Không có Socrates, Hy Lạp sẽ chẳng là gì cả. Với Socrates, Hy Lạp có mọi thứ. Vào ngày Athens chọn cách đầu độc Socrates, nó đã đầu độc toàn bộ tinh thần Hy Lạp. Đất nước này không bao giờ có thể đạt đến những tầm cao tương tự như thế một lần nào nữa.
Hai mươi lăm thế kỷ đã trôi qua, nhưng không một người nào có thể đạt đến vẻ rực rỡ tương tự, ánh sáng tương tự, tầm hiểu biết tương tự. Giết hại Socrates, Hy Lạp đã tự kết liễu đời mình. Và điều này có thể nhìn thấy một cách dễ dàng. Nếu họ lắng nghe Socrates thay vì đầu độc ông ấy, và từ bỏ những ước định của họ, thứ mà ông ấy bảo họ làm, Hy Lạp sẽ ở đỉnh cao của thế giới ngày nay xét về khả năng hiểu biết, về tâm thức, về tìm kiếm chân lý. Nhưng con người thật ngu dốt.
Bạn có thể tha thứ cho họ nhưng đừng quên họ. Nếu quên họ, bạn sẽ lại mắc phải sai lầm tương tự. Hãy tha thứ những người đã đầu độc Socrates, nhưng đừng quên họ để điều đó không bao giờ xảy ra nữa.
Thế giới đã có những con người vĩ đại, nhưng ở Socrates có điều gì đó độc đáo, duy nhất. Có Phật Thích Ca Mâu Ni, có Lão Tử, có Trang Tử; còn tại Hy Lạp đã có Pythagoras, Heraclitus; tại Ba Tư có Zarathustra… và nhiều người khác nữa, nhưng không ai trong số họ có được phẩm chất mà chỉ mình Socrates mới có. Đó là phương pháp tiếp cận mang tính khoa học về tất cả mọi thứ – và đó chính là trọng tội của Socrates.
Tất cả mọi người khắp thế giới đều được hưởng lợi từ khoa học mà không biết rằng Socrates đã hy sinh bản thân mình cho cuộc tìm kiếm khoa học tương tự. Ông ấy chỉ có một yêu cầu duy nhất: rằng bạn không nên tin bất cứ điều gì. Mọi thứ cần phải được trải nghiệm, thử nghiệm với bằng chứng, trừ khi có bằng chứng, nếu không thì không nên chấp nhận. Ngay cả khi bạn chấp nhận một điều nào đó là chân lý, nếu bạn thành thật, hãy chỉ chấp nhận nó như là một chân lý giả định, bởi vì ai biết được? Ngày mai, có thể sẽ có những sơ cở lập luận mới, và bạn sẽ phải thay đổi chân lý đó.
Chưa có ai cống hiến cho hành trình tìm kiếm chân lý như Socrates. Ngay cả nếu bạn đã tìm thấy chân lý – ngày nay thì điều này có vẻ như hoàn toàn đúng, không một sai sót nào, không có khả năng nào cho thấy điều này sẽ không đúng – ông ấy vẫn nói rằng tinh thần khoa học sẽ chỉ chấp nhận nó như là một giả định, trong thời điểm hiện tại… bởi vì phía trước là sự vĩnh hằng. Mỗi ngày, những cơ cở lập luận mới sẽ được khám phá, và những cơ cở lập luận này có thể không đồng nhất với chân lý của bạn. Bạn có thể phải thay đổi nó, bạn có thể phải chừa chỗ cho những chân lý mới đó. Đây là điều vô cùng độc đáo trong thế giới này.
Ông ấy khiêm nhường đến mức vẫn chỉ là một con người, không khẳng định địa vị cao hơn hay đặc biệt hơn ai. Hai mươi lăm thế kỷ trước, điều này thậm chí càng khó, bởi tại mỗi quốc gia đều có các nhà tiên tri, sứ giả của Thượng đế, con trai của Thượng đế. Trong bối cảnh đó, sự khiêm nhường của người này thật sự đáng kinh ngạc và khiến ông ấy trở thành một trong những con người đáng kính nhất từng bước đi trên mặt đất.
