1. Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, các phong trào chống Pháp theo các ngả đường và khuynh hướng khác nhau như phong kiến, nông dân, tư sản, với những gương mặt tiêu biểu như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh lần lượt thất bại. Dân tộc Việt Nam như đứng trước ngõ cụt, không có lối ra. Nhiều sĩ phu yêu nước, tâm huyết trăn trở với sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng bắt đầu chán nản, bi quan, nghi ngờ về những đường hướng cứu nước, giải phóng dân tộc lúc bấy giờ. Họ bộc lộ tâm tư của mình:
“Đêm sao đêm mãi tối mò mò
Đêm đến bao giờ mới sáng cho”.
Đứng trước sự bế tắc về đường lối cứu nước, có người nghĩ tới việc nhờ người Mỹ giúp sức; người khác lại nghĩ đến Nhật; có người nghĩ đến Anh. Đó là những nét chính của bức tranh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trước khi đội tiên phong của giai cấp và dân tộc xuất hiện.
Nguyễn ái Quốc được sinh ra và nuôi dưỡng trong một gia đình nhà Nho yêu nước. Cha đậu Phó bảng nhưng không muốn làm quan, bởi vì theo ông “quan trường thị nô lệ, trung chi nô lệ, hựu nô lệ” (quan trường là nô lệ, trong đám nô lệ, lại càng nô lệ hơn), chỉ đứng về phía dân và muốn cứu vớt dân nghèo. Từ tuổi thiếu niên, với trí tuệ mẫn tiệp và sự nhạy cảm về chính trị, sớm có lòng yêu nước, hoài bão, chí hướng cứu nước cứu dân, lại được tiếp xúc với các bậc cha chú là những sĩ phu yêu nước, căm thù đế quốc phong kiến, cháy bỏng khát vọng độc lập tự do, Nguyến ái Quốc đã sớm tự xác định cho mình con đường phải đi, công việc phải làm để thực hiện mục đích cứu nước, giải phóng đồng bào. Người theo dõi thời cuộc, khâm phục tất cả những người đi trước, chắt lọc và rút kinh nghiệm ở họ, nhưng không hoàn toàn tán thành một cách làm nào. Người xác định phải đi ra nước ngoài theo tinh thần lời khuyên “muốn bắt cọp thì phải vào hang cọp”, khám phá thế giới, tìm hiểu những gì ẩn giấu đằng sau các khái niệm đẹp đẽ như Tự do- Bình đẳng- Bác ái, rồi tìm cách trở về giúp đồng bào. ở độ tuổi thiếu niên, Hồ Chí Minh đã có tầm nhìn thế giới, mà là thế giới phương Tây chứ không quẩn quanh khu vực châu á hàng ngàn năm ngự trị chế độ phong kiến chuyên chế, bế quan tỏa cảng, không hề có khái niệm dân chủ, cách mạng, tiến bộ. Người không nhìn theo hệ quy chiếu “đồng văn đồng chủng” kiểu Phan Bội Châu dựa vào Nhật Bản, mặc dù ở châu á lúc đó Nhật Bản đã làm nên kỳ tích “Minh trị duy tân” và vươn lên thành một đế quốc hùng cường. Người đã có bản lĩnh ra nước ngoài xem cho rõ, tới tận ngọn nguồn, không choáng ngợp trước nền văn minh phương Tây và sẵn sàng tiếp nhận trí tuệ thời đại. Trí tuệ và tư duy của Người là tự mình quan sát, nghiên cứu để tìm cách giải quyết các vấn đề cho phù hợp chứ không mang tâm lý ỷ lại, dựa vào người này, người kia.
Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước đã mang theo hành trang của mình những yếu tố có trọng lượng nhất của nền văn hóa Việt Nam hàng ngàn năm, đó là chủ nghĩa dân tộc mà hạt nhân là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc cùng với chủ nghĩa nhân đạo truyền thống, bản lĩnh dân tộc, thái độ nhân văn. Bản lĩnh dân tộc ta là “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”, sẵn sàng tiếp nhận tinh hoa nhân loại. Đó chính là động lực thúc đẩy Người ra đi thực hiện hoài bão của mình, vượt qua nhiều thác ghềnh trên đường thực hiện mục tiêu đã định.
2. Một thanh niên xứ Nghệ, tuổi 21, trình độ học vấn tiểu học, một vốn tiếng Pháp tối thiểu, sự hiểu biết xã hội và cọ xát thực tiễn chưa nhiều, không tiền, không người thân đi cùng, một mình với hai bàn tay, dám lên tàu buôn thực dân ra biển lớn. Hướng đi là phương Tây, mục đích là tìm hiểu thế giới “người ta làm thế nào” rồi trở về giúp đồng bào xóa ách xâm lược, còn lại tất cả đang là phía trước. Câu chuyện về con người đó trở thành huyền thoại. Bởi vì, ngay giờ đây, trong thế kỷ XXI, cũng khó tìm ra một con người như vậy. Hiện tượng Nguyễn ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước chỉ có thể được giải thích bằng lòng khát khao độc lập tự do, bằng tầm nhìn, tư duy, trí tuệ và bản lĩnh. Mà câu chuyện không chỉ có ra đi tìm đường cứu nước.
