đông về số lượng, mạnh về chuyên môn, vững vàng về chính trị, tư tưởng là một nhiệm vụ vẻ vang của văn hoá giáo dục.
Nội dung của mặt trận văn hoá giáo dục toàn diện, khoa học, phù hợp với thực tiễn từng giai đoạn của đất nước, vừa đáp ứng tốt nhiệm vụ trước mắt, từng thời kỳ, vừa có tính chiến lược lâu dài. Giáo dục như vậy phải bao gồm cả văn hoá, chuyên môn, chính trị, đạo đức, khoa học kỹ thuật.
Phương pháp, phương châm giáo dục cũng phải thể hiện rõ tính chất của nền giáo dục cách mạng. Lý luận gắn với thực tế; học đi đôi với hành; phối hợp ba khâu gia đình - nhà trường - xã hội; học mọi lúc, mọi nơi, mọi người; tự học, tự đào tạo và đào tạo lại; thực hiện dân chủ và thi đua trong giáo dục; học suốt đời. Người đi giáo dục cũng phải được giáo dục...
Mặt trận giáo dục có ý nghĩa to lớn ở việc không ngừng nâng cao đảng trí, tức là giáo dục cho cán bộ, đảng viên nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác-Lênin; học tập văn hoá, khoa học kỹ thuật, kinh tế, quản lý, để Đảng “vừa đạo đức, vừa văn minh”
Thứ hai: Văn hoá văn nghệ
Văn nghệ (văn học nghệ thuật) là biểu hiện tập trung nhất của văn hoá, là đỉnh cao của đời sống tinh thần, là hình ảnh của tâm hồn dân tộc. Hồ Chí Minh đã khai sinh ra nền văn nghệ cách mạng Việt Nam và bản thân Người là chiến sĩ tiên phong của nền văn học, nghệ thuật cách mạng Việt Nam. Mặt trận văn hoá văn nghệ được thể hiện trên những quan điểm chủ yếu sau:
Tính chiến đấu: Tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới theo tinh thần "nhân sĩ là chiến sĩ"; "nay ở trong thơ nên có thép. Nhà thơ cũng phải biết xung phong".
Tính chân thực: Hồ Chí Minh dạy rằng "xã hội thế nào văn nghệ thế ấy". Văn nghệ sĩ phải bám sát cuộc sống để miêu tả cho hay, cho thật, cho hùng hồn, không thể tuỳ ý tưởng tượng ra thế nào cũng được.
Tính dân tộc, tính nhân dân, tính thời đại: Văn nghệ phải ăn sâu vào tâm lý quốc dân; phải trở về với cuộc sống thực tại của con người, thể hiện được "đặc tính dân tộc", "cốt cách dân tộc", "thuần tuý Việt Nam". Đồng thời phải xứng đáng với thời đại mới được mở ra từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tính đảng: Đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, thấu suốt chủ nghĩa Mác- Lênin, văn nghệ phục vụ lợi ích của Đảng, của dân tộc.
Hình thức biểu hiện của văn nghệ phải trong sáng, giản dị, không lạm dụng tiếng nước ngoài, cố gắng dùng tục ngữ, ca dao. Tránh dài dòng, rỗng tuếch.
Thứ ba: Sự nghiệp báo chí
Theo quan điểm mácxit, báo chí cách mạng thực sự là vũ khí chiến đấu của giai cấp vô sản, cơ quan tuyên truyền, tham gia vào việc tổ chức và phát triển xã hội: người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể. Giống như các bậc thầy và khác xa Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hồ Chí Minh bắt đầu cuộc đời hoạt động của mình bằng tiếng nói đấu tranh của báo chí. Hệ thống quan điểm báo chí của Hồ Chí Minh có thể tóm tắt như sau.
Một là: Tự do báo chí là quyền lợi tinh thần to lớn của một dân tộc, một đất nước
Với nhận thức báo chí là hoạt động tinh thần quan trọng của xã hội, là diễn đàn để nhân dân, biểu thị ý chí, nguyện vọng; thước đo tinh thần dân chủ; gương mặt rõ nét về trình độ văn hóa- khoa học, Hồ Chí Minh đã phê phán chế độ thực dân đàn áp báo chí: “Giữa thế kỷ XX này, ở một nước có đến 20 triệu dân mà không có lấy một tờ báo! Các bạn có thể tưởng tượng được như thế nào không? Không có lấy một tờ báo bằng tiếng mẹ đẻ của chúng tôi”.