Socrates không tin vào Thượng đế, nhưng ông ấy không nói rằng không có Thượng đế. Ông ấy rất khoa học. Ông ấy nói: “Theo như ta biết thì dường như không có Thượng đế, nhưng ai biết được kết quả của những cuộc điều tra sau này? Hãy giả định rằng không có Thượng đế, nhưng nếu một ngày nào đó bạn phát hiện ra Thượng đế, các giả định có thể thay đổi”.
Socrates không nói rằng có sự sống sau cái chết. Ông ấy nói: “Ta sẽ phải đợi xem. Khi ta chết, chỉ khi đó ta mới có thể biết liệu có sự sống sau cái chết hay không, bởi vì không ai trở về sau khi chết để nói với chúng ta rằng có sự sống sau cái chết”.
Và đừng quên rằng điều này xảy ra cách đây hai mươi lăm thế kỷ. Người đàn ông này can đảm đến mức, khi bị trao cho thuốc độc, ông ấy đã tập hợp các đồ đệ của mình và nói: “Các con luôn hỏi rằng liệu có sự sống sau cái chết hay không. Đây là cơ hội tốt, một cơ hội tuyệt vời. Nếu ta chết một cái chết bình thường, khi đó sẽ không có cơ hội. Nhưng giờ thì người ta trao thuốc độc cho ta” – và thuốc độc khiến bạn chết từ từ – “nên ta sẽ cho các con biết đến tận phút cuối, đến khi lưỡi của ta cứng lại và ta không thể nói được gì”.
Và sau khi uống thuốc độc, ông ấy bắt đầu nói với đôi mắt nhắm: “Từ chân đến đầu gối của ta đã chết. Ta không cảm nhận được chúng; dù chạm vào nhưng ta không cảm nhận được chúng. Sự sống đã rời khỏi chúng. Nhưng hãy nhớ một điều: ta vẫn cảm thấy như ta vốn có. Do đó, cái chết của đôi chân không ảnh hưởng đến tâm thức của ta”.
Sau đó, ông ấy nói: “Nửa cơ thể của ta, nửa dưới, đã chết, nhưng ta vẫn còn nguyên vẹn; một nửa tâm thức của ta chưa chết”. Rồi ông ấy nói tiếp: “Hai tay của ta bắt đầu tê đi, hai mắt của ta rũ xuống, và ta có thể cảm nhận lưỡi của mình sẽ ngừng bất cứ lúc nào, cho nên, có lẽ đây là tuyên bố cuối cùng ta nói với các con – rằng có sự sống sau cái chết, bởi vì ta có thể nhìn thấy cái chết đang diễn ra. Các bộ phận trên cơ thể ta đã chết và ta vẫn hoàn toàn còn sống. Không có gì mất đi. Cho nên, ta chắc chắn rằng khi lưỡi của ta dừng lại, mắt ta nhắm và tim ta ngừng đập, điều đó không còn quan trọng. Nhưng đừng tin ta; đó chỉ là một giả định đối với ta. Khi các con chết, hãy thử làm điều đó”. Quả là một người có tinh thần khoa học!
Tôi yêu Socrates vì sự khiêm nhường của ông ấy, vì tinh thần khoa học của ông ấy, vì ông không tạo ra một tôn giáo nào, không tạo ra một thuyết thần học, không tạo ra một môn phái, không trở thành một nhà tiên tri. Và Socrates là người tinh tế, có học thức đúng như những gì bạn hình dung. Luôn có cám dỗ khiến ông ấy phải tự xưng mình là thánh, và với sự tuyên bố đó, ông ấy có thể đã được tôn sùng và không bị đầu độc. Chính những người giết ông ấy hẳn sẽ tôn sùng ông ấy; hẳn họ đã lập đền thờ, và sẽ vẫn tiếp tục tôn sùng ông ấy.
Bạn cần phải cực kỳ can đảm khi có được tâm thức như thế, sự rõ ràng như thế mà vẫn khiêm nhường, vẫn rất con người dù biết rất rõ rằng đây là con đường dẫn đến cái chết. Sớm muộn gì chính những người này sẽ giết bạn, chính những người mà bạn đang nỗ lực giúp họ thoát khỏi xiềng xích. Tuy nhiên, Socrates vẫn chọn là con người. Đó là lý do vì sao bạn không nhìn thấy bất kỳ tôn giáo nào phía sau Socrates, không nhà thờ, không thuyết thần học, không kinh sách.
Với một người như Socrates, bạn không hạnh phúc bởi vì ông ấy nói chính xác tình huống của bạn, rằng bạn là một tù nhân, và bạn phải thoát khỏi nó. Con người rất lười biếng; họ không muốn thay đổi.