Nguyễn ái Quốc đã có mặt ở hầu khắp các nước tư bản như Pháp, Mỹ, Anh; có mặt ở nhiều nước thuộc địa châu á, châu Phi, châu Mỹ Latinh. Người tiếp xúc với nhiều hạng người từ công nhân, nông dân, nhà buôn đến các trí thức, học giả, chính khách, nhà báo, nhà cách mạng chuyên nghiệp…
Bằng trí tuệ và sự mẫn cảm về chính trị, Người tự phân tích, đánh giá ý nghĩa của các sự kiện lớn trên thế giới, đặc biệt là các cuộc cách mạng xã hội, như Cách mạng Mỹ 1776, Cách mạng Pháp 1789, Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 và các tổ chức cách mạng như Quốc tế I, Quốc tế II, Quốc tế III, Đảng Xã hội Pháp. Cũng chỉ mới bằng cảm tính cộng với lòng yêu nước và sự nhạy cảm về cái mới, cái đúng, cái tốt, cái tiến bộ, dựa trên tiêu chí duy nhất là ai và tổ chức nào bênh vực các dân tộc thuộc địa, ủng hộ và đoàn kết với họ trong cuộc đấu tranh chống ách thống trị, xâm lược thực dân giành độc lập dân tộc thì đứng về phía đó. Chính vì vậy, từ đầu năm 1919, Nguyễn ái Quốc đã tham gia Đảng Xã hội Pháp. Trong những năm 1918, 1919, và nửa đầu năm 1920, sống ở Paris - thủ đô của kẻ xâm lược, giữa vòng vây của lũ cá mập thực dân, nhưng Nguyễn ái Quốc một mình đi rải truyền đơn kêu gọi quyên góp ủng hộ và bảo vệ Cách mạng Tháng Mười. Người đi tuyên truyền chủ nghĩa Bônsêvich bằng sự nhiệt huyết cảm tính. Lòng yêu nước thật sự kết hợp lòng yêu Cách mạng Tháng Mười và lãnh tụ của cuộc cách mạng đó đã cho Nguyễn ái Quốc sức mạnh phi thường, một bản lĩnh hiếm có.
Trong khoảng mười năm từ 1911 đến 1920, giữa bao bộn bề sự kiện và biến cố chính trị, mà sự kiện lớn nhất là thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, tiếp đến là sự ra đời của Quốc tế cộng sản, tuy chưa được đọc một cuốn sách nào của Lênin và các nhà cách mạng đàn anh khác, nhưng Nguyễn ái Quốc đã thể hiện được chính kiến của mình. Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước đang có mặt ở Paris lúc bấy giờ gửi tới Hội nghị các nước thắng trận sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất bản Yêu sách của nhân dân Việt Nam đòi các quyền tự do dân chủ. Đó là “tiếng bom” nổ giữa lòng thủ đô của kẻ đi xâm lược, bắt đầu thức tỉnh các dân tộc bị áp bức. Cách mạng Tháng Mười có ý nghĩa phổ biến toàn nhân loại, nhưng Nguyễn ái Quốc là một trong số ít người lúc bấy giờ nhận thức được ý nghĩa cao cả của cuộc cách mạng đó. Vì vậy, hành động Người gửi Yêu sách đòi một số quyền lợi chính đáng cho dân tộc Việt Nam là sự kế tục tất yếu của lòng yêu nước nhiệt thành từ một trái tim quả cảm.
Không phải ngẫu nhiên mà đến tháng 7-1920, khi đọc được Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Nguyễn ái Quốc lại vui mừng đến phát khóc lên và Người coi đó là cái cần thiết cho chúng ta, con đường giải phóng chúng ta. Đó là lôgic tất yếu của cả một quá trình khảo nghiệm, nhận thức từ lịch sử dân tộc đến lịch sử thế giới; từ các ngả đường cứu nước của các bậc cha chú đến các cuộc cách mạng tư sản, vô sản trên thế giới; từ các chủ nghĩa, học thuyết của các cuộc cách mạng, các tổ chức quốc tế đến Luận cương của Lênin. Đỉnh cao nhất của mười năm tìm kiếm, trăn trở về con đường cứu nước và giải phóng dân tộc là việc cuối tháng 12-1920, Nguyễn ái Quốc tham gia Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, đứng về đa số tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ III- Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế thứ III. Từ ba con đường và cách thức giải phóng dân tộc mà Nguyễn ái Quốc đã chứng kiến, đó là khuynh hướng tư sản ở trong nước, cách mạng tư sản Mỹ, Pháp và cách mạng vô sản tháng Mười Nga năm 1917, Nguyễn ái Quốc đã quyết định đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa Lênin. Sự kiện này cần được nhận thức và giải thích đúng đắn rằng từ khát vọng giải phóng dân tộc, Nguyễn ái Quốc đã đến với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, vì Người thấy ở Cách mạng Tháng Mười, ở chủ nghĩa xã hội những lý tưởng cao cả, và chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới có điều kiện, khả năng giải phóng các dân tộc một cách toàn diện và triệt để nhất.
