• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Trò chuyện với vĩ nhân
  3. Trang 23

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • Sau

HAKIM SANAI

Hakim Sanai là độc nhất, là duy nhất trong thế giới Hồi giáo dòng Sufi. Không có một tín đồ Sufi nào có thể đạt đến tầm cao và chiều sâu như thế. Hakim Sanai đã làm những việc gần như không thể.

Nếu được cứu hai cuốn sách từ thế giới của các nhà thần bí, tôi sẽ chọn hai cuốn sách sau. Một cuốn từ thế giới thiền, Con đường tỉnh thức Hsin Hsin Ming của Sosan. Tôi đã đọc cuốn sách này; nó chứa đựng tinh hoa của thiền, của con đường tỉnh thức và thiền. Cuốn sách còn lại là Hadiqa Tu’l Haqiqat: The Walled Garden of Truth của Hakim Sanai.

The Hadiqa là hương thơm tinh khiết của con đường tình yêu. Giống như Sosan có thể nắm bắt được linh hồn của thiền thì Hakim Sanai đã nắm bắt được linh hồn của Sufi. Những cuốn sách như thế không phải được viết, mà được sinh ra. Không ai có đủ khả năng viết chúng. Chúng không được sản xuất từ trí óc, bằng trí óc, mà đến từ trên cao. Chúng là món quà. Chúng ra đời một cách bí ẩn như một đứa trẻ, hay một chú chim, hay một bông hồng. Chúng đến với chúng ta, chúng là những món quà.

Có một câu chuyện thật đẹp về sự xuất hiện bí ẩn của cuốn sách vĩ đại này.

Bahramshab, sultan (vua) của Ghazna, đưa quân đến Ấn Độ trong hành trình chinh phục đất nước này. Hakim Sanai, nhà thơ nổi tiếng của hoàng cung, cũng có mặt trong chuyến đi đó. Họ đi qua một khu vườn lớn, một khu vườn có tường bao quanh.

Họ đang vội vã; với đội quân hùng mạnh, vua Bahramshab đến để chinh phục Ấn Độ. Ông ấy không có thời gian. Nhưng điều gì đó bí ẩn đã xảy ra khiến ông ấy phải dừng bước; không có cách nào tránh được. Tiếng hát cất lên từ trong khu vườn đã khiến sultan chú ý. Ông ấy là một người yêu âm nhạc, nhưng chưa bao giờ nghe được âm thanh giống như vậy. Ông ấy có những nhạc sĩ tài ba trong hoàng cung, cả các ca sĩ và vũ công tài giỏi, nhưng không gì sánh được với âm thanh này. Tiếng hát, tiếng nhạc và tiếng nhảy múa – ông ấy chỉ nghe từ bên ngoài nhưng đã ra lệnh cho quân lính dừng lại. Thật mê ly. Âm thanh của điệu nhảy, tiếng nhạc và tiếng hát đó quá phiêu linh như thể người ta rót rượu lên người ông ấy – sultan đã say. Hiện tượng đó dường như không thuộc về thế giới này. Chắc hẳn có điều gì đó vượt ra khỏi thế giới này: điều gì đó từ bầu trời đang tìm cách chạm đến mặt đất, điều gì đó từ thế giới không biết đang tìm cách trao đổi với thế giới đã biết. Ông ấy phải dừng lại để lắng nghe.

Có sự xuất thần trong đó – quá đỗi ngọt ngào và cũng quá đau đớn, nó như đang xé nát trái tim bạn. Ông ấy muốn đi tiếp, ông ấy đang vội; ông ấy phải đến Ấn Độ sớm, đây là thời điểm thích hợp để chinh phục kẻ thù. Nhưng không còn cách nào khác. Có một sức hút mãnh liệt, kỳ lạ và khó cưỡng từ âm thanh đó khiến ông ấy phải đi vào khu vườn.