Con người chỉ muốn được an ủi. Ai đó xuất hiện như thể anh ta đến từ một nơi cao hơn, đến từ Thượng đế để nói với họ rằng: “Các bạn hoàn toàn đúng, chỉ cần tin vào Thượng đế. Cứ dành hai phút mỗi đêm để cầu nguyện Thượng đế, và mọi thứ sẽ ổn với bạn”. Bạn thích điều này bởi vì nó giúp bạn tránh được rắc rối của sự thay đổi.
Những người như Socrates dường như rất nguy hiểm bởi vì họ cứ đập mạnh vào niềm an ủi của bạn: họ lấy đi mọi ước định của bạn, họ phơi bày bạn với thực tại. Công việc của họ là phẫu thuật. Nó gây đau đớn nhưng đó là cách một người mới có thể được sinh ra.
Socrates sống tại một vùng đất rất nhỏ của Athens, thậm chí không thuộc Hy Lạp. Athens là một thành phố tự trị, và suốt đời ông ấy vẫn là người Athens.
Bản án tuyên bố rằng vào đúng hoàng hôn, Socrates sẽ được trao thuốc độc. Ông nhìn ra cửa sổ nói:
– Mặt trời đã lặn! Người đàn ông ngoài kia đang chuẩn bị thuốc độc, nói với người đó rằng ông ta đã đến trễ, và ông ta không nên đến trễ khi đang làm nhiệm vụ.
Người đàn ông ấy xuất hiện và nói:
– Ông là một người kỳ lạ! Chỉ vì yêu mến ông mà tôi đã cố tình chậm trễ để ông có thể sống thêm chút nữa. Tôi đã trao thuốc độc cho nhiều người – đây là việc của tôi, nhưng trái tim tôi run rẩy, tay tôi run rẩy. Những gì tôi đang làm là sai. Tôi muốn trì hoãn nó càng lâu càng tốt.
Socrates nói:
– Đừng, như vậy là không đúng. Ông hãy làm công việc của mình; ông không nên để tình cảm cá nhân xen vào. Và hơn nữa, ta rất tò mò muốn chết bởi vì ta đã sống một cuộc sống đủ dài. Ta đã biết hết mọi bí mật của nó, nhưng cái chết là một hành trình lớn, một cuộc hành trình mà ta chưa biết. Cho nên, đừng trì hoãn nữa, hãy mang thuốc độc đến đây.
Có những người không sợ cái chết, chúng ta đã giết họ. Và những người này đã biết về cuộc sống; đó là lý do vì sao họ không sợ cái chết. Tận sâu trong lòng, họ biết rằng có điều gì đó sẽ tiếp diễn, nhưng họ không có bằng chứng. Do đó, Socrates sẽ không nói về điều đó; ông ấy sẽ chỉ nói khi có bằng chứng. Thật là một tinh thần cống hiến hết mình cho khoa học!
***
Khi Socrates bị ban thuốc độc, Athens là một thành phố tự trị với nền dân chủ trực tiếp. Mọi công dân, trừ nô lệ, đều có quyền biểu quyết và mọi quyết định đưa ra phải được cả thành phố chấp thuận. Vị đứng đầu tòa án – người sẽ quyết định liệu đa số người dân Athens tán thành hay phản đối việc đầu độc Socrates – rất lúng túng. Hẳn ông ấy phải là người có khả năng hiểu biết nào đó. Ông ta phải thấy rằng Socrates là một người đơn giản, trong sáng, giống như một đứa trẻ. Socrates không phạm tội gì cả, ông ấy chưa làm hại ai bao giờ. Và đó là điều mà Socrates phản đối trước tòa:
– Hãy cho tôi biết, tôi mắc tội gì?