3. Sáng tạo trong mọi hoạt động của con người cũng là một biểu hiện văn hóa. Sau khi tìm được con đường cứu nước, giải phóng dân tộc phù hợp với xu thế thời đại và lịch sử dân tộc, Nguyễn ái Quốc tập trung vào hoạt động có ý nghĩa quan trọng vào bậc nhất trong những năm hai mươi, đó là đưa lý luận Mác- Lênin vào phong trào cách mạng Việt Nam để chuẩn bị các mặt về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời một Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Để thực hiện được nhiệm vụ quan trọng và có ý nghĩa to lớn này, vấn đề cần thiết là phải tiếp tục nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tiễn, tranh thủ, tận dụng tối đa các diễn đàn quốc tế để bày tỏ quan điểm và chính kiến của mình. Những công việc đó lại được thực hiện trong một bối cảnh đặc thù là giữa vòng vây của bọn mật thám, trên đất nước của bọn xâm lược. Nhưng điều đáng quan ngại hơn là nhận thức trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế về vấn đề thuộc địa và cách mạng ở các nước thuộc địa là chưa hoàn toàn thống nhất. Làm thế nào để các lực lượng cách mạng và tiến bộ hiểu đúng bản chất của chủ nghĩa thực dân; hiểu đúng vấn đề thuộc địa và cách mạng thuộc địa; hiểu đúng về Lênin và cuộc cách mạng do ông lãnh đạo thành công; về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc… Đó là những vấn đề lớn đòi hỏi một trí tuệ lớn, một bản lĩnh kiên cường. Đối với nhân dân trong nước, làm sao để quần chúng hiểu rõ muốn sống thì phải làm cách mạng và làm cách mạng bằng cách nào, ai lãnh đạo, ai tham gia, phương pháp cách mạng ra sao? Những vấn đề đó không thể giải quyết trong một vài tháng, vài năm mà phải tiến hành cả chục năm.
Dưới ánh sáng tư tưởng của Lênin, từ năm 1921 trở đi, Nguyễn ái Quốc đã mạnh dạn và kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái chống lại Lênin và Quốc tế thứ III. Tư tưởng trụ cột của Nguyễn ái Quốc trong suốt mười năm hoạt động ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan là khẳng định và ủng hộ cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Người cho rằng những người cộng sản không lên án chủ nghĩa đế quốc, không bênh vực các dân tộc thuộc địa thì không thể gọi là làm cách mạng.
Là người dân thuộc địa duy nhất tham gia sáng lập Đảng Cộng sản ở chính quốc, trong khi tham gia các Đại hội Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn ái Quốc đã góp phần quan trọng định hướng cho Đảng trong cuộc chiến chống chủ nghĩa thực dân. Người đã yêu cầu Đảng đặt vấn đề thuộc địa lên bàn nghị sự và thuộc địa phải trở thành một mục thường xuyên trên báo Đảng. Người kịch liệt phê phán các quan điểm cho rằng thuộc địa chỉ là một vùng trên là trời, dưới là đất, vài cây dừa, vài người khác màu da, thế thôi. Người cũng không chấp nhận quan điểm thực dân cho rằng người dân thuộc địa sẵn sàng làm nô lệ. Bằng những khảo cứu nghiêm túc, khoa học, Nguyễn ái Quốc đã chỉ cho nhân dân thế giới, giai cấp công nhân ở chính quốc thấy rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân. Đó là một con đỉa có hai cái vòi, một vòi hút máu nhân dân thuộc địa, một vòi hút máu giai cấp vô sản và nhân dân lao động ở chính quốc. Mặt khác, Người cũng phân tích và khẳng định rằng, nọc độc và sức sống của con rắn đế quốc chủ nghĩa nằm ở thuộc địa. Đây là những kết luận “vô tiền khoáng hậu” làm cơ sở cho nhân dân Việt Nam chủ động, tích cực tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, kết hợp chặt chẽ cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam với cách mạng vô sản ở nước Pháp. Kết quả là cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đã giành thắng lợi trước cách mạng vô sản Pháp, góp phần thức tỉnh nhân dân lao động và giai cấp vô sản Pháp về vai trò, vị trí của cách mạng thuộc địa cũng như bản chất thối nát của chủ nghĩa thực dân.