Đó là Lai-Khur, một nhà thần bí vĩ đại thuộc Sufi, nhưng được đám đông biết đến như là một kẻ say rượu, một gã điên. Lai-Khur là một trong những tên tuổi vĩ đại nhất. Không có gì nhiều về ông ấy, những người như thế không để lại nhiều dấu vết. Ngoài câu chuyện này thì không còn gì khác. Nhưng Lai-Khur đã sống trong ký ức của những người Sufi, qua nhiều thế hệ. Ông ấy tiếp tục ám ảnh thế giới của người Sufi bởi vì sẽ không có một người nào như thế được tìm thấy.

Ông ấy say đến mức không có gì sai khi người ta gọi ông ấy là kẻ say rượu. Ông ấy say suốt hai mươi bốn giờ, say với thần thánh. Ông ấy bước đi như một người say, ông ấy giống như một người say, hoàn toàn lãng quên thế giới. Và cách nói chuyện của mình, ông ấy đúng là điên rồ. Đây chính là đỉnh cao nhất của sự xuất thần, khi những biểu hiện của một nhà thần bí chỉ có thể được hiểu bởi các nhà thần bí khác. Đối với đám đông, chúng trông chẳng liên quan, chúng trông giống như những lời nói lắp bắp.

Đối với những kẻ ngu dốt, biểu hiện bên ngoài của ông ấy thật xúc phạm, báng bổ, đi ngược lại với truyền thống và chống lại các nghi thức, quy tắc xã giao – chống lại tất cả những gì được biết và được hiểu như là tôn giáo. Nhưng đối với những người hiểu biết, chúng không khác nào vàng nguyên chất.

Ông ấy chỉ có thể được tiếp cận bởi một vài người có chọn lọc, bởi vì chỉ vài người được chọn lọc mới có thể đạt đến tầm cao nơi ông ấy sống. Ông ấy sống trên đỉnh Everest của tâm thức, bên trên những đám mây. Chỉ có những người đủ may mắn và can đảm leo lên ngọn núi này mới có thể hiểu được những điều ông ấy nói. Đối với đám đông, ông ấy là một người điên. Đối với những người biết, ông ấy chỉ là phương tiện của Thượng đế, và tất cả những gì xuất hiện thông qua ông ấy đều là chân lý, chân lý và chỉ có chân lý.

Lai-Khur chủ ý làm cho mình trở nên tai tiếng. Đó là cách ông ấy trở nên vô hình trong mắt đám đông. Người Sufi luôn làm thế: họ có một phương pháp rất kỳ lạ để trở nên vô hình. Họ vẫn hữu hình – họ vẫn sống trong thế giới, họ không trốn thoát khỏi nó – nhưng họ chủ ý tạo ra một hoàn cảnh nào đó xoay quanh họ, để mọi người không còn tìm đến họ. Đám đông, những người hiếu kỳ, những kẻ ngu ngốc, sẽ không còn tìm đến họ; người Sufi không tồn tại vì họ, họ quên hết tất cả. Đây là phương pháp cổ xưa mà người Sufi đã sử dụng để dạy bảo các đồ đệ của họ.

Lai-Khur đã chủ ý khiến mình trở nên tai tiếng. Ông ấy chỉ hữu hình khi quan sát từ xa. Một bậc thầy, nếu thật sự muốn làm việc, nếu muốn hàm ý công việc, phải trở nên vô hình đối với những người không phải là người tìm kiếm thật sự. Đó là những gì Gurdjieff từng nói. Hẳn Gurdjieff đã học được vài điều từ Lai-Khur. Gurdjieff đã sống với các bậc thầy Sufi trong nhiều năm trước khi ông ấy chính thức trở thành thầy. Và khi tôi kết thúc câu chuyện này, bạn sẽ nhìn thấy nhiều điểm tương đồng giữa Gurdjieff và Lai-Khur.

Lai-Khur đã gọi rượu và ăn mừng “sự mù quáng của vua Bahramshah”. Giờ đây, lần đầu tiên, nhà thần bí gọi rượu. Những người có tín ngưỡng không được uống rượu. Đó là một trong những tội lỗi lớn nhất khi một người Hồi giáo uống rượu; nó chống lại kinh Koran, nó đi ngược lại lý tưởng tôn giáo về cách sống của một vị thánh. Lai-Khur gọi rượu và ăn mừng “sự mù quáng của vua Bahramshah”.