Không có tội ác nào cả, không có lời buộc tội nào chống lại ông ấy. Vị đứng đầu tòa án thì thầm vào tai ông:
– Tội của ông đó là ông là một bản thể tự nhiên. Ta không thể nói lớn được, bởi vì ta biết nếu họ không thể tha thứ cho ông, họ cũng không thể tha thứ cho ta. Nhưng ta rất ngưỡng mộ sự trong sáng của ông và ta không muốn một người như ông phải bị hủy diệt. Ông là trường hợp ngoại lệ, nhưng ông chứng tỏ được rằng mỗi người đều có thể trong sáng, chân thành, sống động và đầy hân hoan. Ta cho ông ba lựa chọn… Lựa chọn thứ nhất, Athens là một nơi tự trị nên các điều luật của nó không áp dụng cho phạm vi bên ngoài thành. Cách đơn giản là ông chuyển ra ngoài Athens. Ông có thể mở trường, học viện và những người yêu mến ông sẽ đến đó. Và ta biết chắc rằng thế hệ trẻ rất ấn tượng với ông. Chỉ có thế hệ già…
Nhưng thời xưa, thế hệ già luôn chiếm đa số, bởi vì chín trong số mười đứa trẻ đều chết trong vòng hai năm sau khi chào đời. Ngày xưa, người trẻ chưa bao giờ là số đông. Họ luôn là thiểu số.
Vị đứng đầu tòa án nói:
– Ông chỉ cần rời khỏi Athens.
Socrates đáp:
– Đó là hành động hèn nhát. Cái chết sớm muộn gì cũng sẽ đến. Ta đã đủ già. Nhưng ta không muốn các thế hệ tương lai nhớ đến việc Socrates rời khỏi Athens bởi vì ông ấy sợ chết. Hãy thứ lỗi, ta không thể rời khỏi Athens.
Vị đứng đầu tòa án nói:
– Vậy thì lựa chọn thứ hai là ông đừng dạy học nữa. Hãy sống ở Athens nhưng đừng nói về chân lý của ông. Và đừng nói về việc con người phải chân thành và đáng tin cậy.
Socrates đáp:
– Ông đang yêu cầu tôi làm những việc mà mình không thể. Còn gì là sống nếu tôi không thể phát huy hết tiềm năng của mình? Khi cây nở hoa, những bông hoa phải hiện diện ở đó và hương thơm phải đến được với những ai đón nhận chúng. Tôi sẽ tiếp tục nói và tôi sẽ tiếp tục nói về chân lý, tôi sẽ tiếp tục khuyến khích mọi người sống tự nhiên, không trở thành kẻ đạo đức giả.
– Vậy thì tôi không giúp được gì rồi. Lựa chọn thứ ba là ông phải chấp nhận thuốc độc. Bởi vì phần lớn mọi người, mặc dù họ không có bằng chứng chống lại ông, đều nói rằng sự hiện diện của ông là biến chất. Chính sự hiện diện của ông sẽ hủy hoại tuổi trẻ; chính sự hiện diện của ông sẽ đưa tuổi trẻ đi xa khỏi con đường lâu đời do tổ tiên dẫn dắt. Chính sự hiện diện của ông đang khiến cho các cá nhân trở nên quyết đoán, khiến họ can đảm để được tự do và đứng một mình cho dù điều đó có chống lại toàn thể xã hội.
Socrates đáp:
– Không sao cả. Tôi có thể nhận thuốc độc. Tôi sẽ chết vì một mục đích cao cả. Tôi đã sống trong vinh quang rực rỡ và tôi sẽ chết trên đỉnh cao.
***
Người ta cho rằng Socrates đã nói: “Khi còn trẻ, ta nghĩ rằng mình biết mọi thứ; khi trưởng thành hơn một chút, ta cũng nhận thức rằng có quá nhiều điều mình không biết. Khi già hơn chút nữa, ta trở nên bối rối bởi vì ta từng biết nhiều khi còn trẻ, và giờ ta biết ngày càng ít. Và cuối cùng, trước khi chết, ông ấy nói ‘Ta chẳng biết gì’”.
Tại Hy Lạp, có một ngôi đền ở Delphi, và trong đền có một nhà tiên tri từng tiên đoán nhiều điều. Vào ngày Socrates nói “Ta chẳng biết gì”, chính ngày đó, vào thời điểm đó, tại Delphi, nhà tiên tri tuyên bố rằng Socrates là người đàn ông thông thái nhất thế giới.
Những người tìm đến Athens để nghe lời tiên tri đã vội vã quay về báo tin cho Socrates, bởi vì một vinh dự như thế không phải ai cũng nhận được từ nhà tiên tri – người đàn ông thông thái nhất thế giới. Và khi nghe mọi người kể lại, Socrates cười nói:
– Ta từng như thế, khi còn rất trẻ, khi ta còn rất cao ngạo, khi ta còn rất vị kỷ. Giờ thì ta chẳng biết gì cả.