Là học trò xuất sắc của Lênin, Nguyễn ái Quốc đã cho nhân dân Pháp cũng như nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới thấy rõ sức mạnh vô địch của khối liên minh chiến đấu của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản chính quốc, giữa nhân dân thuộc địa với nhân dân lao động ở chính quốc. Đặc biệt, quần chúng nhân dân ở các thuộc địa, có khả năng đứng lên tự giải phóng khỏi ách xâm lược của các nước đế quốc, “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Trên các diễn đàn lớn của các đại hội quốc tế như Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Đại hội nông dân, Đại hội quốc tế Công hội đỏ, Quốc tế thanh niên…trong những năm hai mươi, Nguyễn ái Quốc đã mạnh dạn kịch liệt tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân, chỉ ra con đường giải phóng cho các dân tộc thuộc địa là phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Theo Người, chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù chung của nhân dân lao động thế giới, là kẻ thù trực tiếp của nhân dân các nước thuộc địa. Người chỉ ra rằng cách mạng muốn thắng lợi trước hết phải có Đảng để trong thì vận động dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức. Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm cốt, vì đó là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, khoa học nhất.
Có thể thấy rất rõ Nguyễn ái Quốc hết sức trung thành với chủ nghĩa Lênin, nhưng trung thành với tinh thần, nguyên lý, quan điểm, phương pháp có tính nguyên tắc của chủ nghĩa ấy chứ không phải trung thành trên trên câu chữ. Chính vì vậy, tầm nhìn và trí tuệ sáng nhất của Người trong giai đoạn này là nhận thức rõ hoàn cảnh các nước thuộc địa phương Đông không giống phương Tây; đấu tranh giai cấp ở phương Đông diễn ra không gay gắt, quyết liệt như ở phương Tây. Tóm lại, cấu trúc kinh tế, xã hội, văn hóa ở phương Đông không như phương Tây; chủ nghĩa Mác chưa phải là toàn thể nhân loại. Trách nhiệm của những người cộng sản là phải bổ sung vào chủ nghĩa Mác những cứ liệu của dân tộc học phương Đông. Đọc Đường kách mệnh, Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam có thể thấy rõ chủ nghĩa Lênin du nhập vào Việt Nam đã được “Việt Nam hóa”, “Nguyễn ái Quốc hóa”. Điều này càng khẳng định rằng chỉ có trên cơ sở nắm vững và trung thành với chủ nghĩa Lênin, Nguyễn ái Quốc mới có khả năng làm cho người Việt Nam nhận thức đúng nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin nhưng không giáo điều, rập khuôn, máy móc.
Việc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 - mười năm sau sự kiện Đảng Cộng sản Pháp ra đời, khẳng định tầm nhìn của Nguyễn ái Quốc về một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất ở thuộc địa. Thứ nhất, Người không vội làm một công việc mà về ý nghĩa là phải làm trước hết. Người ý thức được việc cần thiết phải giáo dục, giác ngộ dân chúng khi họ phải chịu một nền giáo dục thực dân“làm cho dân ngu để dễ trị”, một đường lối tuyên truyền làm cho dân nghe hai chữ “cách mệnh”thì rùng mình. Thứ hai, Nguyễn ái Quốc đặt tên Đảng Cộng sản Việt Nam để khẳng định Đảng không chỉ của giai cấp mà còn là của dân tộc, mang sắc thái, truyền thống lịch sử,văn hóa dân tộc. Việc Nguyễn ái Quốc sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930 như kết thúc một giai đoạn quan trọng mà tư tưởng của Người về cách mạng Việt Nam được hình thành về cơ bản. Có thể nói trong khoảng 30 năm từ lúc ra đi tìm đường cứu nước đến khi sáng lập ra Đảng Cộng sản, Nguyễn ái Quốc đã trải qua nhiều bước ngoặt của lịch sử nhân loại: chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc; Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi; Quốc tế Cộng sản ra đời; Lênin từ trần; Đại hội VI Quốc tế Cộng sản mang nặng tư tưởng tả khuynh; khủng khoảng kinh tế thế giới…Những sự kiện lịch sử nêu trên đã ảnh hưởng, tác động không nhỏ tới tư duy và tầm nhìn của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, điều cần khẳng định là Hồ Chí Minh đã xuất hiện đúng lúc của các bước ngoặt của lịch sử. Tầm nhìn của Người đã vượt ra ngoài phạm vi dân tộc, ghi dấu ấn của một tầm nhìn nhân loại, mang hơi thở của thời đại. Chính vì vậy, một cống hiến quan trọng của Nguyễn ái Quốc trong giai đoạn đầu là đã sớm đặt cách mạng Việt Nam vào phạm trù và quỹ đạo của cách mạng thế giới. Người đã sớm tham gia vào các hoạt động quốc tế như là một sự khẳng định về mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Người đã sáng lập được đội tiên phong của giai cấp và dân tộc Việt Nam để lãnh đạo cách mạng Việt Nam thực hiện mục tiêu “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng, tiến tới xã hội cộng sản”. Với sự ra đời của Đảng, cách mạng Việt Nam chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy thập kỷ. Từ đây, giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Tất cả những sự kiện đó đều mang dấu ấn, tầm nhìn và bản lĩnh Nguyễn ái Quốc.