Bản chất của báo chí là gắn cuộc đấu tranh với những khuynh hướng chính trị khác nhau. Theo Lênin, nếu “không có xu hướng là một điều lố lăng, phi lý, chướng tai gai mắt và có hại”. Chính quyền Pháp ở Đông Dương cấm ngặt những tờ báo đả động đến chuyện chính trị hay liên quan đến chính trị. Chúng kiểm duyệt cả chuyện kinh tế, chuyện sinh hoạt hằng ngày. Vì chúng biết đằng sau những vấn đề kinh tế, sinh hoạt hằng ngày là quan điểm chính trị, khai thác có ý nghĩa chính trị.
Nguyễn ái Quốc đã phê phán tình trạng mất tự do của báo chí; phê phán tình trạng đàn áp báo chí và các nhà báo; “không cho đọc báo Nhật, báo Trung Quốc. Nếu đọc, bị kết án khổ sai chung thân”
Hai là: Nhiệm vụ của báo chí là phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng
Báo chí phải có ý thức về xu hướng chính trị của mình. Bởi vì, người làm báo là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ. Nhân tố quyết định là tư tưởng và lập trường chính trị vững chắc, đường lối chính trị đúng.
Ba là: Báo chí phải có đặc điểm riêng
Mục đích chung của báo chí là phục vụ sự nghiệp chống phong kiến, đế quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thống nhất nước nhà, thực hiện hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ thế giới.
Tuy nhiên, báo chí nên có đặc điểm riêng phù hợp tâm lý, lứa tuổi, nghề nghiệp từng tầng lớp như công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ … Nếu không như vậy, báo chí thành khô khan.
Nội dung và hình thức tạo nên sự hấp dẫn của báo chí sẽ gây được dư luận và sự đồng cảm của người đọc. Chân thật không chỉ là việc thật, mà tùy điều kiện. Khi sinh hoạt cao hơn, người ta cần “thấy hay, thấy lạ, thấy văn chương thì thích đọc”.
Bốn là: Cách viết, nghệ thuật ngôn từ của báo chí
Để có cách viết và nghệ thuật ngôn từ tốt, cần nắm được đối tượng phục vụ từng giai đoạn khác nhau. Thí dụ: đầu thế kỷ XX, chủ yếu là người Pháp. Giai đoạn 1941-1945 chủ yếu là nông dân địa bàn miền núi. Từ 1945 trở đi, đối tượng là đồng bào cả nước
Viết để cho người đọc hiểu được, nhớ được. Muốn vậy, phải viết đúng trình độ, lứa tuổi, rõ ràng, ngắn gọn, chớ dùng chữ nhiều.
Khi cầm bút, phải chú ý đặt các câu hỏi: Vì ai mà viết? Mục đích viết làm gì? Viết cái gì? Lấy tài liệu đâu mà viết? Viết như thế nào? Toàn bộ bài báo phải trả lời được các câu hỏi đó. Thí dụ: Viết cái gì? Nêu cái hay, cái tốt của dân tộc, bộ đội, cán bộ và phê phán cái xấu.
Năm là: Cán bộ báo chí phải rèn luyện
Cán bộ làm báo phải coi trọng việc phê bình và tự phê bình. Lập trường, tư tưởng vững vàng. Nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ. Phân biệt rõ địch- ta, bạn- thù, tốt- xấu, đúng- sai, phải- trái... Không ngừng nâng cao trình độ lý luận Mác – Lênin, thường xuyên học tập về chính trị, văn hóa, nghiệp vụ, ngoại ngữ (ít nhất là phải biết một thứ tiếng nước ngoài để xem báo và học kinh nghiệm báo chí nước ngoài). Học ở trường, trong đời sống, đồng nghiệp, quần chúng, tự học. Phải gần gũi quần chúng lao động, đi sâu vào thực tế, “từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”. Thường xuyên tu dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng, khắc phục chủ nghĩa cá nhân, danh lợi, quyền hành. Phải rèn luyện cách viết của một nhà báo vô sản: đậm đà tính dân tộc, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp, tính hiện đại. Chứa chan tính quần chúng, hừng hực tinh thần chiến đấu. Hình thức sinh động, giản dị, dễ hiểu. Nhờ anh em xem, nhất là những người có trình độ học vấn thấp, nếu họ không hiểu thì phải sửa. Có quyết tâm, luôn luôn cố gắng vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ, không sợ khó khăn, gian khổ.
Thứ tư: Văn hoá đời sống
Đời sống mới bao gồm cả đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ yếu.