Nhưng mọi người nói:
– Nhà tiên tri không bao giờ nói sai.
Họ trở lại Delphi, và nói với nhà tiên tri:
– Lần này người sai rồi, bởi vì Socrates từ chối điều đó. Ông ấy nói “Ta chẳng biết gì”.
Nhà tiên tri cười đáp:
– Đó là lý do vì sao ta tuyên bố ông ấy là người thông thái nhất thế giới. Chỉ có người thông thái nhất thế giới mới có đủ can đảm, sự trong sáng và khiêm nhường để tuyên bố rằng “Ta chẳng biết gì”.
***
Socrates chưa từng làm bất cứ điều gì mà bạn có thể nói là do ngạo mạn, do tức giận, do ganh ghét. Ông ấy không đứng trên lập trường của đám đông, ông ấy không quan tâm đến chính trị. Ông ấy không bao giờ là người giận dữ.
Chuyện kể rằng vợ của Socrates – hẳn bà ấy thực sự là một con quỷ, nhưng đôi khi trong cuộc sống, những người tử tế như Socrates cũng gặp phải những người phụ nữ quỷ quái. Thật lạ nhưng có lẽ đó là sự cân bằng. Có lẽ chỉ có Socrates mới chịu đựng được người phụ nữ đó; tôi nghĩ không một người đàn ông nào có thể sống với bà ta dù chỉ một ngày. Bà ấy thường đánh Socrates và ông ấy chỉ ngồi im. Nếu các đồ đệ hỏi, Socrates sẽ nói: “Đó là vấn đề của bà ấy; bà ấy giận dữ. Ta có thể làm được gì? Đó là vấn đề của bà ấy – bà ấy đang chịu đựng, và từ sự chịu đựng, cơn giận của mình, bà ấy bắt đầu trút lên người ta. Ta chỉ tình cờ ngồi gần đó để bà ấy đánh. Nhưng đó là vấn đề của bà ấy, ta không quan tâm”.
Một ngày nọ, khi Socrates đang dạy các học trò, bà ấy đến trong cơn giận dữ, bởi vì có một điều bà ấy rất giận là ông ấy luôn truyền dạy chân lý, tự do và không bao giờ có đủ thời gian dành cho bà ấy. Đủ mọi kiểu người đến từ các vùng đất xa xôi; và với họ, những người xa lạ, ông ấy đang lãng phí thời gian – với những người xa lạ, những người chẳng quan tâm. Bà ấy ngồi ở đó, sôi sục. Bà ấy là vợ, mà ông ấy lại không dành cho bà nhiều sự quan tâm.
Đây là lời than phiền phổ biến của tất cả những người phụ nữ trên thế giới: rằng người chồng cứ mải chơi cờ với người khác một cách đầy thích thú, mải hút xì gà một cách đầy thích thú, sáng ngủ dậy là đọc báo; còn người vợ thì la hét, và người chồng thậm chí không thèm nghe những gì vợ nói. Đối với mọi việc, ông ấy đều nói: “Được rồi, được rồi”. Ông ấy lên giường và bắt đầu ngáy ngay lập tức. Còn với những người xa lạ…
Cho nên, vợ của Socrates giận sôi sục – bà ấy pha trà nhưng Socrates không thể ngưng trò chuyện, và cuộc trò chuyện đó kéo dài mãi, kéo dài qua cả thời gian dùng trà, và đã đến giờ ăn trưa. Bà ấy giận dữ đi vào và đổ hết bình trà nóng lên đầu Socrates. Nửa khuôn mặt của ông ấy bị bỏng, để lại sẹo. Nhưng ông ấy vẫn cứ tiếp tục.
Tất cả những ai có mặt ở đó đều sốc. Họ hoàn toàn quên mất vấn đề mà họ đang trao đổi, còn Socrates vẫn tiếp tục nói. Họ hỏi:
– Ngài vẫn còn nhớ những gì chúng ta đang nói chứ?
Ông ấy đáp:
– Đúng vậy, bởi vì đây là vấn đề của bà ấy, không phải vấn đề của ta.
Giờ thì bạn đã hiểu, người đàn ông này không giận dữ, không cao ngạo, không khát khao chứng tỏ rằng mình là siêu nhân; thậm chí không có gì cho thấy ông ấy hơn người bình thường.