Hẳn vị sultan đó phải nổi điên. Hẳn ông ấy phải rất tức giận – dám gọi ông ấy là mù quáng? Nhưng ông ấy vẫn còn ngây ngất trước âm thanh của Lai-Khur. Do đó, dù sôi sục trong lòng nhưng ông ấy vẫn không nói một lời nào.

Âm thanh và điệu nhảy tuyệt đẹp đó vẫn còn ám ảnh ông ấy, chúng vẫn còn ở trong trái tim ông ấy. Ông ấy đã bị đưa đến một thế giới khác. Nhưng những người khác phản đối, tể tướng và các cận thần của ông ấy đều phản đối.

Khi mọi người phản đối, Lai-Khur cười như điên và khẳng định rằng sultan xứng đáng mù lòa bởi vì dấn thân vào hành trình ngu ngốc. “Ông có thể chinh phục gì trong thế giới? Tất cả đều phải để lại phía sau. Ý nghĩ chinh phục thật ngu ngốc, hoàn toàn ngu ngốc. Ông định đi đâu? Ông là kẻ mù lòa! Bởi vì kho báu đang ở bên trong ông”, Lai-Khur nói. “Còn ông thì đến Ấn Độ; lãng phí thời gian của mình, lãng phí thời gian của người khác. Còn cần gì thêm để có thể gọi một người là mù quáng?”, Lai-Khur khẳng định. “Sultan này mù quáng. Nếu không mù, ông ấy nên quay trở về nhà và quên hết tất cả những sự chinh phục này đi. Đừng xây lâu đài trên cát. Đừng theo đuổi giấc mơ, đừng bị điên. Hãy trở về! nhìn vào bên trong!”.

Người có mắt sẽ nhìn vào bên trong, người mù nhìn ra bên ngoài. Người có mắt tìm kiếm kho báu bên trong. Người mù lùng sục khắp thế giới, cầu xin, lấy cắp của người khác, giết hại, với hy vọng rằng anh ta sẽ tìm thấy điều mà mình đang bỏ lỡ. Đó không phải là cách tìm kiếm, bởi vì bạn không đánh mất nó bên ngoài. Bạn đã đánh mất nó trong bản thể của mình: ánh sáng phải được mang đến đây.

Lai-Khur khẳng định rằng sultan ấy bị mù. “Nếu ông ấy không bị mù, hãy chứng minh đi: hãy ra lệnh quân đội quay về. Quên hết tất cả cuộc chinh phục này, và đừng bao giờ bắt đầu một cuộc chinh phục khác. Tất cả những thứ này đều vô nghĩa!”.

Sultan thấy ấn tượng nhưng không thể quay trở về. Hẳn một tình huống tương tự đã xảy ra trước đó, khi Alexander Đại đế đến chinh phục Ấn Độ, một nhà thần bí khác – Diogenes – đã chế giễu ông ấy. Người đó nói:

- Vì sao ư? Vì điều gì mà ngài thực hiện một cuộc hành trình dài như thế? Ngài sẽ được gì khi chinh phục Ấn Độ, hay chinh phục cả thế giới này?

Và Alexander đáp:

- Ta muốn chinh phục cả thế giới để cuối cùng ta có thể nghỉ ngơi, thư giãn và tận hưởng.

Diogenes cười nói:

- Ngài là một tên ngốc, bởi vì ta đang nghỉ ngơi đây!