Văn hoá đời sống trước hết phải có lý tưởng, có đạo đức; một lối sống văn minh, tiên tiến, hài hoà giữa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá của nhân loại. Một lối sống có tinh thần làm chủ - làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân. Có tinh thần tương thân, tương ái, sẻ cơm, nhường áo, "lá lành đùm lá rách", "tối lửa tắt đèn có nhau".
Đạo đức mới, lối sống mới là phải đặt lợi ích của nước, của dân lên hàng đầu; thực hành cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, yêu thương con người - "mình vì mọi người, mọi người vì mình", chống chủ nghĩa cá nhân.
Lối sống mới đòi hỏi người cán bộ cách mạng "ít lòng tham muốn về vật chất, về chức - quyền - danh - lợi". Biết tôn trọng và vươn tới cái chân - cái thiện - cái mỹ. Khiêm tốn, giản dị, điều độ. Có tấm lòng khoan dung, độ luợng, với người thì khoan thứ, với mình thì nghiêm khắc.
Thứ năm: Văn hóa chính trị
Văn hóa bao trùm tất cả các mặt của đời sống, nên chúng ta có thể nói về văn hóa theo các mặt riêng biệt của cuộc sống.Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải đứng trong chính trị. Văn hóa chính trị đóng vai trò đặc biệt lớn, thậm chí là lớn nhất trong các lĩnh vực văn hóa cụ thể.
Chính trị không phải là triết học, không phải là quản lý; nhà chính trị không phải là nhà quản lý. Mà chính trị là: Thứ nhất: một hình thái ý thức xã hội. Thứ hai: một bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, chính trị là một hoạt động đặc biệt để giải quyết mối quan hệ giữa các giai cấp, các tập đoàn xã hội trong một quốc gia và quốc tế (mà vấn đề cơ bản là giành và giữ chính quyền); để tập hợp các tổ chức chính trị xã hội và của người dân vào giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Như vậy, chính trị là một hoạt động mang tính đại diện: đại diện cho cộng đồng và giải quyết mối quan hệ với các cộng đồng khác. Và vì vậy, quần chúng nhân dân như là một phạm trù của văn hóa chính trị.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin thì mọi hoạt động văn hoá đều có tính chính trị, ý nghĩa chính trị. Mặt khác, chính trị phải thấm sâu vào mọi hoạt động của văn hoá. Điều này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Bởi vì mọi hoạt động văn hoá đều gắn liền với đời sống thực tiễn kinh tế, chính trị, xã hội. Không có thứ "văn học vị nghệ thuật", chỉ có "văn học vị nhân sinh". Chẳng hạn kế sách diệt giặc dốt, giáo dục nhân dân thực hành cần kiệm liêm chính, tự do tín ngưỡng, không hút thuốc phiện... vừa hoạt động văn hoá, vừa có ý nghĩa chính trị, đều vì hạnh phúc con người.
Văn hoá chính trị được hiểu là toàn bộ những thiết chế, cơ chế chính trị và hành động chính trị, được nhìn nhận dưới góc độ văn hoá, tạo nên những hoạt động chính trị có văn hóa. Như vậy, văn hóa chính trị không phải là bản thân chính trị mà là chính trị có văn hóa, tức là chính trị tác động vào con người và xã hội như một sức mạnh văn hóa, sức mạnh đó không dựa vào quyền lực mà là hợp chất lý và tình, tổng quát và đơn lẻ, dựa vào sự cảm hóa con người, thức tỉnh lương tri, lay động tâm tư, tình cảm con người, từ thuyết phục đi tới chinh phục và thu phục con người.
Nội dung văn hoá chính trị Hồ Chí Minh phong phú. Đó là văn hóa yêu nước, thương dân, tất cả vì độc lập, tự do, hạnh phúc của con người. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh thể hiện bằng con đường nhân đạo để đạt mục đích chính trị và vì thế, nó chứa đựng những giá trị nhân văn cao quý. Đó là tính công khai, dân chủ, - một nền văn hoá chính trị "sao cho được lòng dân". Điều này liên quan tới cả hệ thống chính trị và từng cán bộ, đảng viên như là điều kiện để xây dựng văn hoá chính trị. ứng xử rất văn hóa với các đối tượng. Đoàn kết rộng rãi các giai tầng, tôn trọng tôn giáo, tín ngưỡng. Đảng phải có gan thừa nhận khuyết điểm, có tư duy phê phán sáng tạo, tiếp thu di sản tinh thần của thời đại. Trình độ vận dụng phép biện chứng duy vật để giải quyết các vấn đề dân tộc và giai cấp, truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại…
Điều quan trọng là phải xây dựng văn hóa Đảng cầm quyền, chú trọng nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin. Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, nhưng vận dụng sáng tạo, chứ không rập khuôn, giáo điều. Đồng thời phải chống tư tưởng và hành động phản văn hoá, chống chủ nghĩa cơ hội, chống những luận điệu thù địch bóp méo và xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh xác định mọi hoạt động chính trị luôn đặt con người ở vị trí trung tâm, do dân, vì dân.