4. Những năm ba mươi đến giữa thập kỷ bốn mươi của thế kỷ XX, nhân loại chứng kiến nhiều sự kiện lớn của lịch sử thế giới: Đại hội VII Quốc tế Cộng sản (7-1935); Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra và kết thúc… ở trong nước, ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh bùng nổ. Năm 1940, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, nhân dân Việt Nam chịu hai tầng áp bức. Hoạt động của Nguyễn ái Quốc không nằm ngoài vòng xoáy của các sự kiện lịch sử đó. Trong nước, Hội nghị lần thứ nhất của Đảng tháng 10-1930 đã xuất hiện những quan điểm lệch pha với quan điểm trong Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu năm 1930.
Ngày 6 tháng 6 năm 1931 Nguyễn ái Quốc bị bắt. Đó là một tổn thất lớn cho cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Sau khi được trả lại tự do, trong vòng bốn năm, Quốc tế Cộng sản bố trí cho Nguyễn ái Quốc học ở Trường Đại học quốc tế mang tên Lênin (1934-1935), tiếp đến làm việc tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Quốc tế Cộng sản (1936-1937). Giai đoạn này, Quốc tế Cộng sản chưa hiểu và chưa đánh giá đúng tư tưởng và hoạt động của Nguyễn ái Quốc, coi Người theo quan điểm dân tộc chủ nghĩa.
Nguyễn ái Quốc không nhận thức sự trung thành với chủ nghĩa Mác- Lênin là phải hành động như Mác, Ăngghen, Lênin mà là trung thành với lý tưởng của các bậc thầy. Vì vậy, trong vòng mười năm ngay sau khi sáng lập Đảng đến trước khi về nước (28-1-1941), Nguyễn ái Quốc suy nghĩ nhiều về mối quan hệ dân tộc - giai cấp, dân tộc- quốc tế. Tầm nhìn quốc tế của Nguyễn ái Quốc đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, nhưng lại xuất phát từ dân tộc và quay trở về dân tộc, vì lợi ích dân tộc. Người không phản đối Quốc tế Cộng sản nhưng cho rằng việc Quốc tế Cộng sản bố trí Người học trong bốn năm là để Người “quá lâu trong tình trạng không hoạt động, như đứng bên cạnh, bên lề của Đảng”.
Trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt như vậy, Hồ Chí Minh vẫn có được tầm nhìn xa trông rộng. Từ năm 1924, với dự đoán lò lửa chiến tranh thế giới sẽ bùng nổ ở Thái Bình Dương, đến lúc này Người muốn nhanh chóng về nước để tổ chức lực lượng, lãnh đạo cuộc dân tộc cách mạng. Về bản lĩnh, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định nhiệm vụ duy nhất là giải phóng dân tộc, mọi nhiệm vụ khác đều phải tập trung cao độ cho nhiệm vụ cao cả và cấp bách đó. Bởi vì, lúc này, “nếu quyền lợi dân tộc không được giải quyết thì quyền lợi bộ phận, quyền lợi giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”; “dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải dành cho kỳ được độc lập dân tộc”. Về mặt đối ngoại, Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đứng về phe Đồng minh chống phát xít. Người ca ngợi ý chí giành độc lập tự do của nhân dân Mỹ, dẫn tới Tuyên ngôn độc lập 1776 và gắn bó với những người bạn Mỹ. Ngay sau khi về nước, một trong những nhiệm vụ đầu tiên mà Người xác định là phải nhanh chóng thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất đúng nghĩa ở Việt Nam, đó là Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh. Các tổ chức cứu quốc ra đời như Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, thanh niên cứu quốc, phụ lão cứu quốc, nhi đồng cứu vong… Đây là một tầm nhìn thể hiện sự sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh về động lực chủ yếu của cách mạng từ sức mạnh quần chúng. Thực tế Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chủ yếu bằng lực lượng chính trị thông qua tổ chức Việt Minh.
Việc Hồ Chí Minh vượt qua một giai đoạn đầy cam go thử thách cả trong nước và quốc tế, cả từ phía địch và trong nội bộ của ta, chỉ có thể hiểu được bằng việc cắt nghĩa vì trí tuệ, bản lĩnh, tầm nhìn xa trông rộng của vị lãnh tụ thiên tài, luôn luôn biết đặt lợi ích của đồng bào, của quốc gia lên trên hết, trước hết.
5. Tầm nhìn và bản lĩnh văn hóa của Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện ở việc tìm đường, vạch đường và dẫn đường cho cả dân tộc đi theo. Tầm nhìn đó cũng không phải chỉ ở những điều xưa nay chúng ta đã bàn nhiều như thực hiện đường lối và chính sách ngoại giao cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, thấu tình đạt lý. Đường lối chiến tranh nhân dân của Người và Đảng ta là trí tuệ Việt Nam siêu việt, v.v...