Lúc đó Diogenes đang nghỉ ngơi, thư giãn bên bờ sông. Đó là một buổi sáng sớm và ông ấy đang tắm, trần truồng trên cát. Ông ấy nói:

- Ta đang nghỉ ngơi, thư giãn, và ta chưa chinh phục thế giới. Ta chưa nghĩ đến việc chinh phục thế giới. Cho nên, nếu ngài đang chinh phục thế giới và tìm cách giành chiến thắng chỉ để nghỉ ngơi, thư giãn, điều đó hoàn toàn vô nghĩa, bởi vì ta đang nghỉ ngơi mà không cần phải chinh phục thứ gì. Và bờ sông này đủ lớn, nó đủ chỗ cho cả hai chúng ta. Hãy nghỉ ngơi ở đây. Hãy ném quần áo của ngài đi, tắm rửa thật sạch, rồi quên hết mọi chuyện về việc chinh phục đi! Và hãy nhìn ta đây. Ta là kẻ chinh phục mà không cần chinh phục thế giới. Còn ngài là một tên ăn mày.

Tình huống tương tự hẳn đã xảy ra với vua Bahramshah, và hẳn Lai-Khur cũng đã hành động như thế. Trong thế giới này, chỉ có hai loại người: những người biết, và những người không biết. Tình huống tương tự lại xảy ra, câu chuyện tương tự lại xảy ra. Đôi khi, chính Alexander Đại đế là người đóng vai người mù, còn Diogenes tìm cách đánh thức ông ấy. Lúc khác, chính Lai-Khur tìm cách đánh thức vua Bahramshah.

Alexander nói: “Ta xin lỗi. Ta có thể hiểu ý ông nhưng ta không thể quay lại. Ta phải chinh phục thế giới này; không chinh phục nó, ta không thể nghỉ ngơi. Hãy thứ lỗi. Và ngài nói đúng, ta thừa nhận điều đó”.

Và câu chuyện tương tự xảy ra với Bahramshah. Ông ấy buồn, xấu hổ. Nhưng ông ấy nói: “Hãy thứ lỗi, ta phải đi. Ta không thể quay lại. Ấn Độ phải bị chinh phục. Ta sẽ không thể nghỉ ngơi hay ngồi yên cho đến khi chinh phục được Ấn Độ”.

Và rồi có cả lời chúc mang tên “sự mù quáng của Hakim Sanai” bởi vì ông ấy là người thân cận nhất của vua Bahramshah. Ông ấy là quân sư, là nhà thơ. Ông ấy là người thông thái nhất trong hoàng cung, và danh tiếng của ông ấy cũng đã lan tới nhiều vùng đất khác. Ông ấy đã là một nhà thơ hoàn mỹ; một người đàn ông thông thái, một người vĩ đại.

Có cả lời chúc mang tên “sự mù quáng của Hakim Sanai”, mà hẳn phải khiến nhà thơ lớn cảm thấy vô cùng choáng váng. Dựa trên uy tín, sự thông thái và nhân cách của Sanai, mọi người thậm chí còn phản đối quyết liệt hơn. Hakim Sanai là người có nhân cách, một người rất có phẩm hạnh, rất có tín ngưỡng. Không ai có thể tìm thấy sai sót ở ông ấy. Ông ấy đã sống một cuộc đời rất tỉnh táo, ít nhất là trong mắt của chính mình. Ông ấy là người có lương tâm.

Ngày càng có nhiều người phản đối. Có thể đúng là vua Bahramshah mù quáng, ông ấy tham lam, ông ấy có tham vọng lớn, ông ấy khát khao muốn sở hữu mọi thứ, nhưng điều này không thể áp dụng cho Hakim Sanai. Hakim Sanai đã sống một đời thanh bạch, cho dù ông ấy ở trong hoàng cung. Cho dù là người đáng kính nhất trong cung điện của vua Bahramshah nhưng ông ấy đã sống như một người nghèo – đơn giản, khiêm nhường, vô cùng thông thái và có chí khí.

Nhưng Lai-Khur cho rằng lời chúc đó đúng vì Sanai dường như không nhận biết được mục đích mà ông ấy đã được tạo ra; và khi được đưa đến trước Đấng Sáng tạo và được yêu cầu bộc lộ chính mình, ông ấy chỉ có thể tạo ra một vài lời khen ngợi vớ vẩn cho đám vua chúa ngu ngốc, đám người buồn tẻ như ông ta.