II. Quan điểm về xây dựng con người mới
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin và bằng thực tiễn cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh quan niệm con người vừa là con người xã hội, có tính xã hội, ý thức xã hội vừa là con người sinh vật.
Con người xã hội có nhiều phạm vi: hẹp (gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn..), rộng (đồng bào cả nước), rộng hơn nữa (loài người). Có con người cá nhân và con người cộng đồng: gia đình, họ hàng, làng xã, Tổ quốc, nhân loại. Có con người công dân và con người cán bộ, đảng viên. Con người xã hội bao giờ cũng sống trong một hình thái kinh tế- xã hội nhất định, bị chi phối bởi tư tưởng của giai cấp thống trị, nhưng vẫn có tư duy độc lập. Con người sinh ra có những quyền được tạo hóa ban cho và suy rộng ra, các dân tộc cũng có những quyền đó, như quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Con người ai cũng có tính tốt tính xấu, “người thế này người thế khác”, không phải thánh thần. Con người có nhiều chiều quan hệ: với cộng đồng- là thành viên; với một chế độ xã hội- làm chủ hay bị áp bức; với tự nhiên- là một bộ phận không tách rời, gắn với quá trình “người hóa” tự nhiên. Bản chất con người và bản chất giai cấp của con người có quan hệ với nhau, nhưng không đồng nhất. Dù văn minh hay dã man, con người đều có tình. Bản chất giai cấp của con người và thành phần xuất thân cũng có mối quan hệ, nhưng không đồng nhất. Quan hệ sản xuất là quan hệ quan trọng nhất trong các quan hệ xã hội, vì nó đóng vai trò chi phối bản chất con người.
Con người sinh vật có những nhu cầu tối thiểu chính đáng, như ăn, uống, “dân dĩ thực vi thiên” (dân lấy ăn làm trời), “có thực mới vực được đạo”, “dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”...
Nhận thức đúng đắn về con người không chỉ là ở chỗ con người có yếu tố xã hội và có yếu tố sinh vật, mà còn phải thấy tính thống nhất, sự tương tác giữa hai mặt đó. Con người là một sinh vật- xã hội, sinh vật có tính xã hội. Con người lao động sản xuất biến đổi tự nhiên, hình thành ý thức, ngôn ngữ và ý thức thay thế bản năng. Quá trình “người hóa” đó làm cho cái sinh vật được cải tạo nhưng không hề bị xóa bỏ. Theo C. Mác, “trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Nhưng tuyệt đối hóa bản chất con người xã hội, không thấy tính đa dạng, chiều sâu tâm hồn con người, làm mất tính và tình người, sẽ dẫn tới tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp, đấu tranh tư tưởng; nhân danh “cách mạng” để đấu đá quá khích. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa bản chất con người sinh vật sẽ dẫn tới chủ nghĩa tự do, lối sống thực dụng, nhấn mạnh mặt bản năng, mặt vô thức; phê phán việc đề cao đạo đức, lối sống có kỷ cương, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh giai cấp.
Đó là hai khuynh hướng sai lầm không thể chấp nhận trong tư duy về con người. Hồ Chí Minh thật sự có một minh triết về con người, về dân, định hướng cho những kế sách đúng đắn trong xây dựng đất nước.
Con người trong quan niệm Hồ Chí Minh là con người lịch sử - cụ thể. Những năm 20, đó là con người bản xứ, nô lệ, bị áp bức, vô sản. Sau Cách mạng Tháng Tám, Người thường viết nhân dân, dân, đồng bào, quần chúng nhân dân. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, đó là những người lao động chân tay, trí óc, công nhân, nông dân tập thể, người chủ.
2. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng
a. Con người là mục tiêu
Dưới ách thống trị, xâm lược của chủ nghĩa thực dân, con người phải được giải phóng khỏi gông cùm nô lệ cùng với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sau khi giành được độc lập, phải tiếp tục xóa bỏ sự thống trị, áp bức, bóc lột của giai cấp này đối với giai cấp khác; xóa bỏ sự bất công, bất bình đẳng xã hội; xóa bỏ nền tảng kinh tế- xã hội đẻ ra sự bóc lột giai cấp... để tiếp tục giải phóng con người trong sự nghiệp giải phóng giai cấp cần lao. Cuối cùng, từng cá nhân phải được giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công, được hạnh phúc, tự do, được phát triển toàn diện, trở thành người làm chủ xã hội. Đó chính là quá trình thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
b. Con người là động lực
Trên cơ sở phân tích đầy đủ ưu, nhược điểm các giai cấp, Hồ Chí Minh có lòng tin nhân dân có khả năng tự giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì lực lượng quần chúng nhân dân nhiều vô kể; họ rất tốt; giàu tư tưởng, tình cảm cách mạng; tài năng, trí tuệ, sáng tạo. Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên.
3."Trồng người" là chiến lược hàng đầu
a. "Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người XHCN".
+ CNXH sẽ tạo ra những con người XHCN, những con người XHCN lại là chủ thể của toàn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH.
+ Không phải chờ cho kinh tế, văn hoá phát triển cao rồi mới xây dựng con người XHCN, cũng không phải xây dựng xong những con người XHCN rồi mới xây dựng CNXH. Việc xây dựng con người XHCN phải đặt ra ngay từ đầu và phải được Đảng, Nhà nước, nhân dân, mỗi gia đình và cá nhân đặc biệt quan tâm trong suốt tiến trình xây dựng CNXH.
+ Trước hết cần có những con người XHCN, điều đó không có nghĩa là tất cả phải và có thể trở thành con người XHCN thật đầy đủ, thật hoàn chỉnh ngay một lúc. Trước hết cần có những con người tiên tiến, có được những nét tiêu biểu của con người mới XHCN, có thể làm gương cho người khác, từ đó lôi cuốn xã hội đẩy mạnh việc xây dựng con người mới XHCN và những con người tiên tiến đó không ngừng hoàn thiện, nâng cao.
b. Vì lợi ích 100 năm thì phải "trồng người".
Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo, phát triển quan điểm của Quản Di Ngô thời Xuân Thu: "Thập niên chi kế mạc nhi thụ mộc, bách niên chi kế mạc nhi thụ nhân".
+ “Trồng người”, xây dựng con người mới phải được thường xuyên đẩy mạnh trong suốt tiến trình đi lên CNXH, và phải đạt được những kết quả cụ thể qua từng chặng đường của thời kỳ quá độ. Thấy được cái tốt để phát huy. Vạch rõ cái chưa tốt để khắc phục. Không được sao nhãng việc “trồng người”. Bởi vì, “một ngày mà quên giáo hoá, ta lùi về gần thú tính ngay” (R. Tagore).
+ “Trồng người”, xây dựng con người mới XHCN phải được đặt trong suốt cuộc đời mỗi người. Đây vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của mỗi người đối với sự nghiệp xây dựng đất nước. Đó là một quá trình trưởng thành, nâng cao không ngừng, vươn lên mãi của mỗi người.
+ Nội dung “trồng người” hết sức toàn diện. Tiêu chuẩn con người mới XHCN theo quan điểm Hồ Chí Minh bao gồm:
Một là, có tư tưởng XHCN: Có ý thức làm chủ; có tinh thần XHCN; có tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”; có tinh thần “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”; có tinh thần dám nghĩ, dám làm, vươn lên hàng đầu.
Hai là, có đạo đức và lối sống XHCN: Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; có tinh thần quốc tế trong sáng; có lối sống lành mạnh trong sạch. Có tinh thần trách nhiệm. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Có tinh thần phục vụ nhân dân. Chống chủ nghĩa cá nhân, tham ô, lãng phí, quan liêu.
Ba là, có tác phong XHCN: Lao động có kế hoạch, có biện pháp, có quyết tâm, có tổ chức, có kỷ luật, có kỹ thuật; lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả; lao động quên mình không sợ khó, sợ khổ, vì lợi ích của xã hội, của tập thể và của bản thân.
Bốn là, có năng lực để làm chủ bản thân, gia đình và công việc mà mình đảm nhiệm, để từ đó làm chủ Nhà nước và xã hội. Phải không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ để làm chủ. Muốn xây dựng CNXH nhất định phải có học thức. CNXH gắn liền với sự phát triển khoa học - kỹ thuật và CNXH kết hợp với khoa học nhất định đưa loài người tới hạnh phúc vô tận.