Điều đặc biệt về tầm nhìn của lãnh tụ từ dân, của dân cần khám phá và tô đậm là ngay sau khi cách mạng thành công, chính quyền về tay nhân dân, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đã sớm quan tâm tới sứ mệnh, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền. Bằng sự nhạy cảm về chính trị, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện Đảng cầm quyền vừa tạo ra nhiều thuận lợi cơ bản để Đảng thực thi vai trò lãnh đạo của mình, vừa là mảnh đất màu mỡ cho các thói tật nảy sinh. Người sớm cảnh báo các căn bệnh của Đảng cầm quyền như cậy thế, hủ hóa, tư túng, kiêu ngạo, chia rẽ, bè phái. Người đã nêu các thói tật của cán bộ đảng viên như đè đầu cưỡi cổ dân, vác mặt làm quan cách mạng, quan liêu, mệnh lệnh, hách dịch, óc địa phương, óc lãnh tụ, thích kẻ khéo nịnh hót mình,ghét người chính trực, dìm người tài giỏi, “đạo vị” (ăn cắp địa vị của người khác), không có bản lĩnh theo kiểu “thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi”, “theo gió bẻ buồm”, loại cán bộ chỉ biết "đập đi hò đứng".v.v....
Gắn với Đảng cầm quyền là tầm nhìn của Hồ Chí Minh về sự lâu dài, khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển. Người ý thức rõ ràng trước khi cầm quyền, nhiệm vụ lớn lao, quan trọng nhất của bộ tham mưu của giai cấp và dân tộc là xóa bỏ chính quyền bóc lột thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Nhưng sau khi có chính quyền, cũng một bộ tham mưu đó, nhiệm vụ nặng nề nhất, lớn nhất và xuyên suốt của Đảng là xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực. Kẻ thù trong cách mạng dân tộc dân chủ là thực dân phong kiến, hiểu theo nghĩa giặc ngoại xâm. Kẻ thù trong xây dựng đất nước chủ yếu là giặc nội xâm, thói quen truyền thống lạc hậu, là tư duy cũ, nếp nghĩ cũ, là chủ quan, duy ý chí, thiếu ý thức trách nhiêm phục vụ dân, vô tổ chức kỷ luật. Mà các loại kẻ thù này, đặc biệt là chủ nghĩa cá nhân hết sức nguy hiểm vì nó không mang gươm mang súng mà lại phá hoại từ trong phá ra, phá hoại tổ chức của ta; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc; đẻ ra hàng trăm thứ bệnh khác nhau. Người khẳng định rằng “thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng lạc hậu còn khó hơn nhiều”; “chống lại những gì cũ kỹ, lạc hậu, tạo ra những mới mẻ tốt tươi là một cuộc chiến đấu khổng lồ”.
Hồ Chí Minh cho rằng muốn giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ đó thì phải dựa vào toàn dân, động viên toàn dân, tổ chức toàn dân. Tầm nhìn của Hồ Chí Minh về dân là một tầm nhìn xuyên thế kỷ. Người cho rằng dân tốt lắm; mọi việc đều do người làm ra; có dân là có tất cả; dân thông minh, sáng tạo, họ biết giải quyết nhiều việc nhanh chóng, hiệu quả mà nhiều tổ chức, cá nhân tài giỏi mấy nghĩ mãi cũng không ra. Từ kinh nghiệm của dân, Người tổng kết: “Dễ mười lần không dân cũng chịu/ Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Vì vậy, “nếu cách xa dân chúng, không liên hệ mật thiết với dân chúng thì chẳng khác gì đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”
Tất cả những trình bày trên cho thấy một tầm nhìn và bản lĩnh văn hóa hết sức đặc biệt của Hồ Chí Minh. Bởi vì, khi đứng ở đỉnh cao quyền lực, con người thường dễ xa dân, ít chính kiến và nghĩ được những điều sâu xa từ thực tiễn cuộc sống, từ dân tình, dân tâm, dân ý, vì thường do người khác nghĩ hộ. Sau thắng lợi, nhất là sau khi thắng những kẻ xâm lược lớn mạnh hơn mình nhiều lần, thì thường chủ quan, kiêu ngạo, duy ý chí. Với Hồ Chí Minh, điều quan trọng nhất thể hiện trí tuệ, tàm nhìn và bản lĩnh chính là Người đã nắm vững quy luật, tôn trọng quy luật và hành động theo quy luật khách quan. Quy luật đó là phải tin dân, dựa vào dân, quý trọng dân; phải thương yêu và nghiêm khắc với cán bộ; phải chú trọng cả nền tảng vật chất- kinh tế và nền tảng tinh thần- văn hóa. Tư duy của Người là độc lập, tự chủ, sáng tạo, hết sức biện chứng, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, biết chắt lọc trí tuệ cổ, kim, Đông, Tây của nhân loại để làm giàu cho trí tuệ của mình. Người làm việc tập thể, dân chủ, biết tôn trọng người khác, cầu người hiền tài, chiêu hiền đãi sĩ. Hồ Chí Minh không sống trong tháp ngà nên biết giải quyết nhanh chóng nhiều vấn đề nảy sinh từ cuộc sống. Người luôn lạc quan nhưng không lạc quan tếu; kiên định mục tiêu lý tưởng nhưng hết sức sáng tạo trong việc tìm nhiều con đường khác nhau để đạt mục tiêu; kiên nghị, nguyên tắc nhưng cũng hết sức linh hoạt, mềm dẻo; hài hòa, nhuần nhị xưa và nay, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, phương Đông và phương Tây, cá nhân và tập thể, dân tộc và giai cấp, kinh tế- chính trị- văn hóa- xã hội mà hạt nhân là con người, hết sức có lý có tình.