Lai-Khur nói rằng lời chúc đó đúng bởi vì người ta trông đợi nhiều hơn từ Hakim Sanai so với vua Bahramshah. Ông ấy có tiềm năng lớn hơn và ông ấy đang lãng phí nó để tạo ra những lời khen ngợi cho đám vua chúa ngu ngốc. Ông ấy sẽ không thể đối mặt với Thượng đế; ông ấy sẽ gặp khó khăn, ông ấy sẽ không thể trả lời với chính mình. Tất cả những gì ông ấy có thể tạo ra là bài thơ này, được viết để khen ngợi những tên vua ngu ngốc giống như người đàn ông mù quáng Bahramshah này.

Ông ấy còn mù quáng hơn nữa, hoàn toàn mù lòa.

Và khi lắng nghe những lời này, nhìn vào mắt gã điên Lai-Khur, điều gì đó kỳ diệu đã xảy ra với Hakim Sanai: satori hay còn gọi là ngộ – một trải nghiệm khai sáng bất ngờ. Điều gì đó đã chết trong ông ấy ngay tức thì. Và điều gì đó, hoàn toàn mới, được sinh ra. Trong một khoảnh khắc, sự biến đổi đã xảy ra. Ông ấy không còn là người như trước nữa. Người điên này đã thật sự đi vào linh hồn của mình. Người điên này đã đánh thức được chính mình. Trong lịch sử Sufi, đây là trường hợp satori duy nhất. Trong thiền, có nhiều trường hợp đã xảy ra; tôi đã nói với bạn về những trường hợp này. Nhưng trong thế giới của Sufi, đây là trường hợp satori duy nhất, sự giác ngộ đột ngột – không theo hệ thống phương pháp, không diễn ra từng bước; mà nó xảy ra đột ngột.

Hẳn Lai-Khur phải là người am hiểu sâu sắc. Hakim Sanai quỳ xuống, chạm vào chân người điên này và khóc trong vui sướng rằng mình đã về nhà. Ông ấy đã chết và đã được tái sinh.

Đó chính là ý nghĩa của satori: chết và được tái sinh. Đó là sự tái sinh.

Ông ấy rời khỏi vua Bahramshah và lên đường hành hương đến Mecca. Vua Bahramshah chưa sẵn sàng để cho ông ấy ra đi và tìm mọi cách ngăn cản: nhà vua thậm chí còn muốn gả em gái của mình và trao nửa vương quốc cho Hakim Sanai. Nhưng giờ đây, tất cả đều vô nghĩa. Hakim Sanai chỉ cười nói: “Thần không còn là kẻ mù lòa. Tạ ơn bệ hạ nhưng thần đã xong. Người điên này đã kết thúc thần chỉ bằng một cú đánh, một cú đánh duy nhất”. Và ông ấy lên đường hành hương đến Mecca. Vì sao ư? Về sau, khi được hỏi, ông ấy đáp: “Chỉ để lĩnh hội, chỉ để tiêu hóa những gì mà người điên kia đã trao cho tôi quá đột ngột. Nó thật quá sức! Nó quá choáng ngợp! Ta cảm thấy choáng váng; nó cần phải được tiêu hóa. Ông ấy đã trao cho ta nhiều hơn mức mà ta xứng đáng có được”.

Cho nên, Hakim Sanai tìm đến thánh địa Mecca để chiêm nghiệm, để tĩnh lặng, để là một kẻ hành hương vô danh, không ai biết đến. Sự việc đã xảy ra nhưng nó phải được lĩnh hội. Ánh sáng đã sáng nhưng bạn phải quen với nó. Và khi ông ấy trở nên quen thuộc với dạng thức mới, với phiên bản mới, ông ấy đã trở lại gặp Lai-Khur và tặng cuốn sách của mình – The Hadiqa. Đó là những gì ông ấy đã viết trên đường trở về từ thánh địa Mecca.