Năm là, con người phải có sức khỏe với đầy đủ ý nghĩa của nó, gồm thể chất và tinh thần.
4. Biện pháp xây dựng con người mới
Trước hết, mỗi người tự tu dưỡng, rèn luyện. Đây là việc làm hằng ngày như việc rửa mặt. Tu dưỡng bền bỉ suốt đời, gắn với công việc và thực tiễn cách mạng.
Nội dung tu dưỡng chủ yếu là xây đi đôi với chống; tự phê bình. Xây các đức tính tốt như cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; ý thức tổ chức, ý thức kỷ luật, tinh thần phục vụ nhân dân. Chống lười biếng, lãng phí, quan liêu, tham ô, bất chính, chủ nghĩa cá nhân, bảo thủ rụt rè...
Hai là, dựa vào vai trò các tổ chức của hệ thống chính trị; kết hợp giáo dục gia đình, nhà trường, xã hội.
Ba là, thông qua các phong trào các mạng như phong trào “Thi đua yêu nước”, làm sách “người tốt việc tốt”...
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và xây dựng con người mới với việc xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
1. Thực trạng văn hoá Việt Nam
a. Thành tựu
Đại hội X chỉ rõ: Giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển và được đầu tư nhiều hơn. Cơ sở vật chất được tăng cường. Quy mô đào tạo mở rộng, nhất là ở bậc trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Trình độ dân trí được nâng lên.
Khoa học và công nghệ góp phần tích cực vào việc hoạch định đường lối, chính sách, điều tra đánh giá tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học, nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới phục vụ phát triển kinh tế- xã hội và quốc phòng, an ninh.
Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, báo chí, xuất bản góp phần tích cực động viên toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao kiến thức và chất lượng cuộc sống. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, các phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người có công, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh, gia đình liệt sĩ, các hoạt động nhân đạo, từ thiện... thu hút sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân.
Đặc biệt, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo và phát triển ngày càng tỏ rõ giá trị bền vững của một học thuyết cách mạng và khoa học, làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng nước ta. Từ đó tạo ra sự nhất trí trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhiều nét mới có giá trị văn hoá đạo đức được hình thành và từng bước phát triển: tính năng động trong hoạt động kinh tế - xã hội, tính tích cực công dân được khơi dậy và phát huy thay cho tâm lý thụ động, ỷ lại. Thế hệ trẻ có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp. Mặt bằng dân trí được nâng cao; năng lực, sở trường cá nhân được khuyến khích; không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội tăng lên; phong trào hướng về cội nguồn, tưởng nhớ anh hùng dân tộc, đền ơn đáp nghĩa ngày càng phát huy hiệu quả. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở gia đình, khu dân cư được nhân dân hoan nghênh, hưởng ứng...
b. Hạn chế
Một số giá trị văn hoá và đạo đức suy giảm; sự suy thoái, sa đoạ về tư tưởng và đạo đức, lối sống trong bộ phận không ít cán bộ có chức có quyền. Họ cơ hội, luồn lách, dối trá, nịnh bợ, bè cánh, chạy theo chức, quyền, danh, lợi, mắc các tội lỗi tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Nhiều tệ nạn xã hội phát triển: buôn lậu, ma tuý, mại dâm, mê tín dị đoan, nhiều hủ tục cũ, mới lan tràn. Một bộ phận thanh niên đang tụt dốc về văn hoá. Chất lượng giáo dục và đào tạo thấp so với yêu cầu. Mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học, sách giáo khoa, thi cử, trình độ quản lý... có nhiều thiếu sót; trong giáo dục và đào tạo có nhiều hiện tượng tiêu cực đáng lo ngại.
Với tâm lý sùng ngoại, nhiều người chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân ích kỷ. Họ coi thường những giá trị văn hoá dân tộc, phủ nhận thành quả cách mạng.
Đời sống văn hoá nghệ thuật còn nhiều bất cập; có xu hướng thương mại hoá, tách văn nghệ khỏi chính trị, chạy theo thị hiếu không lành mạnh.
c. Nguyên nhân của thực trạng yếu kém
Có nguyên nhân khách quan và chủ quan. Đáng quan tâm là nguyên nhân chủ quan, trong đó có vấn đề xác định chiến lược văn hoá chưa ngang tầm vị trí, vai trò của văn hoá trong đời sống . Trong việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, chưa nhận thức đầy đủ và khai thác hết giá trị văn hoá Hồ Chí Minh. Còn bộc lộ những hạn chế trong việc nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục, đặc biệt là làm theo tấm gương Hồ Chí Minh.