Tầm nhìn Hồ Chí Minh là tìm thấy sức mạnh từ trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai; sức mạnh vật chất và tinh thần, đặc biệt là sức mạnh văn hóa. Chính vì vậy, trong chiến tranh không bao giờ Người bị choáng ngợp trước sức mạnh vũ khí hiện đại, tối tân của đối phương. Trong khi có người nghi ngại cuộc chiến chống thực dân Pháp của dân tộc là “châu chấu đấu voi”, thì Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Nay tuy chấu chấu đấu voi/ Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra”…
6. Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một Đảng, trên một nước, nửa nước đi lên chủ nghĩa xã hội, còn nửa nước tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc. Đó là “câu chuyện” chưa hề có tiền lệ trong lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử thế giới. Bài toán quá khó đối với Đảng Lao động Việt Nam khi phải đi tìm lời giải cho việc có tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và có tiến hành cách mạng giải phóng miền Nam hay không? Bởi vì, trước những lời khuyên khá chân thành nên “trường kỳ mai phục”ở miền Nam và không nên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chúng ta phải tính toán một cách cẩn trọng, khoa học.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta tìm lời giải từ thực tiễn Việt Nam, từ trí tuệ Việt Nam, từ kinh nghiệm máu xương và thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Hồ Chí Minh dựa vào tâm lý dân tộc là tinh thần độc lập tự cường; “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”; dựa vào luân lý dân tộc là "Chí công vô tư" với ý nghĩa chúng ta chống các thế lực xâm lược không phải chỉ vì lợi ích của dân tộc Việt Nam mà còn vì lợi ích hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Lời giải của Hồ Chí Minh và Đảng ta là vẫn tiến hành cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc theo cách Việt Nam. ở miền Nam, chúng ta tiến hành cách mạng bạo lực của quần chúng nhân dân, bắt đầu từ việc giữ gìn lực lượng, tiến lên đồng khởi, rồi lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc bắt đầu bằng nhiệm vụ khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế, sau đó bắt tay vào thực hiện các kế hoạch 5 năm. Khi chiến tranh phá hoại nổ ra, Hồ Chủ tịch và Đảng ta quyết định kết hợp kinh tế với quốc phòng, và một mô hình “chủ nghĩa xã hội thời chiến” xuất hiện ở Việt Nam. Thế giới không hình dung nổi các phong trào cách mạng xuất hiện ở Việt Nam trong giai đoạn này theo tư tưởng Hồ Chí Minh như “tay cày tay súng”, “tay búa tay súng”, “ba sẵn sàng, ba đảm đang”, “mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”. Thông điệp của Hồ Chí Minh với nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới là “đã là người Việt Nam yêu nước thì phải ra sức chống Mỹ, cứu nước”; “hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”; “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”; “đến ngày thắng lợi, ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, hơn mười ngày nay”. Đó là tầm nhìn về giải quyết mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài; khơi dậy và huy động hệ động lực của con người Việt Nam, cảm hóa lòng người tiến bộ, lương tri của nhân loại.
Đến nay, cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đối với nhân dân Việt Nam đã đi qua gần 40 năm. Quan hệ giữa hai nước, hai dân tộc đã bình thường. Có những cựu chiến binh Mỹ đã trở lại Việt Nam nhiều lần và cũng có những cựu chiến binh đã vĩnh viễn ra đi, không bao giờ trở lại. Nhân loại đang chứng kiến nhiều đổi thay kỳ diệu của thế giới. Người ta đang hướng tới và tiếp nhận những giá trị khoa học công nghệ, tri thức và nhân văn. Nhưng nhân loại tiến bộ vẫn luôn nhắc tới một con người, trái tim lớn đã ngừng đập cách đây đúng 40 năm mà giá trị nhân văn, tầm nhìn nhân loại về một thế giới tốt đẹp, hòa bình thay cho chiến tranh, đối thoại thay cho đối đầu, muốn làm bạn với tất cả các nước không gây thù oán với một ai, vẫn chiếu sáng mãi về sau. Đó là Nguyễn ái Quốc- Hồ Chí Minh.