Ông ấy đã trút hết trải nghiệm của mình, satori của mình, vào cuốn sách này. Những từ ngữ này đã thấm đượm satori. Đây là cách một cuốn sách vĩ đại ra đời, giống như một đứa trẻ được sinh ra, một cách bí ẩn; giống như hạt giống trở thành chồi non, một cách bí ẩn; giống như con chim non chui ra khỏi vỏ trứng, một cách bí ẩn. Giống như nụ hoa mới hé vào sáng tinh mơ và nở thành một bông hoa, và hương thơm lan tỏa trong gió.

Tuy nhiên, cuốn sách này không được viết. Nó là món quà từ Thượng đế. Cuốn sách này là món quà từ Thượng đế, và là lòng biết ơn của Hakim Sanai dành cho người điên Lai-Khur.

***

Bạn không thể tạc tượng một người Sufi, bởi vì bức tượng không thể diễn tả được điệu múa của người đó, bức tượng không thể thể hiện được ca khúc của người đó, bức tượng không thể bày tỏ được tình yêu, lời cầu nguyện, lòng biết ơn của người đó. Cơn điên xuất thần của người đó sẽ không được thể hiện qua bức tượng. Bức tượng chỉ có thể được tạc cho người chiêm nghiệm. Người chiêm nghiệm là một bức tượng – im lặng, lạnh lẽo, trống rỗng. Sự trống rỗng chứa đựng sự thuần khiết, đó là sự thật, nhưng vẫn thiếu điều gì đó. Nó thiếu sự phong phú, nó thiếu sự sống, nó thiếu niềm vui cực lạc.

Và đó là điều sẽ xảy ra với những người đi qua con đường của Via Unitiva: con đường của họ là con đường của sự hợp nhất cực lạc. Giống như hai người yêu nhau đang ôm ấp nhau, đi vào trong nhau – không chỉ thể xác mà cả tinh thần – trở nên hòa tan vào nhau và một kiểu hợp nhất sẽ xuất hiện… Hai cá thể trở thành một. Và khi hai cá thể này trở thành một, thực ra là ba thứ trở thành một: người yêu, người được yêu và tình yêu.

Tình yêu là một hiện tượng rất vững chắc đối với những người yêu nhau. Trên thực tế, người yêu và người được yêu sẽ không là gì khi so sánh với thực tại của tình yêu. Tình yêu thật hơn rất nhiều so với sự hiện hữu của mỗi người. Cho nên, khi những người yêu nhau gặp nhau, ba thứ sẽ gặp nhau.

Để hình tượng hóa điều này, tại Ấn Độ, chúng tôi đã tạo ra một nơi thiêng liêng thật đẹp có tên là Preyag, nơi được cho là có ba dòng sông gặp nhau. Hai dòng sông hữu hình, dòng sông thứ ba là vô hình. Một là sông Hằng, rất hữu hình; hai là sông Yamuna, rất hữu hình; và ba là Saraswati – không ai có thể nhìn thấy nó. Nó ở đó nhưng bạn phải tin nó ở đó; nó vô hình.

Đối với tâm trí khoa học, nó thật vô lý. Làm sao có một con sông vô hình? Chưa ai từng nhìn thấy nó, nhưng người Hindu cứ nói rằng có sự gặp gỡ của ba dòng sông: hai dòng sông của thế giới này và một dòng sông của thế giới khác. Hai dòng sông thuộc về trái đất, còn dòng thứ ba thuộc về trên cao.

Đây thật sự là hình ảnh ẩn dụ về tình yêu. Khi hai người yêu nhau gặp nhau, ba thứ sẽ gặp nhau, ba nguồn năng lượng gặp nhau: hai nguồn đến từ trái đất này, còn một nguồn đến từ phía trên. Hai nguồn là hữu hình, bạn có thể nhìn thấy người yêu và người được yêu, nhưng bạn sẽ không thể nhìn thấy tình yêu, thứ có giá trị hơn rất nhiều so với hai thứ kia. Trên thực tế, chính nhờ nguồn thứ ba mà hai nguồn kia gặp nhau, chính nhờ nguồn thứ ba mà hai nguồn kia đang tan biến. Và khi cả hai tan biến, nguồn thứ ba cũng tan biến, nhưng một lần nữa, đó lại là một hiện tượng hoàn toàn khác.