2. Phương hướng và một số giải pháp cụ thể.
a. Phương hướng, quan điểm chung
Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII (7-1998) nêu phương hướng và các quan điểm chỉ đạo cơ bản.
*Phương hướng: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”.
Những quan điểm chỉ đạo cơ bản:
Thứ nhất: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội
Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Không gắn kết giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển bền vững.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện.
Văn hóa không chỉ là kết quả của kinh tế mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Văn hóa theo nghĩa rộng chính là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển.
Thứ hai: Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người.
Bản sắc dân tộc bao gồm những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự tôn, tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý... Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo như cách cảm, cách nghĩ của dân tộc, phong tục tập quán, lễ hội...
Thứ ba: Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam
Hơn 50 dân tộc anh em có những sắc thái văn hóa riêng, có sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam, củng cố sự thống nhất dân tộc.
Thứ tư: Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng
Cách mạng Việt Nam, xây dựng nền văn hóa Việt Nam là sự nghiệp của mọi người Việt Nam. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa. Đội ngũ trí thức với vai trò, chức năng của mình giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Thứ năm: Văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng
Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo những giá trị văn hóa mới, làm cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân, tạo dựng một xã hội văn hóa, không thể một sớm một chiều mà là một quá trình cách mạng lâu dài, nhiều khó khăn, gian khổ.
Cuộc đấu tranh trên mặt trận văn hóa phải thể hiện tính chiến đấu, gắn bó chặt chẽ giữa “xây”và “chống”, lấy “xây”làm chính. Xây dựng, biểu dương những cái tốt, chống lại mọi thói hư, tật xấu, giặc nội xâm.
* Những bổ sung và cái mới về văn hóa trong Đại hội X (4-2006)
Trên cơ sở phương hướng chung, 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản và 10 nhiệm vụ cụ thể được nêu lên trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (7-1998), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4-2006) xác định “Phát triển văn hóa- nền tảng tinh thần của xã hội”. Nhiệm vụ phát triển văn hóa được đặt trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010 với tinh thần chung là “tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” Cụ thể:
-“Làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân”.
- Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa- nền tảng tinh thần của xã hội.
- Đặc biệt coi trọng nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong kinh doanh và văn hóa trong nhân cách của thanh niên, thiếu niên; chống những hiện tượng phản văn hóa, phi văn hóa.
- Đẩy mạnh việc xây dựng đời sống văn hóa đại chúng và môi trường văn hóa lành mạnh.
- Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản và phát hành sách.
- Mở rộng giao lưu văn hóa, thông tin với thế giới.
b. Một số giải pháp lớn xây dựng và phát triển văn hóa
Thứ nhất: Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng văn hóa".
- Giáo dục về tầm quan trọng, sự cần thiết và cấp bách của sự nghiệp xây dựng văn hóa.
- Giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với phong trào thi đua yêu nước và giáo dục về chủ nghĩa xã hội, về nhiệm vụ hiện nay của đất nước.
- Nội dung phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, đó là phong trào ‘Người tốt việc tốt”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Xóa đói giảm nghèo”, xây dựng gia đình văn hóa, làng, xã, phường văn hóa.
Thứ hai: Xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa.
- Xây dựng, ban hành luật pháp.
- Xây dựng, ban hành các chính sách: Chính sách kinh tế trong văn hóa. Chính sách văn hóa trong kinh tế. Chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa. Chính sách bảo tồn, phát huy di sản văn hóa. Chính sách khuyến khích sáng tạo trong các hoạt động văn hóa. Chính sách đặc thù, hợp lý, hợp tình cho những loại đối tượng xã hội cần được ưu đãi tham gia và hưởng thụ văn hóa. Chính sách cụ thể về hợp tác quốc tế.
Thứ ba: Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa.
- Tăng mức đầu tư cho văn hóa từ nguồn chi thường xuyên và nguồn chi phát triển trong ngân sách nhà nước.
- Thực hiện các chương trình có mục tiêu về văn hóa nhằm đầu tư có trọng điểm, giải quyết các vấn đề có tính cấp bách.
- Củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy cán bộ của các cơ quan lãnh đạo, quản lý, tham mưu, các đoàn thể, các tổ chức nghề nghiệp của hoạt động văn hóa từ trung ương đến cơ sở.