7. Đúng 40 năm trước, nhân dân Việt Nam và nhân loại tiến bộ được đọc một văn kiện đặc biệt- bản Di chúc lịch sử của Danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kết tinh tư tưởng của Người đồng thời là một cương lĩnh xây dựng đất nước sau chiến tranh.
Di chúc trước hết nói về Đảng. Đây không phải là ngẫu nhiên mà là chủ đích của người viết. Bởi vì Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Hồ Chí Minh quan tâm tới Đảng cầm quyền từ thập kỷ bốn mươi. Đảng cầm quyền đồng nghĩa với nhiệm vụ lớn nhất và duy nhất là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mà thắng đế quốc, phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng lạc hậu còn khó hơn nhiều. Đó là cả một cuộc chiến đấu khổng lồ. Khi Đảng chưa cầm quyền, kẻ thù của Đảng và dân tộc chủ yếu là giặc ngoại xâm. Khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền, kẻ thù của Đảng và dân tộc chủ yếu là giặc nội xâm và thói quen truyền thống lạc hậu. Giặc nội xâm là chủ nghĩa cá nhân. Đó là thứ vi trùng rất độc đẻ ra hàng trăm thứ bệnh khác nhau, là trở lực trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Di chúc viết đầu tiên là công việc đối với con người, vì con người là mục tiêu cuối cùng của sự nghiệp cách mạng. Con người được bàn tới ở đây là nguồn lực con người. Đó là những người đã hy sinh một phần xương máu của mình. Đó là cha mẹ, vợ con thương binh và liệt sĩ. Đó là những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong. Đó là những phụ nữ đảm đang đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đó là nhân dân lao động ở miền xuôi cũng như miền ngược… Trong số họ, có lực lượng là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy ở đoàn viên và thanh niên, đó là một lực lượng nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Tầm nhìn của lãnh tụ là bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Bồi dưỡng ở đây là chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng”vừa “chuyên”.
Di chúc dự đoán cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể sẽ kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của nhiều người. Nhưng Hồ Chí Minh- trên cơ sở tổng kết truyền thống đoàn kết của dân tộc và của Đảng, với tầm nhìn xa trông rộng- có một niềm tin nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà.
Trong Di chúc Hồ Chí Minh dặn phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Kế hoạch đó gồm xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế. Phát triển công tác vệ sinh, y tế. Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới cuả nhân dân, như phát triển các trường nửa ngày học tập nửa ngày lao động. Củng cố quốc phòng. Chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ quốc. Điều sâu xa nhất trong kế hoạch xây dựng đất nước là phải chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi. Cần hiểu những gì đã cũ kỹ, hư hỏng theo tinh thần Hồ Chí Minh không chỉ biểu hiện về vật chất như nhà cửa, thành phố mà cần chú ý cũ kỹ, hư hỏng về tư duy, về tổ chức, về con người, về lề lối làm việc… Hồ Chí Minh đã cảnh báo từ sớm về những lầm lỗi rất nặng nề trong tổ chức Đảng, Nhà nước và một bộ phận đảng viên, cán bộ. Ví dụ, Người coi một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng.
Di chúc thể hiện tầm nhìn thời đại của Hồ Chí Minh khi Người bàn về vấn đề môi trường. Từ cuối 1959, Hồ Chí Minh đã sớm có tư duy về vấn đề trồng cây. Đến Di chúc, Người mở rộng tư duy đó về vấn đề môi trường khi bàn về hỏa táng để cho người sống tốt về mặt vệ sinh. Người nhắc lại và khuyên nên có kế hoạch trồng cây trên và chung quanh đồi. Ai đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Vấn đề môi trường là một trong những cơ sở quan trọng cho sự phát triển bền vững, điều mà nhân loại chỉ mới quan tâm trong thế kỷ XXI.
Tóm lại, gần 60 năm từ lúc ra đi tìm đường cứu nước đến phút cuối đời, Hồ Chí Minh thường xuất hiện đúng lúc của những bước ngoặt lịch sử. Nhưng điều quan trọng nhất là suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã để lại dấu ấn trong quá trình phát triển của dân tộc và nhân loại, và đưa ra những thông điệp mang giá trị vĩnh hằng cho dân tộc và nhân loại. Đó là những thông điệp về hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ. Người sống và hoạt động trong nửa đầu thế kỷ XX, không chỉ giải quyết nhiều vấn đề của dân tộc và nhân loại trong thế kỷ XX mà còn mang tư duy và tầm nhìn của thế kỷ XXI. Vì vậy, hôm nay nhìn lại, chúng ta hoàn toàn có quyền khẳng định rằng di sản Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc trong kỷ nguyên toàn cầu hóa.
(Tạp chí Văn hóa Nghệ An,
số 142 ngày 25 tháng 2 năm 2009,
và số 143 ngày 10 tháng 3 năm 2009)