Đó là lý do vì sao Sanai gọi con đường của mình là “con đường của khu vườn”. Con đường của thiền/chiêm nghiệm là một kiểu sa mạc. Sa mạc có vẻ đẹp riêng của nó: nếu sống ở sa mạc vào ban đêm, bạn sẽ cảm nhận một bầu không khí mát mẻ mà bạn không tìm thấy ở nơi nào khác, và nó có sự im lặng khôn cùng, một sự im lặng bao la, vô tận. Nó có hương vị riêng. Dưới bầu trời đầy sao, nếu ở sa mạc một mình, bạn sẽ không bao giờ tìm thấy sự cô đơn đó ở bất cứ nơi nào khác.

Không nơi nào trên trái đất này lại chứa đựng sự vắng vẻ, tĩnh mịch như ở sa mạc. Và không có gì khác, cho nên bạn không bị phân tâm. Mọi thứ giống hệt nhau ở khoảng cách hàng dặm. Kể cả khi bạn phóng tầm mắt về phía chân trời, mọi thứ vẫn không có gì khác. Không có gì để xem; nếu đã nhìn thấy một sa mạc, nghĩa là bạn đã nhìn thấy tất cả. Nó giống hệt nhau: cùng một khung cảnh cứ trải dài trải dài tít tận chân trời. Không có bất kỳ sự xao lãng nào.

Đó là lý do vì sao nhiều thiền sư đã đến sống tại sa mạc. Qua các thời kỳ, nhiều người đã chuyển đến sống ở sa mạc. Sức hấp dẫn của nó chính là sự tĩnh lặng và vẻ đẹp của một tình huống không gây xao lãng.

Không có gì khiến bạn xao lãng, không có gì cử động, tất cả tuyệt đối yên tĩnh. Cái chết có thể cũng chỉ yên tĩnh như sa mạc. Nó có vẻ đẹp riêng, nhưng nó thiếu đi sự phong phú và tính đa dạng.

Khu vườn có tính đa dạng: nhiều cây cối, nhiều tán lá xanh, nhiều hoa, nhiều màu sắc, chim chóc reo ca, dòng suối chảy, âm thanh của tiếng nước và tiếng gió rì rào qua các nhánh thông. Và có cả ngàn lẻ một thứ cùng xảy ra. Khu vườn tràn đầy, còn sa mạc thì trống rỗng.

Bản thể nội tâm của một người thiền trở nên giống như sa mạc, còn bản thể nội tâm của một người đang yêu trở nên giống như khu vườn. Do đó, Sanai gọi đây là The Hadiqa: Khu vườn.

Tuy nhiên, điều đó phụ thuộc vào bạn. Một người có thể thích sa mạc hơn khu vườn, nó sẽ là con đường của anh ta. Không có gì sai cả, anh ta nên đi theo con đường đó. Bạn phải nhìn vào bên trong mình và nhận ra tiềm năng của mình, các khả năng của mình, thiên hướng của mình.

Sa mạc có thể là khu vườn đối với bạn hoặc khu vườn có thể là sa mạc đối với bạn, bởi vì thức ăn của người này là thuốc độc của người khác. Chính Sanai nói rằng thế giới của những người đang yêu phong phú hơn rất nhiều – bởi vì chính người yêu đang nói về thế giới của mình, hãy nhớ điều đó.

Nhưng hãy nhớ một điều… mỗi bậc thầy đều đã nói, bởi vì có rắc rối ở cả hai con đường. Vấn đề là bạn có thể bị mắc cạn trên cầu. Người thiền có thể mê thiền đến mức anh ta bị mắc cạn trên cầu. Người yêu cũng có thể mải mê yêu đương đến mức bị mắc cạn trên cầu. Tình yêu là cây cầu, thiền cũng là cây cầu. Và bạn phải vượt lên trên cây cầu đó.

Trong trạng thái tối thượng, người thiền phải từ bỏ việc thiền của mình và người yêu phải quên tất cả về tình yêu. Nếu không, bạn sẽ chỉ đến gần cánh cửa nhưng không thể bước chân vào ngôi đền. Bạn phải quên đi phương pháp đó.