Thứ tư: Nâng cao tầm và hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước.
- Nhận thức đúng đắn về vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, xây dựng xã hội mới.
- Thường xuyên chăm lo việc nâng cao nhận thức, hiểu biết về lý tưởng cách mạng, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm cho văn hóa, văn học nghệ thuật báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, vừa bảo đảm thực hiện quyền tự do dân chủ cá nhân trong sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật...
- Phát huy vai trò các tổ chức đoàn thể quần chúng, các tổ chức sáng tạo văn hóa- văn nghệ...
- Đặt mạnh việc giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
- Gương mẫu, tự phê bình và phê bình là một nội dung, một phương thức trọng yếu trong công việc lãnh đạo của Đảng.
c. Nhiệm vụ số một là xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới
* Những đặc tính của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Xây dựng con người Việt Nam là xây dựng nhân cách của con người Việt Nam với một nội dung toàn diện, phù hợp với mặt bằng và đỉnh cao dân trí của xã hội. Con người Việt Nam nhưng phải có tố chất của công dân toàn cầu, vừa giữ tinh hoa truyền thống của dân tộc, vừa tiếp nhận trí tuệ của thời đại trong kỷ nguyên toàn cầu hóa; vừa đặt mình trong sức mạnh cộng đồng, vừa phải có bản lĩnh phát huy tố chất cá nhân.
Những đặc tính của con người Việt Nam:
+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
+ Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm,trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
+ Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
+ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
*Biện pháp xây dựng con người mới
Xây dựng con người mới là một công trình khoa học lớn, đòi hỏi sự đồng bộ của cả một hệ giải pháp.
Trước hết, mỗi người phải tự tu dưỡng. Tu dưỡng hằng ngày, bền bỉ suốt đời, gắn với thực tiễn cách mạng. Trong khi xây dựng những đức tính tốt, phải có bản lĩnh chống lại mọi thói hư tật xấu như lối sống bàng quan, vị kỷ cá nhân, thiếu tinh thần trách nhiệm. Chống tham nhũng, xa hoa, lãng phí.v.v...
Phải dựa vào sức mạnh tổ chức của cả hệ thống chính trị. Đó là vai trò của chi bộ Đảng, của các tổ chức chính trị- xã hội như công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội thanh niên, sinh viên Việt Nam. Vai trò của giáo dục là quan trọng nhất.
Thông qua các phong trào cách mạng như “Thi đua yêu nước”, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng văn hóa” trong đó có các phong trào như: Người tốt việc tốt, Uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, xây dựng gia đình văn hóa, làng, xã, phường văn hóa.
Tóm lại, xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước ta, đòi hỏi ý chí cách mạng kiên cường, trình độ trí tuệ và tính tự giác cao. Mỗi người Việt Nam yêu nước, trước hết là cán bộ, đảng viên phải nhận thức đúng đắn và làm theo lời dạy của Bác Hồ: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và xây dựng con người mới cần nhận thức đầy đủ ý nghĩa sâu xa trong đoạn viết sau đây của Phạm Văn Đồng: "Nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một kho tàng đầy của báu, là di sản chứa đựng biết bao giá trị, giá trị đó nói cho cùng là di sản văn hoá mà chúng ta khai thác chưa được bao nhiêu". Chúng ta cũng cần khắc sâu lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: "Thế giới đã và sẽ còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong kho tàng văn hoá của nhân loại". Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là nghiên cứu một di sản văn hoá không phải chỉ của quá khứ và hiện tại mà là một nền văn hoá của tương lai. Hồ Chí Minh là "con người kỳ diệu cho mọi thời đại", là "nhân vật trở nên huyền thoại ngay khi còn sống", là "Người chiếu sáng", v.v....Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc và nhân loại một tầm vóc, trí tuệ, bản lĩnh và minh triết về văn hóa.
Bước vào thế kỷ XXI, Đảng và dân tộc ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều này vừa phù hợp với dân tộc Việt Nam- một đất nước có hàng ngàn năm văn hiến, vừa phù hợp với xu thế hội nhập, hợp tác của thời đại. Bởi vì, văn hóa- mà con người là trung tâm- là hành trang có trọng lượng nhất trong nhịp bước cùng thời đại, như UNESCO nhấn mạnh: “Xét đến cùng “Sự thăng hoa của văn hóa là đỉnh cao nhất của sự phát triển”.
(Trong sách " Một số Chuyên đề về tư tưởng HCM,
NXB Lý luận chính trị, HN 2008)