Đức Phật nói rằng mỗi phương pháp đều giống như một chiếc bè, giống như một chiếc thuyền: hãy dùng nó để đến được bờ bên kia, nhưng hãy để nó lại đó, quên nó đi và tiếp tục con đường của bạn. Không cần phải mang vác chiếc bè đó trong tâm trí bạn. Nếu cứ nghĩ đến chiếc bè, bạn chỉ là tên ngốc.

Nhưng đây là điều đang xảy ra: hàng triệu người trở nên mê muội với phương pháp của họ. Và phương pháp đó có thể rất gây nghiện bởi vì nó mang đến cho bạn nhiều trải nghiệm đẹp. Rào cản cuối cùng chính là phương pháp, rào cản cuối cùng chính là cây cầu.

Chỉ cần hiểu được điểm mấu chốt, nghe có vẻ rất nghịch lý. Cây cầu đưa bạn đến bờ bên kia: dĩ nhiên là nó có ích, và bạn nên cảm thấy biết ơn, bạn nên cảm ơn nó. Nhưng nó có thể trở thành vấn đề. Bạn có thể yêu cây cầu và bạn có thể làm nhà trên cầu. Và nếu bắt đầu sống trên cầu, bạn không phải là bờ này cũng không phải là bờ bên kia, bạn là một kiểu lao tù. Và có quá nhiều người được gọi là có tín ngưỡng đang sống trong cảnh lao tù – họ không thuộc về thế giới này, cũng không thuộc về thế giới khác. Họ đã trở nên nghiện cây cầu.

Và cây cầu thật đẹp! Do đó, mỗi tín đồ phải được biết ngay từ đầu: “Một ngày nào đó, bạn phải từ bỏ phương pháp đã giúp bạn. Khi mọi việc đã hoàn tất, đừng mang vác nó, dù chỉ trong giây lát. Khi đã khỏi bệnh, bạn phải bỏ hết các loại thuốc. Nếu bạn tiếp tục uống, nó sẽ trở thành căn bệnh của bạn”.

Tất cả các phương pháp đều là phương pháp, tất cả các phương tiện đều là phương tiện. Và nếu bạn muốn đạt đến cùng, bạn sẽ phải từ bỏ tất cả các phương tiện và phương pháp. Đó là cách duy nhất để bước vào sự tối thượng. Người yêu sẽ phải quên hết tất cả về tình yêu, còn người thiền sẽ phải quên hết tất cả về thiền. Đúng vậy, có khoảnh khắc khi người thiền không còn thiền bởi vì chính anh ta đã trở thành thiền; giờ đây, thiền không còn là một hoạt động tách biệt. Và có khoảnh khắc khi người yêu không còn yêu, bởi vì anh ta chính là tình yêu. Không có ai tách biệt khỏi tình yêu, tình yêu đã trở thành bản thể của anh ta – anh ta đã quên hết tất cả về nó.

***

Sanai là một trong những câu chuyện tình yêu của tôi. Dù muốn, tôi cũng không thể cường điệu về ông ấy. Điều đó là không thể. Sanai chính là tinh hoa của Sufi.

“Sufism” là một từ tiếng Anh dành cho “tasawuf”. “Tasawuf” có nghĩa là “tình yêu thuần khiết”. “Sufism” bắt nguồn từ “suf”, có nghĩa là len, và sufi có nghĩa là người mặc một chiếc áo choàng len. Sanai từng đội một chiếc mũ đen – một chiếc áo choàng trắng và mũ đen. Không logic, không có lý do nào cả, chỉ là một người điên giống như tôi. Nhưng bạn có thể làm được gì, những người này phải được chấp nhận như chính họ. Cho dù bạn yêu hay ghét họ. Yêu hay ghét, điều đó không thay đổi được gì. Bạn có thể ủng hộ hoặc phản đối họ, nhưng bạn không thể thờ ơ với họ. Đó chính là sự kỳ diệu của những nhà thần bí.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • Sau